MỤC
LỤC
LỜI
NGƯỜI
DỊCH
LỜI
CẢM
ƠN
LỜI
GIỚI
THIỆU:
BỨC
TRANH
TOÀN
CẢNH
PHẦN
MỘT:
SỰ
TRỖI
DẬY
CỦA
CƯỜNG
QUỐC
KINH
TẾ
TOÀN
CẦU
MỞ
ĐẦU
1
ANDREW
CARNEGIE:
Từ
nghèo
rớt
đến
giàu
tột
bậc
2
GEORGE
EASTMAN
và
sự
sáng
tạo
thị
trường
đại
chúng
3
HENRY
FORD:
Lợi
nhuận
và
cái
giá
của
chủ
nghĩa
sơ
khai
PHẦN
HAI:
TRUNG
TÂM
CỦA
KỈ
NGUYÊN
MỸ
MỞ
ĐẦU
4
THOMAS
J.
WATSON
SR.
và
nghệ
thuật
bán
hàng
kiểu
Mỹ
5
CHARLES
REVSON
VÀ
REVLON:
Hàng
tiêu
dùng
đóng
gói
và
cuộc
cách
mạng
truyền
hình
PHẦN
BA:
THỜI
ĐẠI
CỦA
CHÚNG
TA
MỞ
ĐẦU
6
SAM
WALTON:
Đặc
Mỹ
7
ROBERT
NOYCE
và
Thung
lũng
Silicon
Tiếp
cận
thế
giới
kinh
doanh
mới
PHẦN
KẾT:
THÀNH
QUẢ
VÀ
LỢI
NHUẬN
Cuốn sách này dành tặng cho
người vợ yêu dấu của tôi
Joyce R. Tedlow
Chúng ta sánh bước tay trong tay
Cùng trải qua buồn vui…(*)
Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com
hững người khổng lồ trong giới kinh doanh là một cuốn
sách đặc biệt. Trước hết, đây không chỉ là cuốn tiểu sử phác
họa chân dung của bảy doanh nhân tiêu biểu (Andrew
Carnegie, George Eastman, Henry Ford, Thomas J. Watson
Sr., Charles Revson, Sam Walton, Robert Noyce), qua đó cho thấy lịch
sử phát triển của nước Mỹ từ giữa thế kỉ XIX đến cuối thế kỉ XX. Tác
giả của cuốn sách, giáo sư lịch sử kinh doanh của Trường Kinh doanh
Harvard Richard S. Tedlow, dường như đi tới kết luận rằng bản sắc
của Hoa Kì là kinh doanh: Không ở đâu trên thế giới này doanh nhân
lại được tôn vinh và môi trường kinh doanh lại thuận lợi như ở Mỹ.
Để chứng minh, mỗi chương sách là một gương doanh nhân với rất
nhiều bài học sâu sắc và không hề lỗi thời theo thời gian. Và tất cả các
phân tích trường hợp về gương doanh nhân tạo nên bức tranh toàn
cảnh về quá trình trỗi dậy của Hoa Kì trở thành một cường quốc toàn
cầu.
Thứ hai, dễ nhận thấy rằng mỗi một chương sách về tiểu sử nhân
vật là sự kết hợp của ba yếu tố: lịch sử, kinh doanh và tâm lí. Ba yếu
tố này không nhất thiết được trình bày lần lượt mà hòa quyện với
nhau, bổ sung cho nhau khiến cho sự nghiệp và đời tư của từng nhân
vật được mô tả trở nên sắc nét, sống động. Chẳng hạn trong tiểu sử
của Andrew Carnegie, doanh nhân đầu tiên được nêu trong cuốn sách
này, độc giả chứng kiến quá trình vươn lên từ nghèo khó của một
người sinh trưởng trong một gia đình Scotland di cư đến Tân Thế
Giới, thành đạt trong giai đoạn 1860 - 1870 khi nước Mỹ trải qua
những biến cố lớn: cuộc Nội chiến giữa hai miền Bắc - Nam và cuộc
suy thoái nghiêm trọng về kinh tế, từ đó gây dựng nên đế chế thép của
riêng mình và trở thành người giàu nhất thế giới. Trong quá trình
này, tính cách và lối hành xử định hình nên con người Carnegie vừa
là nguyên nhân vừa là kết quả cho cả thành công lẫn thất bại của ông
trong sự nghiệp và đời tư được tác giả nhìn nhận bằng một nhãn
quan tâm lí học độc đáo và tinh tế mang màu sắc Freud, cụ thể là mối
quan hệ phức tạp giữa Carnegie với cha và mẹ của ông.
Thứ ba, tác phẩm này của Richard S. Tedlow không chỉ toàn một
màu hồng, hay rặt một thứ thanh âm ngợi ca tán tụng về những vĩ
nhân như Carnegie đã thành công trong việc biến “Giấc mơ Mỹ” trở
thành hiện thực. Cuốn sách còn lạnh lùng nói về cái giá của thành
công cá nhân. Bảy doanh nhân được nêu trong sách có một điểm
chung: Họ đều có tầm nhìn. Họ thấy những điều mà người khác
không thấy, nắm lấy cơ hội và theo đuổi mục tiêu đến cùng. Và vô
tình hay hữu ý, để hiện thực hóa tầm nhìn, họ đặt mình vào thế buộc
phải gạt bỏ hoặc hi sinh những điều mà họ trân quý: tình cảm gia
đình, tình thầy trò, tình bằng hữu, thậm chí quên cả bản thân như
trường hợp George Eastman... Ai đó có thể gọi đây là sự nhẫn tâm. Và
tác giả không ít lần đặt ra câu hỏi về bản chất của hoạt động kinh
doanh: Có phải tất cả chỉ vì lợi nhuận hay không? Có thể có sự hài hòa
giữa việc mưu cầu lợi nhuận của doanh nghiệp và lợi ích chung của
cộng đồng không? Trên bình diện rộng hơn, tác giả cũng không ngần
ngại chỉ ra cái giá của một môi trường khích lệ kinh doanh: “Kết quả
là [tạo ra] một xã hội trong đó mục tiêu dường như là mang lại cơ hội
bình đẳng cho mọi người để trở nên bất bình đẳng”.
