TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN
BỘ MÔN KỸ THUẬT NUÔI THỦY SẢN
GIÁO TRÌNH
KỸ THUẬT NUÔI THỦY SẢN NƯỚC NGỌT
MÃ SỐ: TS 325
BIÊN SỌAN: DƯƠNG NHỰT LONG
NĂM. 2003
MỤC LỤC
----------------
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NGHỀ NUÔI THỦY SẢN NƯỚC NGỌT
1
CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC VÀ KỸ THUẬT NUÔI CÁC LÒAI CÁ CÓ GIÁ TRỊ KINH TẾ Ở
19
VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
10.
11.
12.
13.
14.
15.
16.
17.
18.
CÁ TRA
CÁ BASA
CÁ VỒ ĐÉM
CÁ BÓNG TƯỢNG
CÁ TAI TƯỢNG
CÁ RÔ PHI (CÁ ĐIÊU HỒNG)
CÁ CHÉP
CÁ MÈ VINH
CÁ MÈ TRẮNG
CÁ TRÔI ẤN ĐỘ
CÁ HƯỜNG (CÁ MÙI)
CÁ LÓC
CÁ LÓC BÔNG
CÁ TRÊ LAI
CÁ RÔ ĐỒNG
CÁ SẶC RẰN
LƯƠN
CÁ THÁT LÁT
19
30
35
39
49
54
63
74
77
83
87
89
96
102
108
118
123
128
CHƯƠNG 3: KỸ THUẬT NUÔI CÁ THÂM CANH
132
CHƯƠNG 4: KỸ THUẬT NUÔI THỦY SẢN KẾT HỢP
145
CHƯƠNG 5: KỸ THUẬT NUÔI CÁ MẶT NƯỚC LỚN
184
CHƯƠNG 6: MỘT SỐ BỆNH THƯỜNG GẶP VÀ BIỆN PHÁP CHẨN ĐOÁN PHÒNG TRỊ CHO CÁ
NUÔI
188
TÀI LIỆU THAM KHẢO
195 - 200
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ NGHỀ NUÔI THỦY SẢN NƯỚC NGỌT
I. LỊCH SỬ PHÁT TRỈÊN CỦA NGHỀ NUÔI THỦY SẢN NƯỚC NGỌT
Lịch sử phát triển của nghề nuôi thủy sản nước ngọt trên thế giới được ghi nhận ở các
nước của các Châu lục cách đây hàng ngàn năm. Nguồn lợi và sản phẩm thủy sản mang lại từ
các họat động nuôi, bảo vệ và khai thác hợp lí từ con người đã đóng góp rất tích cực vào sự an
tòan về nhu cầu thực phẩm cho con người trên khắp các Châu lục.
1. Phát triển thủy sản của các nước ở khu vực Châu Á
Các tài liệu lưu trử ở các nước cho thấy rằng, nghề nuôi trồng thủy sản được ghi nhận
xuất hiện rất sớm ở Trung Quốc, cách đây ít nhứt 2.500 năm. Theo Ling (1977) sự kiện nầy
được biết đến thông qua quyển sách viết về “ Nghệ thuật nuôi cá ” của tác giả Fan Lei vào
khỏang 500 năm trước công nguyên (494 BC). Sau nầy, các tác giả Chow Mit với bài viết về
Kwet Sin Chak Shik vào năm 1243 (AD) sau công nguyên và Heu trong cuốn sách “A
Complete Book of Agriculture” năm 1639 sau công nguyên mô tả chi tiết cách thức thu giống
cá Chép trên sông, phương pháp ương cá trong ao đã minh chứng cho sự hình thành và phát
triển lâu đời của nghề nuôi thủy sản ở Trung Quốc nói riêng và Châu Á nói chung.
2. Phát triển thủy sản ở Châu âu
Ghi nhận về sự phát triển của nghề nuôi thủy sản ở Châu Âu có từ thời Trung cổ và
cũng có thể nói, lâu đời nhứt, xa xưa nhứt phải đề cập đến sự hình thành và phát triển của việc
thả nuôi cá chép trong các ao nuôi nước ngọt cùng sự phát triển của nghề nuôi thủy sản ở các
vùng ven biển, bắt đầu với sự hình thành các trại nuôi Hầu (Oyster) bởi người Romans, Hy
lạp và sau nầy mở rộng cho nhiều đối tượng nhuyễn thể khác với các cách nuôi tương tự tiếp
tục phát triển. Sự kiện nầy còn được ghi nhận qua tài liệu đề cập và mô tả của Aristotle về chi
tiết các trại nuôi Hầu (Oyster) của người Hy Lạp có từ 100 năm trước công nguyên. Quá trình
hình thành và phát triển của nghề nuôi thủy sản ở Châu Âu sau nầy còn gắn liền với các họat
động nuôi cá rô phi (Tilapia), cá Chép (Common carp) trong các ao nuôi nước tỉnh ở nhiều
nước Châu âu, các họat động nuôi nầy rất có ý nghĩa xã hội và là sản phẩm thường được sử
dụng nhiều trong các dịp lễ hội đặc biệt như lễ giáng sinh ở Pháp, Đức, Nauy, Đan Mạch và
Ý. Sau nầy, trong quá trình phát triển, người Anh cũng đã giới thiệu cá Trout cho người nuôi
ở vùng Châu Á và Châu Phi, phát triển chủ yếu cho mục đích thể thao.
3. Phát triển thủy sản ở Châu Mỹ
Bắt đầu từ thế kỉ thứ 18, thông qua 2 loài cá đặc trưng là Salmon và Trout với sự hình
thành các trại sản xuất giống đã ghi nhận được sự phát triển của nghề nuôi thủy sản ở châu
Mỹ và chủ yếu ở Bắc Mỹ, sau đó phát triển mở rộng đến Nam Mỹ. Hiện tại, có thể nói nghề
nuôi thủy sản của nhiều nước ở Châu Mỹ phát triển rất mạnh với đội ngũ cán bộ có trình độ
khoa học kỹ thuật cao.
1
4. Phát triển thủy sản ở Châu Phi
Quá trình phát triển nghề nuôi thủy sản nước ngọt ở Châu Phi được ghi nhận đầu tiên
qua các bức tranh bằng đá, biểu hiện các họat động nuôi cá rô phi cho thấy, nghề nuôi thủy
sản nước ngọt xuất hiện ở Ai cập cách đây 2.000 năm trước công nguyên. Bên cạnh đó, các
dấu tích chứng minh cho sự phát triển của ngành nghề còn thể hiện thông qua họat động nuôi
thủy sản được phát hiện, ghi nhận trong các quyển kinh thánh. Sau nầy, cùng với sự tồn tại,
phát triển cũng như sự lan tỏa của lòai cá rô phi đến nhiều quốc gia, đặc biệt đối với các nước
vùng nhiệt đới, cá rô phi đã trở thành đối tượng nuôi rất phổ biến trong các loại hình thủy vực,
đồng thời các giải pháp kỹ thuật và năng suất nuôi thu họach đã góp phần cải thiện đáng kể
điều kiện thu nhập cho người dân nghèo ở các nước đang phát triển.
Thông thường họat động nuôi thủy sản hình thành và phát triển thường gắn liền với 2
vùng sinh thái căn bản sau đây
•
Nuôi thủy sản nội địa (Inland Aquaculture)
Nhiều tài liệu cho rằng họat động nuôi thủy sản nội địa bắt nguồn từ Trung Quốc, một
số tài liệu khác thì cho rằng nghề nuôi thủy sản ở Miến Điện và Nepal được hổ trợ phát triển
cách đây khỏang 20 – 50 năm. Trong hầu hết các nước vùng Đông Nam Châu Á, sự tăng
trưởng của nghề nuôi thủy sản có ý nghĩa xã hội hơn 30 năm qua, mặc dù cá chép vẫn là đối
tượng nuôi chính ở hầu hết các nước, nhưng cá rô phi lại là lòai cá được ưa thích và được giới
thiệu rộng rãi cách đây hơn 50 năm.
•
Nuôi thủy sản ở vùng triều (Coastal and Marinculture)
Nghề nuôi cá Măng ở vùng nước lợ của đảo Java ở Indonesia đã có cách đây từ 600 –
800 năm
Sự quãng bá, giới thiệu các đối tượng nuôi, sản phẩm thủy sản thường được các nhà
buôn Trung Quốc thực hiện.
Nghề nuôi cá Măng ở Phillipines cũng được ghi nhận cách đây hằng trăm năm, nhưng
không có tài liệu ghi nhận, hay chứng minh cụ thể.
Có nhiều bằng chứng cho thấy, họat động nuôi ghép các đối tượng nuôi thủy sản ở
các ao, hồ chứa nước thường được thực hiện bởi các ngư dân Trung Quốc.
Đối với nghề nuôi trồng Rong Biển xuất hiện cách đây khỏang 400 năm và nghề nuôi
các lọai động vật thân mềm xuất hiện cách đây khỏang hơn 300 năm ở Nhựt Bản.
II. HIỆN TRẠNG VÀ TIỀM NĂNG NGHỀ NUÔI THỦY SẢN THẾ GIỚI
1. Hiện trạng nghề nuôi thủy sản thế giới
Sự phát triển của nghề nuôi thủy sản phải được khẳng định trong mối quan hệ với tổng
sản lượng thủy sản trong vùng, khu vực và trên tòan cầu.
Theo tổng kết của FAO năm 2000.
Sản phẩm thủy sản tòan cầu thông thường được chia làm 6 nhóm
1. Nhóm cá biển (Marine fish)
2. Nhóm cá (Diadromous)
3. Nhóm cá nước ngọt
2
4. Nhóm giáp xác
5. Nhóm động vật thân mềm
6. Nhóm rong biển
Cho đến nay, sản lượng sản phẩm biển vẫn là nguồn lợi thủy sản được tin tưởng là
nguồn cung cấp thực phẩm không giới hạn từ họat động khai thác tự nhiên. Tất nhiên, cũng
cần lưu ý rằng, khi mở rộng khai thác nguồn lợi thủy sản biển, rất cần quan tâm đến sự khai
thác và bảo vệ hợp lí nguồn lợi, làm nền tảng cho việc phát triển nguồn lợi thủy sản một cách
bền vững, đáp ứng nhu cầu khai thác ổn định lâu dài.
Thông thường sản lượng khai thác thủy sản biển có thể phân chia theo các giai đọan
phát triển như sau
1. Giai đọan tăng trưởng nhanh, sản lượng trên 20 tấn, năm 1940 đến 60 triệu tấn, năm
1970 (tăng gấp 3 lần)
2. Giai đọan tăng trưởng chậm từ năm 1970 – 1989, khi đỉnh tăng trưởng của họat động
khai thác đạt 90 triệu tấn.
3. Giai đọan sản lượng nuôi thủy sản tăng gấp đôi trong những năm của thập kỷ 1975 –
1984 và tiếp tục tăng trong những năm 1984 – 1992.
4. Giai đọan không tăng trưởng và trong thực tế có biểu hiện giãm sút về sản lượng khai
thác, xuất hiện từ năm 1988 – 1992.
Sản lượng khai thác thủy sản thông thường chiếm hơn 90 % tổng sản lượng thủy sản,
nhưng giá trị nầy biểu hiện sự giãm sút, vì theo thống kê năm 1992, tòan cầu chỉ chiếm 81 %
sản lượng, trong khi đó ở khu vực châu á, sản lượng của các nước chỉ chiếm tổng cộng 67 %.
Sản lượng khai thác thủy sản của các nước ở khu vực Châu Á
Sản lượng nuôi thủy sản của các nước vùng Châu Á thông thường chiếm khỏang 88 %
tổng sản lượng thủy sản tòan cầu.
Trong đó
+ Finfish
+ Seaweeds
+ Mollusca
+ Crustacea
48 %
31 %
16 %
05 %
Có thể nói ở khu vực Châu Á, sản lượng thủy sản của các nước chiếm một tỉ lệ khá
cao. Những lí do chính dẫn đến kết quả trên có thể giải thích như sau
1. Hầu hết các nước ở khu vực Châu Á có nền sản xuất dựa vào nền kinh tế nông nghiệp
là chính và người dân có nhiều kinh nghiệm trong họat động khai thác nguồn lợi thủy
sản.
2. Do các nước ở khu vực Châu Á thường bị áp lực về dân số cao, chiếm 55 % dân số thế
giới, trong khi đó diện tích đất có khả năng trồng tỉa chỉ chiếm 30 %. Số liêu cho thấy,
bình quân 1 người châu á chỉ có 0.27 ha, còn phần còn lại của thế giới chiếm khỏang
1.6 ha.
3. Khai thác quá mức nguồn lợi tự nhiên. Trong lúc đó chỉ dựa thuần túy vào kinh
nghiệm cổ truyền là chính, từ đó làm giảm sút nguồn lợi thủy sản tự nhiên nầy.
3
10 quốc gia có sản lượng thủy sản nội địa cao nhứt thế giới
Bảng 1: 10 quốc gia có sản lượng thủy sản nội địa cao nhứt thế giới
Quốc gia
Trung Quốc
India
Bangladesh
Indonesia
Tanzania, United Rep.