Trên đây chỉ là một vài nét lớn về cuốn sách. Không chỉ có thế,
độc giả chắc chắn sẽ không phải hối tiếc khi dành thời gian đọc và suy
ngẫm những lập luận chặt chẽ, những đánh giá sắc bén, giàu triết lí,
dựa trên những cứ liệu đáng tin cậy, được so sánh, sắp xếp một cách
khoa học. Thêm vào đó, ngôn từ phong phú, hàm súc và hình ảnh văn
học xuất hiện khắp nơi trong sách, trải từ những tác phẩm kinh điển
của Hy-La cổ đại cho tới văn học Âu-Mỹ hiện đại, được Richard
Tedlow viện dẫn và vận dụng một cách tài tình, khiến cho công trình
về lịch sử kinh doanh này của ông tránh được sự khô khan thường
thấy ở những tác phẩm cùng loại.
Nhóm dịch chúng tôi thực sự vinh hạnh được chuyển ngữ sang
tiếng Việt cuốn sách đặc biệt có giá trị này. Tuy nhiên, trong quá trình
chuyển ngữ, chúng tôi gặp phải không ít khó khăn. Ngoài phạm vi
rộng lớn của tác phẩm, bao trùm khoảng thời gian gần hai thế kỉ, trải
rộng trên nhiều lĩnh vực kinh doanh (thép, máy ảnh, xe hơi, máy tính,
mỹ phẩm, điện tử bán dẫn,...), thì chính những ưu điểm đã nêu ở trên
(sự lồng ghép giữa lịch sử, kinh doanh và tâm lí; cách trình bày đậm
chất văn học và giàu triết lí) đã thực sự thách đố lòng kiên trì và sự tỉ
mỉ của chúng tôi. Ngoài những chú thích của tác giả, chúng tôi có
thêm vào một số chú thích của người dịch (kí hiệu là ND) để người
đọc có thể hiểu rõ những hàm ý hoặc ý đồ của tác giả. Mặt khác,
chúng tôi cũng mạn phép lược bớt những chú thích dẫn nguồn tư liệu
vốn vô cùng quan trọng đối với một công trình học thuật nhưng
không thực sự cần thiết cho bạn đọc rộng rãi mà chúng tôi đang
hướng đến. Nếu điều này có gây ra sự bất tiện nào, mong quí độc giả
gửi ý kiến phê bình cho chúng tôi. Và cuối cùng, vì sự phức tạp của
cuốn sách cũng như khả năng dịch thuật còn hạn chế, rất mong bạn
đọc góp ý cho chúng tôi để bản dịch được hoàn thiện hơn.
Thay mặt nhóm dịch
Vũ Trọng Đại
LỜI CẢM ƠN
hi tập hợp danh sách những người đã giúp đỡ tôi trong quá
trình viết cuốn sách này, tôi khá bất ngờ khi thấy mình phải
chịu ơn nhiều người đến vậy. Quả thực tôi quá may mắn vì có
rất nhiều bạn bè và đồng nghiệp đã giúp tôi thực hiện dự án
này.
Helen Rees, người đại diện của tôi, trước hết vì cô đã tin tưởng
vào cuốn sách và những lời khuyên của cô ấy là điều không thể thiếu
từ khi tôi khởi soạn cho tới khi hoàn thành cuốn sách này. Cô đã giúp
tôi liên hệ với Adrian Zackheim – Phó chủ tịch cấp cao kiêm Phó tổng
biên tập của HarperBusiness và chúng tôi đã đạt được thỏa thuận qua
điện thoại chỉ trong vòng một phút với sự trợ giúp của Helen. Adrian
và nhóm của ông, trong đó có Joe Veltre, đã hiểu sâu sắc về điều tôi cố
gắng làm được thông qua cuốn sách Những người khổng lồ trong
giới kinh doanh.
Nhiều năm trước, tôi cứ suy nghĩ mãi về việc viết cuốn sách này,
nhưng chỉ bắt tay vào việc viết lách khi Kim B. Clark trở thành hiệu
trưởng Trường Kinh doanh Harvard vào năm 1995. Tôi đã được
hưởng nhiều ích lợi từ những mục tiêu cũng như những khát vọng
mà ông dành cho nhà trường. Những người khổng lồ trong giới kinh
doanh đã được Phòng Nghiên cứu tài trợ – tại đây, Ken Froot hết
năm này qua năm khác luôn tỏ ra là người hào phóng. Mỗi chương
sách trình bày một buổi seminar tại trường và những kết quả nghiên
cứu mới của buổi seminar đó. Tôi đã nhận được những lời khuyên và
ý tưởng của nhiều đồng nghiệp trong khoa, cụ thể là Carliss Baldwin,
Adam Brandenburger, Al Chandler, John Deighton, Bob Dolan, Susan
Fournier, Linda Hill, Geoff Jones, Bob Kennedy, Rakesh Khurana,
Nancy Koehn, Anita McGahan, Huw Pill, Forest Reinhardt, Mike
Roberts, Dick Rosenbloom, Julio Rotemberg, Bill Sahlman, Walt
Salmon, Debora Spar, Don Sull, Dick Vietor, Jonathan West, David
Yoffie và Abe Zaleznik. Xin dành lời cảm ơn đặc biệt tới Tom
McCraw, người đứng đầu bộ môn Lịch sử Kinh doanh của Trường
Kinh doanh Harvard.
Đối với nhà trường, tôi xin bày tỏ sự tri ân với Chris Albanese,
Chris Allen, Kim Bettcher, Jeff Cronin, Chris Darwall, Sarah Eriksen,
Walter Friedman, Courtney Purrington, Kathleen Ryan và Margaret
Willard.
Nhiều học giả, doanh nhân và bạn bè đã không ngần ngại giúp đỡ
tôi, bao gồm Jim Amoss, Ann Bowers, Kathy Connor, Lillian CravottaCrouch, Bob Cuff, Bill Donaldson, Lynn Groff, Andy Grove, Reed
Hundt, Richard John, Analisa Lattes, Erik Lund, Sandy Lynch,
Darlene Mann, Susan McGraw, Gordon Moore, Pendred Noyce, M.D.,
Rowena Olegario, Cliff Reid, Martin Revson, Barbara Rifkind, Arthur
Rock, Linda Smith, Charles Spencer, Irwin Tomash và Les Vadasz.
Tuy nhiên, người mà tôi phải chịu ơn nhiều nhất chính là vợ tôi,
Joyce. Là nhà tâm lí học, Joyce không những đưa ra cách đánh giá
thông minh về những chủ đề trong cuốn sách này mà còn là chỗ dựa
tinh thần tuyệt vời cho tác giả. Cô ấy đã làm điều này trong điều kiện
sức khỏe không tốt. Nhưng cô ấy không bao giờ đánh mất niềm tin.
Tính cách của một người chính là số phận của anh ta.
– Heraclitus, trích trong Charles H. Kahn, Nghệ thuật và tư duy của
Heraclitus: Tập hợp tư liệu kèm bản dịch và chú giải (The Art and
Thought of Heraclitus: An Edition of the Fragments with Translation
and Commentary)
Cuối cùng tôi đã có quyền đưa ra những phương hướng [lãnh đạo]
đối với bối cảnh tổng thể. Tôi cảm thấy như mình đang bước đi cùng
vận mệnh và tất cả quãng đời đã qua của tôi chưa đủ để tôi chuẩn bị
cho giờ phút này và cho thử thách này.
– Winston Churchill, sau khi được bổ nhiệm làm Thủ tướng Anh,
ngày 10 tháng 6 năm 1940, trích theo Martin Gilbert, Cuộc đời
Churchill (Churchill, A Life)
ây là cuốn sách viết về những người Mỹ làm tốt nhất việc
thành lập và phát triển những doanh nghiệp mới. Nó nói về
những con người đã phá vỡ những nguyên tắc cũ và tạo ra
những nguyên tắc mới, xây dựng nên những thế giới mới,
quyết tâm lãnh đạo chứ không chịu bị lãnh đạo, khám phá những
công cụ và công nghệ mới khi thời đại của họ mới chỉ mơ hồ ý thức
được về chúng để phục vụ cho những thị trường, mà ở chừng mực
nào đó, đã được chính họ tạo ra. Bảy con người được khắc họa chân
dung trong cuốn sách này là các cá nhân có động lực và sức cạnh
tranh vô cùng lớn lao, họ đã sống trong một đất nước và nền văn hóa
khuyến khích những đặc tính này và định hướng họ vào con đường
kinh doanh. Mỗi người trong số họ, theo cách riêng của mình, là một
cá nhân xuất chúng, sống trong một quốc gia cho phép họ bộc lộ đầy
đủ tài năng. Những con người ấy ở đất nước này đã được hưởng sự
tự do như bất kì ai khác trên thế giới.
Nếu bảy người này là người Ý, có lẽ họ đã trở thành những nhà
soạn nhạc; và thế giới đã có thêm một Verdi(1) thứ hai thay vì nghệ
thuật nhiếp ảnh dành cho thị trường đại chúng. “Vì chúng ta, ông đã
khóc; vì chúng ta, ông đã yêu”, D’Annunzio đã nói như vậy trong bài
tiễn biệt tại buổi tưởng niệm Verdi. Nếu là người Nga, có lẽ họ đã trở
thành những tiểu thuyết gia. Ngày 27 tháng 9 năm 1867, trong quá
trình viết tác phẩm Chiến tranh và hòa bình, Tolstoy viết thư cho vợ:
“Chúa Trời đã ban cho anh sức khỏe, sự bình an và tĩnh lặng và anh
sẽ mô tả trận Borodino như thể nó chưa bao giờ được mô tả”. Nếu là
người Bồ Đào Nha, có lẽ họ đã trở thành những nhà hàng hải; nếu là
người Đức, họ là chiến binh; nếu là người Nhật, họ là nô bộc của nhà
nước; nếu là người Rumani, họ là những vận động viên thể dục dụng
cụ, v.v…
Nước Mỹ đã sản sinh ra những người có thể làm mọi điều trên
(nên những quốc gia trên đều đã sản sinh ra những doanh nhân);
nhưng, nói chung, nước Mỹ là một quốc gia và một nền văn hóa
không phân biệt bản thân nó như một quốc gia/một nền văn hóa ưu
việt nhất trong số các quốc gia trên thế giới. Những ví dụ ưu tú cá biệt
xuất hiện dưới những hình thức nỗ lực khác nhau ở khắp nơi trên thế
giới, đôi khi ở những nơi ít ai nghĩ tới. Tuy nhiên, khi quan sát một
quãng thời gian dài, người ta có thể nói rằng 250 năm là khoảng thời
gian đủ lâu để khẳng định nước Mỹ là nơi tốt nhất để khởi dựng và
phát triển doanh nghiệp. Do đó, đây là cuốn sách nói về điều tốt nhất
trong những điều tốt nhất.