Russian Federation
Egypt
Uganda
Thailand
Brazil
Sản lượng năm 1998
So với thế giới
(Tấn)
(%)
2.280.000
650.000
538.000
315.000
300.000
271.000
253.000
220.000
191.000
180.000
28.5
8.1
6.7
3.9
3.7
3.4
3.2
2.8
2.4
2.3
Nguồn: FAO năm 2000
Trung Quốc là một trong nhiều nước dẫn đầu về sản lượng nuôi trồng thủy sản ở khu
vực châu Á, với 61 % tổng sản lượng tòan cầu và 54 % tổng sản lượng ở khu vực châu Á.
Thống kê số liệu cho thấy có khỏang 50 % các nước ở khu vực Châu Á sản xuất hơn 1
kg cá/đầu người/năm. Sản lượng nuôi thủy sản nước ngọt chiếm ưu thế ở các nước châu á, đặc
điểm nầy được thể hiện rõ qua số liệu sau đây
1. Cá nước ngọt chủ yếu (do quốc gia không có biển) bao gồm các quốc gia như Lào và
Nepal.
2. Thành phần tôm cá nước ngọt là chính, bao gồm Bangladesh, Cambodia, India,
Myanmar, Pakistan và Việt nam (do các nước nầy tiêu thụ cá nước ngọt là chính).
3. Thành phần tôm cá nước lợ mặn là chính bao gồm các nước như Japan, Korea,
Malaysia và Singapore.
4. Thành phần hổn hợp giữa nước ngọt và lợ, mặn là chính bao gồm China, Thailand,
Taiwan, Hongkong, Indonesia, Philippines (có 2 vùng sinh thái căn bản).
5. Srilanka: Thông qua họat động khai thác, đánh bắt và tiêu thụ sản phẩm cá nước ngọt
là chính, tuy nhiên gần đây cũng phát triển nuôi tôm.
2. Tiềm năng phát triển nghề nuôi thủy sản thế giới
Sự cần thiết phát triển nghề nuôi thủy sản phải được khẳng định trong mối liên hệ với
họat động khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản trong các loại hình thủy vực.
•
Khai thác nguồn lợi thủy sản ở loại hình thủy vực Stagnant
Sản lượng khai thác nguồn lợi thủy sản ở lọai hình thủy vực Stagnant có xu hướng
giãm dần trên bình diện tòan cầu.
Sự gia tăng dân số dẫn đến tình trạng khai thác quá mức nguồn lợi thủy sản trong các
lọai hình thủy vực và sự sút giãm về điều kiện môi trường.
Sự khai thác hợp lí nguồn lợi thủy sản sẽ tạo điều kiện cho con người có được sản
lượng khai thác thủy sản tốt nhứt và tối ưu nhứt.
4
•
Thỏa mãn nhu cầu cung và cầu
Có sự tính toán cho nhu cầu an tòan thực phẩm thủy sản đến năm 2005 trên tòan
cầu/năm (1994) khỏang 60 triệu tấn.
Sự tính tóan nầy thường dựa trên cơ sở
1. Kế họach về sản lượng khai thác nguồn lợi thủy sản trên tòan cầu
2. Duy trì và phải ổn định tình hình gia tăng dân số
3. Tiêu thụ sản phẩm thủy sản cả năm bình quân 13.5 kg/capita/năm. Kết quả nầy cho
thấy sản lượng nuôi thủy sản đến năm 2005 sẽ là sản lượng nuôi thủy sản hôm nay
nhân với 3 lần nhiều hơn.
4. Nhu cầu của con người tiêu thụ sản phẩm thủy sản ngày càng gia tăng
•
Tỉ lệ tăng trưởng của nghề nuôi thủy sản
Nhìn một cách tổng thể cho thấy, sản lượng lương thực tăng nhanh theo sự gia tăng
dân số trong hơn 1 thập kỉ vừa qua
Sự tăng trưởng của nghề nuôi thủy sản đạt ở mức 10 % / năm, cho thấy sẽ nhanh hơn
về sự gia tăng về sản lượng lượng thực.
•
Sự thách thức của nghề nuôi thủy sản
Theo tính tóan của Scavas (1994) nếu có sự tăng trưởng của nghề nuôi thủy sản cho
thấy, có sự gia tăng về sản phẩm thủy sản để duy trì, đồng thời tăng nhanh sản lượng cũng
như vấn đề tiêu thụ sản phẩm. Thông thường để làm tăng sự tăng trưởng của nghề nuôi thủy
sản cần:
1. Xây dựng mô hình nuôi thủy sản thích hợp và hiệu quả cho người dân nghèo
2. Thực hiện mô hình nuôi theo đúng các yêu cầu về kỹ thuật
3. Tậng dụng tối đa nguồn phụ phế phẩm nông nghiệp điều kiện sẳn có ở nông hộ
4. Hòan thiện và không ngừng cải thiện năng suất, chất lượng sản phẩm các mô hình
nuôi thủy sản chuyên canh và kết hợp.
5. Quản lí tốt mô hình nuôi thủy sản, đặc biệt là vấn đề về tình trạng sức khỏe của
thủy sinh vật trong các mô hình nuôi.
6. Tăng diện tích sản xuất cho nghề nuôi thủy sản phát triển
7. Tăng năng suất, sản lượng và giá trị nuôi thủy sản trên một đơn vị sản xuất
8. Chất lượng và vấn đề an tòan sản phẩm thủy sản.
III. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA NGHỀ NUÔI THỦY SẢN NƯỚC NGỌT VIỆT
NAM
Với diện tích có khả năng phát triển nuôi thủy sản trong cả nước là 1,7 triệu ha, trong
đó cá ao có diện tích nhỏ là 120.000 ha, hồ chứa, mặt nước lớn 340.000 ha và ruộng lúa có
khả năng nuôi thủy sản là 580.000 ha, hiện nay nuôi thuỷ sản nước ngọt đã đóng góp một
phần quan trọng trong ngành thuỷ sản (Bộ Thuỷ sản, 1999). Tuy nhiên trước thế kỷ 20 nghề
nuôi thuỷ sản ở nước ta gần như chưa phát triển. Mãi đến những năm của thập kỷ 30, nghề
nuôi thuỷ sản và chủ yếu là nuôi thuỷ sản nước ngọt mới thực sự bắt đầu hình thành và tập
trung ở các tỉnh phía Bắc Việt Nam. Từ đó đến nay nghề nuôi thuỷ sản nước ngọt không
ngừng phát triển. Việc mở rộng diện tích nuôi, đa dạng hoá mô hình nuôi, đối tượng nuôi, di
nhập và thuần hoá nhiều đối tượng kinh tế đã góp phần nâng cao hiệu quả của nghề nuôi cá
nước ngọt nước ta.