Tại sao lại là bảy người này? Lí do quan trọng nhất chính là cuộc
đời và sự nghiệp của họ diễn ra trong một thời kì lâu dài. Andrew
Carnegie sinh năm 1835. Ông trở thành một thế lực trong thế giới
kinh doanh vào thập niên 1860. Tiểu sử của hai người cuối là Sam
Walton và Robert Noyce, họ đều qua đời vào thập niên 1990. Vì vậy,
sự nghiệp của họ đem lại cơ hội xem xét việc thành lập và phát triển
những doanh nghiệp ở Hoa Kì đã thay đổi theo thời gian như thế nào.
Bảy tiểu sử nhân vật trong cuốn sách này được chia làm ba phần.
Phần thứ nhất – Carnegie, Eastman và Ford – minh họa cho quá
trình chuyển biến của Hoa Kì từ một nước đang phát triển trở thành
quốc gia lãnh đạo thế giới. Phần thứ hai – Watson và Revson – minh
họa cho phong cách lãnh đạo của nhà buôn công nghiệp (IBM) và nhà
buôn hàng tiêu dùng (Revlon) vào những thập niên giữa thế kỉ XX.
Phần thứ ba – Walton và Noyce – mang lại hình ảnh tương phản
tương tự giữa doanh nghiệp hàng tiêu dùng (Wal-Mart) và doanh
nghiệp công nghiệp (Intel) vào cuối thế kỉ XX. Các tiểu luận này cũng
cho thấy những phong cách lãnh đạo khác nhau ở nhân vật đầu tiên
(bán lẻ) và nhân vật sau cùng (điện tử bán dẫn). Bảy bức chân dung
trên sẽ giúp chúng ta khám phá ra những thay đổi cơ bản về nhu cầu
lãnh đạo doanh nghiệp kể từ thời kì Nội chiến Mỹ(2) cho tới năm
1990.
Một tiêu chí lựa chọn khác nữa là tính vùng miền. Những nhà
lãnh đạo kinh doanh đóng vai trò khác nhau ở những vùng khác nhau
của Mỹ. Andrew Carnegie chào đời gần Edinburgh, Scotland và phát
đạt ở Pittsburgh. George Eastman sinh ra ở vùng thượng của bang
New York và thành lập các trụ sở của hãng Kodak ở Rochester. Ford
sinh ra và dành cả đời mình để làm việc ở Dearborn – vùng ngoại ô
của Detroit. Watson, giống như Eastman, sinh ra ở vùng thượng của
bang New York và dành cả đời mình làm việc ở thành phố New York.
Revson chào đời ở Boston và giống như Watson, thành lập các trụ sở
công ty của mình ở thành phố New York. Walton sinh ra ở Kingfisher,
Oklahoma. Các trụ sở của Wal-Mart tại Bentonville, bang Arkansas,
giúp chúng ta có thể nhìn lướt qua hoạt động kinh doanh ở miền Nam
của nhánh Mason-Dixon. Noyce sinh ra ở Denmark, bang Iowa và
thành lập Intel ở Santa Clara, bang California, ngay tại trung tâm của
Thung lũng Silicon.
Chưa hết, vài người trong số các nhà lãnh đạo doanh nghiệp này
bị ảnh hưởng sâu sắc bởi quan niệm của họ về nơi chốn. Thật khó để
hình dung ra Bob Noyce ở Bentonville, giống như không thể tưởng
tượng được Sam Walton lại ở Thung lũng Silicon vậy. Người ta cũng
có thể nói điều tương tự về việc đặt Charles Revson ở Dearborn và
Ford ở New York. Mặc dù đi nhiều nơi ngay từ khi còn trẻ, Eastman
vẫn là đứa con của vùng Rochester và ông đã dành tâm sức của mình
để cống hiến cho nơi này. Cho tới nay, hãng Kodak vẫn đặt trụ sở
chính tại Rochester; và những người chỉ trích công ty này hiện vẫn
đang tự hỏi rằng liệu có phải ở Kodak có quá nhiều thứ thuộc về
Rochester và công ty này nên chăng là loại bỏ chúng để tự cứu lấy
chính mình.
Chẳng có gì là chắc chắn về sự nghiệp của bất kì ai trong số bảy
người được đề cập đến trong cuốn sách này. Nếu Andrew Carnegie
không bao giờ rời bỏ nhà máy dệt tại Pittsburg – nơi đầu tiên ông làm
việc, thì liệu có ai hỏi rằng: Tại sao không có Carnegie trong lịch sử
nước Mỹ? Quả thực, Carnegie nằm trong số những nhân vật ít có khả
năng thành công nhất trong quá khứ của Hoa Kì. Suốt tám thập kỉ
qua, các sử gia luôn lúng túng về trường hợp của ông. Trong các thập
kỉ 1940 và 1950, một cuốn giáo trình lịch sử Hoa Kì được sử dụng
rộng rãi đã mô tả ông là “nhân vật điển hình nhất của kỉ nguyên công
nghiệp”. Ba thập kỉ sau đó, các chuyên gia lịch sử đưa ra nhận xét
rằng Carnegie là “trường hợp biệt lệ”. Carnegie mất năm 1919, vì vậy
sự thay đổi về dư luận nêu trên không thể là kết quả từ bất kì điều gì
ông đã làm.