5
Vào nửa đầu thế kỷ XX, việc nuôi cá nước ngọt chủ yếu phát triển và phổ biến ở khu
vực Miền Bắc. Điều này có lẽ do nguồn cá tự nhiên có phần hạn chế, trong khi nhu cầu tiêu
thụ sản phẩm ngày càng tăng theo nhịp độ phát triển dân số, đây có lẻ là một trong số các
nguyên nhân chính thúc đẩy cư dân Miền Bắc khởi đầu với nghề chăn nuôi – thủy sản này.
Cho đến thập niên 1930, nuôi cá nước ngọt đã trở thành nghề lan rộng khắp các tỉnh thuộc
châu thổ sông Hồng, thậm chí đến cả những khu vực miền núi phía tây và phía bắc. Sự mở
rộng phạm vi nuôi cá và số lượng ao hồ thả cá ngày càng tăng lên không ngừng có liên quan
mật thiết đến một bộ phận cư dân chuyên nghiệp trong nghề thu vớt và nuôi cá giống con từ
tự nhiên.
Hàng năm vào khoảng tháng 5, các loài cá thường đẻ trứng trong các vùng thượng
nguồn sông Hồng và các chi lưu của nó. Trứng cá bám vào bờ nước, dính vào những rong rêu,
cây cỏ thủy sinh nở thành cá con và bị nguồn nước cuốn trôi về phía hạ nguồn, những người
chuyên thu vớt cá con chỉ việc đem dụng cụ ra bờ sông để thu hoạch. Các loài cá thu vớt được
ở miền Bắc trong thời kỳ này xếp theo thứ tự quan trọng là: Cá mè (Hypophtalmychtys), Cá
trôi (Cirrihina molitorella), Cá chầy (Squaliobarbus curriculus), Cá chép (Cypinus
carpio),Cá vền (Parabramis bramula),Cá mương (Hemiculter leucisculus). Các loại cá con
vớt được thường có chiều dài khỏang 0,4 - 0,5 cm. Cá con được chuyển đến những hồ nuôi
cá. Ngay từ thời kỳ này người dân đã biết chuẩn bị ao hồ từ trước như: tháo khô nước và tìm
cách diệt hết các loài cá, loài cua. Sau một vài ngày, người ta lại cho nước vào một cách cẩn
thận bằng việc ngăn bằng một loại lưới dày để chặn các loài thuỷ tính có hại cho cá con. Nước
trong ao hồ được làm giàu chất dinh dưỡng thêm bằng cặn bã từ chuồng lợn, kén tằm và phân
người. Mật độ thả cá thường không theo một chuẩn mực nào cả, thông thường khoảng một
gánh cho một sào Bắc bộ (360 m2), hoặc 5 mớ khoảng chừng 50.000 con cá giống cho một
sào. Thức ăn cho cá được thay đổi thường xuyên, chủ yếu là dùng phân heo (mười gánh phân
cho một sào), phân người và những đồ cặn bã. Cây cỏ thực vật cũng được sử dụng bằng cách
bó từng nắm và cho xuống hồ phổ biến là cây mái dầm hay so đủa. Suốt nhiều tuần, người ta
quậy bùn liên tục để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho cá con hấp thu tốt những thành phần dinh
dưỡng có trong ao hồ.
Tại vùng núi phía Bắc, người Thổ có một phương pháp nuôi cá khá lý thú trong các
ruộng lúa. Vào tháng 5, họ đem cá chép con đổ vào các ruộng lúa đã be bờ, và đề phòng bằng
cách đào ở góc ruộng lúa thành một cái hốc sâu làm nơi ẩn náu mát mẻ cho cá vào mùa khô,
và là nơi chúng tập trung lại khi họ rút cạn nước trong ruộng để bắt cá. Nghề nuôi cá nước
ngọt ở Bắc bộ thật sự phát triển rộng rãi và tạo một khối lượng sản phẩm đáng kể khi người
nuôi cá chủ động chọn lọc các loài cá có giá trị để nuôi, điều chỉnh mật độ thả cá thích hợp để
cá có điều kiện phát triển tốt nhất., mở mang việc chăn nuôi cá trên những vùng ngập nước
rộng lớn vào mùa mưa, đặc biệt là ở các ruộng lúa.
Tại miền Trung, việc nuôi cá nước ngọt không mấy phát triển, ngoại trừ một vài khu
vực ở Thanh Hoá còn chịu ảnh hưởng, kinh nghiệm của nghề nuôi thủy sản ở miền Bắc Việt
nam phát triển.
Ở miền Nam, sự phong phú về nguồn lợi thủy sản trong các vực nước tại chỗ và số
lượng cá dồi dào từ Campuchia đổ về thường xuyên là nguyên nhân khiến cho nông dân
không cần nghĩ đến việc đào ao, hồ hay mương vườn để thả cá. Mãi đến những năm 1940, khi
nguồn cá này ngày càng có xu hướng giảm thấp và số lượng cư dân liên tục gia tăng, ở đây
mới bắt đầu thịnh hành với nghề nuôi cá nước ngọt. Hàng năm, vào khoảng tháng 6, cá tra
bột, hương và giống (Pangasius hypothamus) từ biển hồ ở Cambodge trôi về, thì cư dân ven
bờ sông Mê kông vùng giáp biên giới Việt Nam - Cambodge chuyên làm nghề vớt cá và nuôi
cá giống bắt đầu hoạt động. Lúc bấy giờ, tại các ao, hầm nuôi cá ở miền Nam, người ta cũng
tiến hành những bước chuẩn bị như ở Bắc bộ. Thức ăn của cá tra chủ yếu cũng là chất thải từ
6
chuồng heo và phân người. Việc phát triển nghề nuôi cá tra ở miền Nam đã góp phần duy trì
nguồn thực phẩm chính yếu của người Việt có mặt trên thị trường quanh năm. Ngoài cá tra, ở
Nam bộ lúc bấy giờ cũng có nuôi một vài loài cá nước ngọt khác, như cá vô đém, cá chép, cá
rô phi, tai tượng và hường…..
Nhìn chung, đến giữa thế kỷ XX, nghề nuôi cá nước ngọt cũng chỉ phát triển nhiều ở
miền Bắc, còn ở miền Nam chỉ mới bắt đầu với những bước đi chập chững. Trong khi đó ở
khu vực miền Trung xem như vẫn chưa có sự đổi thay nào đáng kể trong tiến trình hình thành
nghề nuôi cá ở Việt Nam. Sự phát triển thiếu đồng bộ đó một phần do khác nhau về điều kiện
địa lý, vùng sinh thái thủy sinh vật và dân số..., khác nhau về tập quán sinh hoạt, họat động
sản xuất nông nghiệp, họat động kinh tế và đời sống (Tiến, 1996) chi phối.