Chẳng có gì chắc chắn về Công ty Thép Carnegie, về máy ảnh, về
thuốc sơn móng tay hoặc về mạch tích hợp. Chẳng có lí thuyết nào về
việc thành lập tổ chức – vốn không thể tính hết được những yếu tố tài
năng, năng khiếu, khí chất và đôi khi cả sự ngu ngốc của mỗi cá nhân
nhà lãnh đạo kể trên – có thể giải thích được về việc làm thế nào mà
nước Mỹ lại làm được tốt nhất điều nó đã làm. Tương tự, không phải
ngẫu nhiên mà sự nghiệp của các cá nhân được mô tả và phân tích
trong cuốn sách này lại thịnh vượng ở Hoa Kì. Đó là vì xã hội này vừa
mang lại cho họ sự khích lệ, vừa từ chối việc dựng lên những rào cản
có thể ngăn trở họ hoàn thành trọn vẹn vận mệnh của mình. Do vậy,
cuốn sách này là câu chuyện kể về các cá nhân và tổ chức. Nhưng các
cá nhân giữ vị trí trung tâm, còn các tổ chức, cả công lẫn tư, đóng vai
trò là phông nền sân khấu.
Những tổ chức của Hoa Kì kể từ thời kì Nội chiến cho tới nay đã
cung cấp một loạt quyền hạn cho doanh nghiệp mới. Kết quả là [tạo
ra] một xã hội trong đó mục tiêu dường như là mang lại cơ hội bình
đẳng cho mọi người để trở nên bất bình đẳng.
Sự tự do tham gia vào hoạt động kinh doanh là rộng mở [cho mọi
người], nhưng không phải là vô hạn. Việc chống độc quyền là một ví
dụ. Đạo luật Sherman, coi một tội phạm liên bang là kẻ “âm mưu hạn
chế mậu dịch”, được xác lập thành luật vào năm 1890. Andrew
Carnegie đã phớt lờ luật này trong suốt thập niên 1890. Khi bị Ủy ban
Quốc hội triệu tập để chất vấn về hành động này, ông nói: “Các ngài
có thực sự mong đợi những người đang chủ động đấu tranh để tạo ra
sinh kế trong ngành sản xuất đưa ra ý kiến về những luật lệ và quyết
định của họ, và về những thứ đang được áp dụng ở đây, ở kia và ở
mọi nơi hay không?... Chưa từng có ai đề cập với tôi về Đạo luật
Sherman, tôi nhớ là như vậy.” Carnegie không hề phải trả giá cho sự
vô tâm này. Ông còn khoe khoang về điều đó. Một thế kỉ sau, Bill
Gates thể hiện chính xác một thái độ tương tự và thái độ đó khiến các
cổ đông của công ty ông ta mất hơn 225 tỷ đôla. Thời thế thay đổi.
Luật lệ cũng thay đổi theo.
Không có ai trong số bảy nhân vật chính trong cuốn sách này có
thể gọi là “điển hình”. Không có nhà quản trị kinh doanh điển hình;
và nếu như ai đó trong số họ được nhìn nhận như vậy, thì mỗi đặc
tính của ông ta sẽ khiến ông ta thậm chí còn không điển hình hơn.
Khi người ta nghiên cứu trên diện rộng các CEO của giới doanh
nghiệp Mỹ, điều ấn tượng nhất là sự đa dạng của họ với những giới
hạn cụ thể mà tôi có thể mô tả ngay lập tức. Họ sinh trưởng ở khắp
nơi trong một quốc gia có kích cỡ của một lục địa. Một vài người sinh
ra và lớn lên ở nước ngoài. Họ gắn kết với những tôn giáo và giáo
phái khác nhau. Những dấu mốc trên con đường sự nghiệp của họ
cũng khác nhau và nền tảng giáo dục của họ cũng vậy.
Các quan sát trên đúng với những nhà quản trị trong suốt một thế
kỉ rưỡi qua, với một vài dấu hiệu báo trước có ý nghĩa quan trọng.
Đầu tiên là vấn đề sắc tộc. Lịch sử của giới kinh doanh người Mỹ gốc
Phi ở Hoa Kì là một chủ đề hấp dẫn. Tuy nhiên, trừ một số trường
hợp ngoại lệ gần đây, người da đen cả nam và nữ đều không có cơ hội
để lãnh đạo một công ty lớn của Mỹ. Điều tương tự cũng đúng với
phụ nữ. Một công trình nghiên cứu về những CEO của 200 công ty
quan trọng nhất trong nền công nghiệp Hoa Kì vào năm 1917 cho biết
không có ai trong số này là người Mỹ gốc Phi hay phụ nữ. Thậm chí
ngày nay rất hiếm thấy thành viên của hai nhóm này (hiển nhiên, sự
trùng lấp ở đây là phụ nữ da đen) lãnh đạo một công ty lớn của Mỹ.
Vào năm 2000, chỉ có ba CEO là phụ nữ trong danh sách 500 công ty
lớn nhất Hoa Kì của tạp chí Fortune.
Năm 1932, Frank W. Taussig, nhà kinh tế học cao cấp tại Harvard
cùng đồng nghiệp là Carl S. Joslyn đã công bố những kết quả của cuộc
điều tra trên diện rộng về nguồn gốc xã hội của các nhà lãnh đạo
doanh nghiệp Hoa Kì. Để kết luận, nghiên cứu này tuyên bố rằng “tất
cả những người đàn ông có năng lượng, hoài bão và trí thông minh,
hành trang học vấn dẫu chỉ là tay trắng, đều có thể giành được chỗ
đứng trong thế giới kinh doanh và làm việc để thăng tiến tới địa vị cao
hơn”. Điều đáng chú ý là, hai học giả trên, sau khi tiến hành một công
trình nghiên cứu tỉ mỉ và đắt đỏ đến vậy, lại rút ra kết luận này bởi vì
nó thiếu chính xác về mặt thời điểm và không bao giờ đúng trong
hiện tại.
Quả thực, kết luận của Taussig và Joslyn tự mâu thuẫn với chính
nó. Cụm từ “tất cả những người đàn ông” loại bỏ một nửa dân số là
nữ của Mỹ. Trong cuốn sách của họ không đề cập tới những người
Mỹ gốc Phi, nhưng cũng không đặt câu hỏi về việc kể từ khi chấm dứt
chế độ nô lệ tại Mỹ vào năm 1865 cho tới nay, người da đen đã không
được miêu tả một cách đúng mức trong giới tinh hoa kinh doanh của
Hoa Kì. Thực tế là Taussig và Joslyn có thể đã sử dụng cụm từ khẳng
định “tất cả những người đàn ông” để minh họa cho việc phụ nữ và
người da đen, tức là hơn một nửa dân số Mỹ, đã không được tính
đến. Cả hai nhóm người này đều liên quan tới kinh doanh với vai trò
vừa là người làm thuê vừa là người làm chủ. Nhưng với tư cách là
những nhà quản trị của các doanh nghiệp hàng đầu, trong quá trình
lịch sử, họ chỉ cấu thành một tỉ lệ rất nhỏ.
Taussig, Joslyn và nhiều người khác không phải là thiếu hiểu biết
khi tự hỏi về tính mở và sự linh hoạt của nền kinh tế Mỹ. Họ, giống
như mọi người khác, chỉ là sản phẩm của thời đại mình. Họ đã không
thấy sự loại trừ hơn nửa dân số Hoa Kì ra khỏi giới tinh hoa kinh
doanh của Mỹ là bằng chứng cho thấy một điều: tính độc quyền. Họ
thừa nhận rằng có vài nhóm đơn giản là “nằm ngoài nồi hầm nhừ”.
Trước đây điều này là hiển nhiên.
Điều gây ấn tượng với họ cũng như với nhiều nhà quan sát khác
là về những người ở “bên ngoài” chứ không phải là những người ở
“bên trong”. Ví dụ, bạn có thể điều hành một trong những doanh
nghiệp lớn của Mỹ nếu bạn là một người Do Thái gốc Nga. Trước đây
điều này có thật ở một đất nước có tín đồ Cơ đốc giáo chiếm ưu thế,
ngôn ngữ quốc gia là tiếng Anh và những truyền thống luật pháp cai
quản giới kinh doanh được dựa chủ yếu trên những nền tảng của
Anh. Người Do Thái gốc Nga trong trường hợp này là David Sarnoff,
nhà sáng lập và trong nhiều năm là nhà độc tài đúng nghĩa của RCA –
Công ty Phát thanh Hoa Kì.
Giờ đây, không có ý nghĩa quan trọng ghê gớm gì hơn ngoài một
nhãn hiệu, RCA nằm trong số những công ty chủ chốt của Hoa Kì
từng tồn tại trong giai đoạn từ những năm 1920 đến những năm
1980. Nó chi phối ngành viễn thông, điều này rất dễ nhận ra nhờ
những hoạt động giải trí mà nó cung cấp (RCA có thời gian sở hữu
NBC, tức là hai trong số ba hệ thống phát thanh truyền hình của Mỹ
lúc bấy giờ) và điều này cũng có ý nghĩa sống còn đối với nền quốc
phòng. Công nghệ viễn thông có thể khiến những con tàu ngoài khơi
giữ liên lạc và tạo ra một đạo quân bằng cách biến một đám đông dân
chúng thành một đơn vị chiến đấu có tổ chức. Điều kì lạ ở chỗ Sarnoff
có lẽ đã khó có thể leo tới địa vị có vai trò chủ chốt đến thế nếu như
ông ta vẫn còn ở Nga hoặc giả sử đã di cư sang Nhật.
Do vậy, khi nói về việc tự do tiếp cận tới [địa vị] quyền lực của các
doanh nghiệp Hoa Kì, chúng ta chắc chắn hiểu rõ rằng việc tiếp cận
này cực kì tự do đối với những ai nằm trong các ranh giới “có thể
chấp nhận được” và hết sức ngặt nghèo đối với những ai nằm ngoài
các ranh giới này. Người Caucasia nằm trong các ranh giới cho phép
– thậm chí nếu họ là người Do Thái như Charles Revson, thậm chí
nếu họ là dân di cư bần cùng, học vấn chẳng bao nhiêu như Andrew
Carnegie, thậm chí nếu họ sinh trưởng cách xa những trung tâm
quyền lực kinh doanh quốc gia và thủ đô như Sam Walton. Người da
đen và phụ nữ nằm ngoài các ranh giới cho phép.
Việc lựa chọn bảy người được đề cập đến trong cuốn sách này đã
được hướng dẫn từ chính thực tế khắc nghiệt, không khoan nhượng
này. Những người da trắng được khắc họa chân dung trong sách là
những người hoàn toàn khác nhau. Nhưng họ có điểm chung là giới
tính và màu da. Còn nhiều khoảng trống cho cuốn sách này về lịch sử
của những nhân vật hàng đầu trong số phụ nữ và người da đen của
giới kinh doanh ở Mỹ. Còn vô số những câu chuyện chưa được kể
đáng được lắng nghe. Tuy nhiên, những người muốn biết các câu
chuyện đó sẽ phải đọc một cuốn sách khác chứ không phải cuốn sách
này.
Một yếu tố khác chi phối việc lựa chọn nhân vật để khắc họa chân
dung đó là họ không còn sống nữa. Quyết định này khá quan trọng và
đáng để đưa ra sự giải thích nào đó. Lịch sử là môn khoa học dân chủ.
Bạn không cần những kí hiệu toán học. Tất cả những gì bạn cần là
đánh giá, sẵn sàng làm việc và nhận sự trợ giúp nào đó từ bạn bè.
Chẳng thể băn khoăn việc các sử gia tỏ ra vô cùng kém cỏi trong
việc tiên đoán về tương lai. Không hề có mô hình toán học nào sẽ xuất
hiện trong những trang kế tiếp để giúp bạn chỉ ra ai sẽ là những người
khổng lồ trong giới kinh doanh vào năm 2010(3). Bạn sẽ không tìm
thấy bất kì công thức kì diệu nào để giải mã các thị trường sẽ đi về
đâu.