Nghề nuôi cá nước ngọt Việt nam từ năm 1954 -1975
Từ ngày miền Bắc được hòan toàn giải phóng và tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nghề nuôi
cá đã được Đảng và nhà nước quan tâm khuyến khích và chỉ đạo nên ngày càng phát triển với
bước đi cụ thể. Nghề vớt cá bột trên sông Hồng vẫn tiếp tục phát triển và cung cấp nguồn cá
giống chủ yếu cho nghề nuôi cá nước ngọt ở miền Bắc.Các loài cá bột chủ yếu được vớt là cá
mè, trôi, trắm, cá trăm đen, cá cháy, cá vền, tuy nhiên 3 loài cá nuôi chủ yếu là cá mè, cá trôi,
cá trắm.. nhờ học tập kinh nghiệm của các nhà khoa học Trung quốc, các nhà khoa học Việt
nam đã tìm ra bãi đẻ của cá trôi trên Sông Thao. Năm 1957 nhân dân đã vớt được 757.540
ngàn cá bột, năm 1958 là 898.610 ngàn và sang năm 1959 là hơn 1,135 triệu con (Lê văn Đán,
1960). Cùng với nghề vớt cá bột, nghề ương cá giống cũng không ngừng được cải tiến để
nâng cao tỷ lệ sống của cá bột.
Sản lượng cá thịt trong thời gian này cũng ngày càng được gia tăng. Sản lượng năm
1957 là 7.620 tấn, năm 1958 là 10.140 tấn, đến năm 1959 là 12.870 tấn (Lê văn Đán, 1960).
Tính đến năm 1974, diện tích được thả nuôi cá nước ngọt đã đạt trên 122.000 ha, khắp cá xóm
thôn miền Bắc, các vùng kinh tế từ đồng bằng đến miền núi, nói chung nơi nào có ao hồ,
ruộng trũng đều ít nhiều đã nuôi cá. Đã có 7.000 hợp tác xã tổ chức nuôi cá và nghề này trở
thành nghề chính trong trong sản xuất nông nghiệp, vì thế yêu cầu con giống cũng gia tăng
(Nguyễn Thành Tài, 1975). Để đáp ứng nhu cầu về con giống các cơ sở xuất cá giống ở miền
Bắc đã sản xuất cá giống bằng phương pháp sinh sản nhân tạo. Cá mè hoa (Aristichtys
nobolis) đã được cho đẻ thành công vào năm 1963 -1964. Kết quả nầy được nhân rộng và sau
nầy đã cho đẻ được hàng trăm triệu các loài cá có giá trị kinh tế (Nguyễn Thành Tài, 1975).
Ngoài việc nghiên cứu và sản xuất thành công một số loài cá nước ngọt. Việc di nhập,
thuần hóa và lại tạo các loài cá nuôi cũng đã được các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu.
Loài cá đầu tiên được nhập vào miền Bằc nước ta là cá rô phi đen (Orochromis mossambicus)
năm 1951 từ Indonesia. Đây là loài cá ăn tạp dễ nuôi và là một trong những loài cá cá có tốc
độ thuần hóa nhanh. Cá rô phi đen là loài cá đã góp phần phát triển nghề nuôi cá, tạo năng
xuất và sản lượng cá nuôi đáng kể vào những năm 60 và nửa đầu thập kỷ 70 ở miền Bắc (Bộ
Thuỷ sản, 1996). Đến năm 1973, cá rô phi vằn (Orochromis niloticus) có kích thước lớn hơn
cá rô phi đen đã được nhập từ Đài Loan. Cá mè trắng Hoa Nam (Hyphophththal michthys
molitrix) nhập từ Trung quốc vào năm 1964 và cho sinh sản thành công cung cấp giống cho
người nuôi. Đến năm 1971-1972 hai dòng cá chép được nhập từ Hungari (Bộ Thuỷ sản,
1996). So với cá Chép Việt nam cá chép Hung có tốc độ sinh trưởng nhanh hơn.
Ngòai việc sản xuất giống cung cấp cho người nuôi, ở thời kỳ này, các nhà quản lý,
các nhà khoa học Viện nam đã bắt đầu quan tâm đến việc phục hồi và phát triển nguồn lợi tự
nhiên. Năm 1967, Viện nghiên cứu nuôi trồng Thủy sản 1 đã thả hàng chục ngàn con cá Mè
hoa, Trắm cỏ cỡ 100 - 200 gram ra Sông Hồng và cho tới nay hai loài này đã được thần hóa
7
và phát triển ổn định. Cá lớn nhanh, phát tán rộng và đã để tự nhiên trên sông (Bộ Thuỷ Sản,
1996).