Một vài doanh nhân có thể thấy hơi bực mình về điều này. Người
ta vẫn nói các nhà tư bản “là những người đặt cược vào tương lai.
Điều cốt lõi của chủ nghĩa tư bản là một định hướng tâm lí hướng tới
việc mưu cầu sự giàu có và thịnh vượng trong tương lai.” Và bởi vậy,
đây là lịch sử của những người, như Robert Noyce, đã nỗ lực để
không phải chịu gánh nặng của lịch sử, nhờ vậy họ có thể thoát ra và
làm được những điều kì diệu.
Tuy nhiên, lịch sử đã có một đóng góp khá giá trị cho nỗ lực học
hỏi về kinh doanh. Các sử gia có lợi thế về quan niệm và bối cảnh.
Chúng tôi biết về những điều đã xảy ra. Chúng tôi biết câu trả lời rốt
cuộc là gì.
Những sinh viên học các môn khác về kinh doanh nhận thấy mình
trong hoàn cảnh ngược lại. Đầu tháng 10 năm 1929, Irving Fisher,
nhà kinh tế học nổi tiếng thế giới giảng dạy tại Đại học Yale, đã nói
rằng “giá cổ phiếu vươn tới mức như thể một cao nguyên vĩnh cửu”.
Thực tế đã không diễn ra như vậy. Năm 1970, tạp chí Quản lí bán
hàng (Sales Management) tuyên bố rằng năm nhà sản xuất lốp xe nội
địa quy mô lớn đều có “chỗ đứng hầu như vững chắc trên [thị trường]
kinh doanh lốp xe Hoa Kì”. Đến năm 1988, bốn trong số năm nhà sản
xuất trên đã buộc phải rời khỏi ngành. Tháng 10 năm 1986, tạp chí
Fortune đề cao Ken Olsen trong một bài báo, nói rằng một vài doanh
nhân, như “người sáng lập Wal-Mart là Sam Walton, nếu so sánh với
Olsen, họ đã làm được những điều tốt hơn cho cổ đông hoặc khiến cổ
đông của họ trở nên giàu có hơn. Nhưng không ai tạo ra được một
hãng công nghiệp mạnh mẽ hoặc có ý nghĩa quan trọng như DEC. Và
dựa trên cơ sở đó, Fortune coi ông ta [Olsen] là người đạt được thành
công vĩ đại nhất.” Trích dẫn này có thể được thấy trong tiểu sử của
Olsen có tiêu đề Doanh nhân ưu việt (The Ultimate Entrepreneur).
Khi Fortune cho đăng tải bài viết tán dương ấy, DEC là chủ sử dụng
lao động lớn nhất trong Khối thịnh vượng Massachusetts. Tuy nhiên,
năm 1992, Olsen bị loại khỏi công ty do ông ta sáng lập. Năm 1998,
những gì còn lại của DEC bị bán đi. Hiện nay, DEC không còn tồn tại.
Giờ đây Ken Olsen được xem như một trong những tấm gương thất
bại lớn nhất trong kinh doanh. Chắc chắn ngày nay không còn ai có
nhã ý muốn so sánh ông ta với Sam Walton nữa.
Cũng theo kiểu viết này, sẽ có nhiều nhà bình luận đánh giá Jack
Welch của General Electric (GE) là doanh nhân vĩ đại nhất của Hoa
Kì. Vài người sẽ còn gọi ông là doanh nhân vĩ đại nhất thế kỉ XX.
Nhưng nếu như GE chứng tỏ là không đủ khả năng tiêu hóa nhiều vụ
thâu tóm doanh nghiệp mà công ty này đã thực hiện thì hẳn người ta
sẽ thay đổi suy nghĩ về công ty này. Ngay trước khi kết thúc nhiệm kì
CEO của GE, Welch thực hiện một vụ mua bán quy mô lớn, thâu tóm
Honeywell vào năm 2000 với giá trên 30 tỷ đôla. Nếu như vụ thâu
tóm đó thất bại để tạo ra những nền kinh tế “hy vọng”, quyền lực thị
trường và lợi nhuận thì di sản của Jack Welch sẽ là một vụ giao dịch
hời và ít ấn tượng hơn tai tiếng của ông ta hiện nay. Và thực tế là vụ
giao dịch Honeywell lớn đến mức khiến người ta không biết liệu nó
[việc sáp nhập] có hoạt động hiệu quả không.
Nếu nói rằng các sử gia biết điều họ biết chỉ bởi vì người ta
thường nhận ra vấn đề sau khi sự việc đã xảy ra, tôi xin hoan hỉ biện
minh rằng điều đó là sai. Những nhận định sáng suốt rút ra sau khi sự
việc đã xảy ra chính xác là điều mà nghiên cứu lịch sử mang lại cho
hoạt động kinh doanh. Không có lĩnh vực nào khác trong số những
hoạt động của con người – bao gồm giải trí, thể thao, thời trang hay
chính trị – lại đánh đố người ta bằng những thứ nhất thời như kinh
doanh. Ngày nào cũng có một tựa báo, tuần nào cũng có một câu
chuyện trên tạp chí, và có lẽ với Internet, chúng ta sẽ sớm có thể nói
rằng giờ nào cũng có một “bậc thầy” chào hàng về một người hùng
mới trong kinh doanh hoặc một phương pháp mới để giải quyết
những vấn đề đã xảy ra trước đó cả 10 năm hoặc lâu hơn nữa. Ít ra,
việc nghiên cứu lịch sử kinh doanh có thể thúc đẩy một nhà quản trị
đặt câu hỏi về “giải pháp” mới cho những vấn đề chưa bao giờ được
giải quyết, dù hỏi chỉ là để đấy mà thôi: Cách tiếp cận này, ý tưởng
này, công ty này thực sự diễn ra như thế nào?