Mặc khác, để nâng cao hơn nữa hiệu quả nuôi cá, các nhà khoa học trong thời kỳ này
đã có nhiều công trình nghiên cứu về cơ cấu, mật độ, tỷ lệ ghép các loài cá trong ao nuôi
nhằm tận dụng nguồn thức ăn tự nhiên hiện diện trong các lọai hình thủy vực. Các hình thức
nuôi cá ao, cá ruộng, cá nước chảy, nước tĩnh, nuốc thải cũng đã được nghiên cứu. Vấn đề
thức ăn cho cá trong thời kỳ này tập trung nghiên cứu sử dụng nguồn thức ăn sẵn có, rẻ tiền
phù hợp với từng địa phương nhằm tận dụng tối đa nguồn phụ phẩm trong nông nghiệp. Các
nghiên cứu về sử dụng và gây nuôi thức ăn tự nhiên, nghiên cứu sử dụng phân hữu cơ ứng với
các giai đoạn phát triển của cá trong ao nuôi cũng được quan tâm nghiên cứu. Song song với
việc cải tiến kỹ thuật và nâng cao năng suất cá nuôi, việc phòng và trị bệnh là một mắt xích
không thể thiếu. Trong thời kỳ này các nghiên cứu về bệnh do ký sinh trùng gây nên và cơ
bản đã được giải quyết. Cách phòng ngừa và thuốc trị bệnh đơn giản và mọi nơi đều có thể áp
dụng (Trung tân nghiện cứu thuỷ sản nội địa, 1983)
Trong khi đó, ở miền Nam vào thời kỳ này nghề nuôi cá nước ngọt vẫn chưa thực sự
phát triển. Nguồn lợi cá nước ngọt chủ yếu vẫn là nguồn cá đồng (cá Lóc, cá rô đồng, cá trê
vàng, cá sặc rằn, cá Thát lát …). Sản lượng cá đồng trong thời kỳ này khoảng 50.000 - 64.000
tấn/năm. Mô hình nuôi cá ao, đối với cá tra vẫn là mô hình nuôi cá nước ngọt chủ yếu. Toàn
miền Nam có khoảng 21 trại sản xuất cá giống cá với sản lượng cá giống từ 1.200.000 2.000.000 con/năm (Nha ngư nghiệp, 1968). Có thể nói, nghề nuôi cá nước ngọt đáng kể nhất
ở miền Nam vào thời kỳ này là nghề nuôi cá bè. Nghề nuôi cá bè được nhập vào miền Nam từ
những năm 1960 tại các vùng phụ cận thị xã Châu đốc (An Giang) sau đó phát triển dần lên
đế năm 1968-1969 ở các vùng Châu đốc, Châu Phú, Phú Châu, Chợ Mới (An giang) và một
số khu vực thuộc miền Đông Nam bộ, như Đồng Nai (Pantulu, 1979). Đến năm 1974 số
lượng bè nuôi đạt trên 7000 cái. Các đối tượng thả nuôi chính là cá Basa (Cá Bụng), cá Vồ, cá
Chài, cá He, cá Lóc bông. Năng suất đạt 5 tấn/bè/năm (Phạm Hữu Đức và Trần Trương Lưu,
1989), trong đó cá Mùi (Helostoma temminski) là loài cá duy nhất được nhập vào miền Nam
trước ngày giải phóng. Lúc đầu, cá được nhập vào làm cá cảnh, nhưng sau đó cá sinh sản dễ
dàng trong ao, mương vườn và ruộng lúa, cá lớn nhanh nên chúng nhanh chuyển thành đối
tượng nuôi ở các tỉnh Nam bộ (Bộ Thuỷ Sản, 1996). Từ sau ngày đất nước hoàn toàn giải
phóng, nghề nuôi thủy sản đã được Đảng và nhà nước quan tâm. Nghề nuôi thủy sản nuôi
thủy sản nước ngọt không ngừng phát triển và phát triển mạnh từ năm 1980 đến nay.
Tương ứng với sự gia tăng về diện tích nuôi, sản lượng cá đã không ngừng được nâng
cao. Sản lượng cá và thủy sản (không tính tôm) nội địa năm 1987 là 226.015 tấn, năm 1992 là
303.000 tấn. Sản lượng cá nuôi ở miền Bắc không ngừng tăng trong những năm 1986 -1990.
Theo thống kê của Viện kinh tế và quy hoạch thủy sản năm 1990, sản lượng cá nuôi nuớc
ngọt ở các tỉnh phía Bắc là khoảng 42.393 ngàn tấn. Trong đó cá ao hồ nhỏ là 32.790 tấn
(77,34 %), cá ruộng 3.550 tấn (8,37 %), cá mặt nước lớn 3.671 tấn (8,65 %), cá lồng bè 274
tấn (0,67 %). Sản lượng cá nuôi gấp 39 - 40 lần sản lượng cá tự nhiên.
8
Bảng 2: Sản lượng cá nuôi nội địa và thuỷ sản khai thác vùng Đồng Bằng Sông Hồng
Năm
Tổng số (tấn)
Thủy sản nội địa (tấn)
(%)
1986
1987
1988
1989
1990
81.595
84.993
84.354
85.251
82.873
35.497
36.050
37.198
45.782
42.393
43,50
42,41
44,09
53,70
51,15
Trung bình
83.813
39.384
46,99
Ở miền Nam, sản lượng sản lượng cá nuôi năm 1986 là 79.560 tấn, trong đó cá ao hồ
là 37.270 tấn, cá ruộng trũng, 15.100 tấn và cá lồng bè đạt 5.741 tấn.
Bảng 3: Cơ cấu sản lượng thuỷ sản nội địa ở các tỉnh vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long
năm 1986 (Theo Viện Kinh Tế và quy hoạch thuỷ sản 1990)
Cơ cấu sản lượng theo vực nước
TT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
Cơ cấu sản lượng thuỷ sản nội địa
Các tỉnh
Cá ao
Cá
ruộng
Cá lợ
Cá bè
Tiền Giang
Bến Tre
Cửu Long
Hậu Giang
Minh Hải
Kiên Giang
Long An
An Giang
Đồng Tháp
Tổng Cộng
Tỉ Lệ %
4.400
5.000
6.200
5.650
5.520
1.000
3.200
4.000
2.300
37.270
714
256
1.500
1.270
4.600
2.200
160
800
3.600
15.100
750
750
6.203
4.600
450
600
8.100
21.453
5.521
220
5.741
15.000
10.000
32.000
21.000
5.000
12.000
23.000
28.000
16.400
162.400
5.864
6.006
13.903
11.520
3.650
3.960
18.216
10.321
6.120
79.560
9.136
3.994
18.097
9.480
1.350
8.040
4.780
17.679
10.280
82.836
46,8
18.9
27,0
7,3
100
49,0
51,0
Tổng sản Cá nuôi Cá tự nhiên
lượng (tấn) (tấn)
(tấn)
Đến năm 1999 tính riêng cá nuôi nước ngọt, sản lượng cả nước đạt 386.000 tấn (Bộ
thủy sản, 2000). Đây là một bước tiến nhảy vọt về hiệu quả sản xuất của nghề nuôi cá nuớc
ngọt đối với ngành thủy sản, góp phần quan trọng trong việc xuất khẩu cũng nhu cung cấp
nguồn thực phẩm cho cả nước.
VI. NUÔI THỦY SẢN Ở VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG, VIỆT NAM
1. Đặc điểm điều kiện tự nhiên ở vùng ĐBSCL
Chế độ nhiệt
Đồng Bằng Sông Cửu Long thuộc vùng nhiệt đới gió mùa điển hình, nhiệt độ trung
bình tháng dao động từ 26.5 - 27 0 C. Tháng lạnh nhứt xuất hiện từ tháng 12 - 1 năm sau, với
9
nhiệt độ trung bình từ 23 – 25 0 C. Tháng nóng nhứt xuất hiện từ tháng 3 - 4, nhiệt độ dao
động từ 32 – 33 0 C. (Niên giám thống kê Việt nam, 2000).
Chế độ mưa
Chế độ mưa thay đổi theo mùa và vùng địa lí, vũ lượng mưa trung bình ở vùng
ĐBSCL là 1.600 mm. Ở phía tây nam, vũ lượng dao động từ 2.000 - 2.500 mm. Vùng trung
tâm ĐBSCL vũ lượng trung bình từ 1.200 - 1.500 mm. Vào mùa mưa (Tháng 5 - 10), vũ
lượng chiếm khỏang 90 - 94 %, nhưng ngược lại vào mùa khô, vũ lượng chỉ chiếm khỏang 6 10 % (Tháng 11 năm trước - tháng 4 năm sau).
Đặc điểm thủy văn ở vùng ĐBSCL
Mực nước ở vùng ĐBSCL thường bị ảnh hưởng bởi dòng chảy của sông Cửu Long, bị
ảnh hưởng bởi chế độ bán nhựt triều không đều (Biển đông) và nhựt triều không đều (Biển
tây). Vào mùa mưa, kết hợp dòng chảy trên sông Củu Long, lưu lượng có thể đạt tới 40.000
m3/sec. Hàng năm, ở vùng ĐBSCL, lũ thường xụất hiện vào mùa mưa từ tháng 8 - 10. Theo
Nedeco (1993), vùng ven biển phía tây với biên độ triều dao động tù 0.40 – 1.2 m, ngược lại
vùng ven biển phía đông có biên độ triều dao động cao từ 2.50 - 3.50 m.
Đặc điểm thỗ nhưỡng ở vùng ĐBSCL
Đất ĐBSCL chủ yếu là đất phù sa trẻ, hình thành dọc theo 2 bờ sông Tiền và sông
Hậu, nhiễm phèn nhiều ở vùng tứ giác Long Xuyên và vùng cửa Trần Đề. Đặc điểm thỗ
nhưỡng của vùng được mô tả chi tiết bởi Giáo sư Võ Tòng Xuân và Matsui, 1998
•
Đất phù sa: xuất hiện dọc theo 2 bên bờ sông Tiền và sông Hậu, chiếm một tỉ lệ diện
tích khỏang 1.100.000 ha, tỉ lệ khòang 28 %. Vùng đất nầy thì thích hợp cho việc
trồng lúa.
•
Đất nhiễm phèn: chiếm diện tích khỏang 1.590.000 ha, tập trung chính ở vùng Tứ
giác Long xuyên. Có 2 lọai đất nhiễm phèn (1) đất lợ mặn và nhiễm phèn, xuất hiện
nhiều ở vùng ven biển và (2) Đất nhiễm phèn tìm thấy nhiều ở vùng tứ giác Long
xuyên. Diện tích đất nhiễm phèn chiếm khỏang 1.080.236 ha (28 % vùng ĐBSCL).
Độ pH dao động từ 2.26 - 3.54.
•
Đất nhiễm mặn: tìm thấy nhiều ở vùng ven biển, chiếm diện tích khỏang 808.749 ha
(21 %).
•
Phần diện tích còn lại là đất đồi núi
2. Đặc điểm chung của 7 vùng sinh thái ở ĐBSCL
+ Vùng 1: Vùng phù sa ngọt ven sông Tiền và sông Hậu
Vùng phù sa ngọt phì nhiêu, chiếm diện tích hơn 900.000 ha. Đây là vùng đất thích
hợp cho việc sản xuất lúa, các lọai cây ăn trái nhiều nhứt ở vùng ĐBSCL.
+ Vùng 2: Vùng phù sa ven biển đông
10
Vùng nầy chiếm diện tích hơn 600.000 ha. Họat động chủ yếu là nuôi trồng thủy sản
với các hệ thống sản xuất chuyên canh và kết hợp tùy thuộc vào điều kiện thời tiết (mùa mưa
và mùa nắng).
+ Vùng 3: Vùng bán đảo Cà mau
Đây là vùng chiếm diện tích khỏang hơn 800.000 ha, với nguồn tài nguyên rất phong
phú và đa dạng. Vùng có thời gian ngập mặn, với việc khai thác các đối tượng nuôi thủy sản
nước lợ và mặn. Họat động sản xuất lúa, chủ yếu là lúa một vụ vào mùa mưa.
+ Vùng 4: Vùng Tây sông Hậu
Vùng chiếm diện tích khỏang 600.000 ha. Đây là vùng sản xuất chủ yếu lúa gạo, các
lọai cây ăn trái và rau màu nổi tiếng ở vùng ĐBSCL.
+ Vùng 5: Vùng Tứ giác Long Xuyên
Vùng chiếm diện tích khỏang 400.000 ha, bị nhiễm phèn, sản xuất chủ yếu là lúa 1 vụ,
năng suất thấp, bên cạnh đó cây tràm và bạch đàn là 2 đối tượng được tập trung khai thác, qui
họach trồng đạt hiệu quả, lợi nhuận cao nhứt.
+ Vùng 6: Vùng ngập nước Đồng Tháp mười
Đây là vùng chiếm diện tích hơn 500.000 ha, vùng đất bị nhiễm phèn. Họat động canh
tác lúa hiện nay có thể tăng lên 2 vụ trong năm, nơi có nguồn nước ngọt phong phú. Phần diện
tích còn lại chủ yếu là trồng Tràm và Bạch đàn. Đây là vùng có nguồn lợi cá đồng rất phong
phú, sản lượng cao.
+ Vùng 7 : Vùng đồi núi
Đây là vùng chiếm diện tích khỏang 200.000 ha. Chủ yếu là đá tảng và đá vôi xuất
hiện nhiều ở Kiên Giang và An Giang. Đây cũng là vùng duy nhứt trồng một số cây ăn trái
thích hợp với vùng đồi núi ở ĐBSCL.
3. Hiện trạng và tiềm năng nuôi thủy sản ở vùng ĐBSCL
¾ Hiện trạng nghề nuôi thủy sản vùng ĐBSCL
Có thể nói vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long là một trong 7 vùng kinh tế trọng điểm
quan trọng, nằm ở phần cực nam của đất nước, có diện tích tự nhiên xấp xỉ 4 triệu ha, chiếm
khỏang 12 % tổng diện tích cả nước. Đồng bằng Sông Cửu Long là vùng hạ lưu châu thổ
Sông Mekong, được xem là vùng trù phú nhứt, không chỉ của Việt nam mà của cả vùng Đông
Nam Á. Ở đây có những đặc trưng của một châu thổ thuộc miền nhiệt đới ẩm điển hình. Đây
là vùng trọng điểm sản xuất lương thực, thực phẩm lớn nhứt của cả nước. Giá trị sản xuất
nông - lâm - ngư nghiệp của toàn vùng hằng năm chiếm khỏang 40 % tổng giá trị sản xuất.