Các sử gia không giỏi hơn ai trong việc đánh giá hiện tại. Họ mắc
sai lầm khi tiên đoán tương lai. Nhưng đơn giản là họ không thể bị
đánh bại nếu đưa ra những dự đoán về quá khứ. Lẽ ra Coca-Cola
không nên thay đổi công thức của họ vào năm 1985. Thấy không? Lại
đúng nhé. Do vậy, không phải ngẫu nhiên mà các nhà quản trị được
lựa chọn trong cuốn sách này không còn sống nữa.
Nhiều vấn đề khác nhau được bàn luận trong mỗi trường hợp
nghiên cứu tiểu sử của cuốn sách này. Những câu trả lời khác nhau
mà các nhà quản trị ấy tìm ra không chỉ soi sáng cho việc phục dựng
chân dung cá nhân của riêng họ mà còn cho thấy qua từng thời kì,
những nhu cầu đã được đáp ứng như thế nào để tạo ra những điều vĩ
đại trong thế giới kinh doanh.
Chẳng hạn một vấn đề như vậy đã được bàn tới trong cuốn sách
này. Đó là việc chống độc quyền. Andrew Carnegie có thể đã phớt lờ
nó. Thomas J. Watson (người đã tạo ra IBM vĩ đại) thì không. Và Bill
Gates lại càng không. Vấn đề chống độc quyền chỉ là một biểu lộ hiển
nhiên nhất của những mối quan hệ giữa kinh doanh và nhà nước. Tất
cả bảy doanh nhân này đã phải học cách để quản lí nhà nước, cùng
lúc với việc nhà nước dưới đủ hình thức như tổ chức luật, ủy ban
quốc hội, hoặc các vụ kiện tụng dân sự hay hình sự đang tìm cách để
quản lí họ. Những mối quan hệ này có thể trở nên cực kì phức tạp và
mâu thuẫn. Lấy một ví dụ, năm 1914, Watson gần như có nguy cơ
phải ngồi tù vì những cáo buộc hình sự vi phạm luật chống độc
quyền. Cho tới thập niên 1930, trái ngược hoàn toàn, chính quyền
liên bang, do nhu cầu tổng hợp và phân tích vô số dữ liệu về an sinh
xã hội và những chương trình khác, trở thành khách hàng chủ chốt
sử dụng các sản phẩm và dịch vụ của IBM; và Watson, trong thế giới
kinh doanh của nền Cộng hòa, trở thành người hậu thuẫn nhiệt thành
cho Tổng thống Franklin D. Roosevelt. Đến giữa thập niên 1950, cái
bóng của việc chống độc quyền xuất hiện trở lại. Chính quyền, dường
như đã, chơi trò tay đấm tay xoa.
Những vấn đề khác cũng xuất hiện trở lại, bao gồm quá trình phát
triển một doanh nghiệp từ khi khởi sự cho tới lúc trở thành một hãng
quan liêu, cồng kềnh, việc tuyển dụng và đào tạo bộ khung quản lí,
việc quản lí mối quan hệ với người lao động và những quan điểm
khác nhau về thế giới từ góc nhìn của doanh nhân khi ông ta về già và
[đứng trước] những thách thức mới nảy sinh.
Một chủ đề quan trọng nữa gắn kết bảy chương sách với nhau, đó
là tầm nhìn. Bảy chương sách là bảy câu chuyện về những người thấy
những điều mà người khác không thấy và thực hiện tốt nhất cách
phân tích sâu sắc của họ. Họ đã sử dụng những công cụ mà người
khác cũng có, nhưng sử dụng bằng kĩ năng tốt hơn nhiều.
Vì mục đích gì? Để chiến thắng. Để sở hữu. Để kiểm soát. Để sáng
tạo. Đây là câu chuyện về bảy nhà tư bản biết nắm lấy những cơ hội
dù những người khác chỉ thấy đó là những điều gượng ép mà thôi.
Bảy nhà tư bản này đều là những người dám chấp nhận rủi ro,
những nhà đổi mới, những người đam mê thử nghiệm. Họ đều khao
khát thành công hơn cả nỗi lo sợ bị thất bại. Họ đều dũng cảm để
thay đổi không chỉ khi mọi chuyện trở nên tồi tệ đi mà còn, và đây
mới thực sự là điều khó khăn hơn cả, khi mọi chuyện đang tốt đẹp.
Họ đều là những người cực kì tự tin, bắt nguồn từ cảm giác an
toàn bẩm sinh (Noyce và Walton) hoặc từ việc không tin vào sự phán
xét của người khác (Revson). Dù vì bất cứ lí do nào, họ đã tin tưởng
vào chính bản thân mình. Kinh nghiệm chứng tỏ niềm tin này là xác
đáng. Họ cảm thấy tài năng của mình không có bất kì giới hạn nào –
niềm tin ấy đôi khi khiến họ phát cuồng lên vào lúc cuối đời (Ford).
Tất cả những điều đó nói lên rằng, khi chúng ta thay đổi góc nhìn,
đặt mình trọn vẹn vào vai trò của những con người ấy trong kinh
doanh và trong thế giới như chính cá nhân con người họ, chúng ta
khám phá ra những khác biệt đáng kể. Họ là những con người rất
khác biệt với những hoàn cảnh khác nhau, những điểm mạnh và điểm
yếu cũng khác nhau. Giờ đây thật khó có thể hình dung ra việc có thể
ăn tối cùng lúc với cả bảy con người này.
- Xem thêm -