Sản lượng lúa của vùng ĐBSCL chiếm trên 50 % tổng sản lượng lúa và hằng năm đóng góp
đến 90 % sản lượng gạo xuất khẩu của cả nước. Đồng Bằng Sông Cửu Long còn là vùng nuôi
trồng thủy sản lớn nhứt của cả nước, sản lượng thủy sản của vùng chiếm khỏang 50 %, diện
tích nuôi trồng chiếm khỏang 60 %, sản lượng nuôi trồng thủy sản chiếm khỏang 65 % và giá
11
trị xuất khẩu thủy sản chiếm đến 51 % của cả nước. Năm 2003 kim ngạch xuất khẩu của
ngành nuôi thủy sản đạt 2.240.000.000 USD (Thời báo kinh tế, 2004).
Sản xuất nông nghiệp ở Đồng Bằng Sông Cửu Long trong thời kỳ đổi mới vừa qua
được đánh giá là phát triển tốt, nhứt là ngành hàng sản xuất lúa và nuôi trồng thủy sàn.
Nguyên nhân chính là do ở vùng ĐBSCL đã có sự biến đổi cơ bản của các thành phần kinh tế,
trong đó nông dân đã thực sự trở thành đơn vị tự chủ sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp
và thủy sản, do vậy các hộ đã yên tâm đầu tư thêm lao động, vốn, sử dụng hiệu quả diện tích
đất đai, mặt nước nhằm tạo ra thêm nhiều sản phẩm hàng hóa cho tiêu dùng trong nước và
xuất khẩu. Gần đây, chương trình chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy
sản ở các tỉnh vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long đã và đang thực hiện và cũng đã và đang đạt
được các kết quả tốt. Tuy nhiên, do họat động sản xuất nông nghiệp nói chung và thủy sản nói
riêng là những vấn đề khá rộng và rất phức tạp cả về mặt kinh tế, kỹ thuật và xã hội, có liên
quan đến các ngành và hàng triệu nông dân, nên nền nông nghiệp ở ĐBSCL vẩn đang phải
đối mặt với nhiều thách thức mới, liên quan đến sản xuất, chế biến và tiêu thụ, thị trường giá
cả. Giải quyết đồng bộ các vấn đề nói trên sẽ góp phần tích cực vào sự phát triển nền nông
nghiệp, thủy sản vùng nông thôn ĐBSCL ngày càng bền vững.
Từ những năm 80 diện tích nuôi thủy sản đã không ngừng dược mở rộng. Diện tích
nuôi trồng thủy sản nuớc ngọt năm 1982 trong cả nước là 213.000 ha, tăng lên 300.000 ha vào
năm1992 (Bộ Thuỷ Sản, 1993). Năm 1998 diện tích nuôi cá nước ngọt là 335.900 ha, trong
đó ao hồ nuôi cá nhỏ là 82.700 ha chiếm 70% tiềm năng về ao hồ nhỏ, nuôi thủy sản ruộng
trũng là 154.200 ha chiếm 26,6%, tập trung chủ yếu ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu long và
đồng bằng sông Hồng (Bộ Thuỷ Sản, 1999). Đến năm 2001 diện tích nuôi cá nước ngọt trong
cả nước đã tăng lên 408.700 ha (Bộ Thủy sản, 2002). Qua bảng 1 ta thấy diện tích nuôi thủy
sản nước ngọt nuớc ta đã không ngừng gia tăng từ những năn 1987 đến nay. Sự phát triển đa
dạng mô hình nuôi nước ngọt đã làm cho nhiều diện tích mặt nước hoang hóa trước đây bị bỏ
hoang, hoặc sản xuất các sản phẩm nông nghiệp khác không hiệu quả đã được chuyển dần
sang nuôi thủy sản. Đây là kết quả của cả một sự nổ lực không ngừng của ngành thủy sản
Viện nam.
Bảng 4: Diện tích nuôi thủy sản ở Việt Nam giai đọan từ năm 1982 - 2001
Diện tích
1982
1987
1992
1998
2001
Tổng diện tích
231.000
400.000
530.000
626500
879500
Nuôi thủy sản nước ngọt
213.360
262.000
325.000
335.900
408.700
Bảng 5: Tiềm năng diện tích mặt nước hữu ích cho nghề nuôi thủy sản ở ĐBSCL
Tiềm năng
Ao
Ruộng lúa
Đầm nước lợ
Tổng số
Diện tích (ha)
24.260
320.000
126.600
470.000
Tỉ lệ (%)
5.2
68
26.8
100
Nghề nuôi thủy sản nước ngọt trong suốt hơn 70 năm qua đã không ngừng phát triển,
đặc biệt từ sau năm 1980. Việc đa dạng hóa các mô hình nuôi và mở rộng diện tích đã góp
phần đáng kể vào việc gia tăng sản luợng cá nước ngọt trong cả nước. Nhiều công trình
12
nghiên cứu khoa học có giá trị đã được ứng dụng vào sản xuất. Nhiều loài cá nuôi được di
nhập, thuần hóa, lai tạo đã làm phong phú thêm số loài cá nuôi ở nước ta. Với mục tiêu đến
năm 2010 là sử dụng hợp lý tiềm năng mặt nước ngọt có, phát triển nuôi thuỷ sản nước ngọt
với nhiều hình thức trong các loại hình mặt nước, phát triển nhiều giống loài kinh tế, thâm
canh hoá trong nuôi thuỷ sản của ngành thuỷ sản, chúng ta tin rằng nghề nuôi cá nước ngọt
nuớc ta sẽ tiếp tục phát triển đạt chỉ tiêu sản lượng cá nuôi đến năm 2010 là 870 ngàn tấn.
1. Phát triển các mô hình nuôi hiệu quả
Đa dạng hóa mô hình nuôi là một trong những chương trình phát triển trọng điểm của
ngành thuỷ sản nước ta. Trong suốt thời gian qua ngoài các mô hình nuôi cá nuôi cá quảng
canh, quy mô nhỏ, không được đầu tư đúng mức đã được thay thế dần bằng mô hình nuôi cá
thâm canh, năng suất cao đã đóng góp quan trọng vào việc làm gia tăng sản lượng cá nước
ngọt trong cả nước.
1.1. Mô hình nuôi cá thâm canh và kết hợp trong ao đất
Mô hình nuôi cá ao truyền thống vẫn không ngừng được cải tiến theo hướng thâm
canh hóa. Mô hình nuôi cá vườn ao chuồng (VAC và VAC-B) mang lại hiệu quả thiết thực và
đang được nhân rộng. Năm 1992, năng suất cá nuôi ao ở cá tỉnh phía bắc là 4 tấn/ha thì đến
năm 1999 năng suất đã 7 - 9,7 tấn/ ha/vụ. Ở Miền nam, cá tra nuôi ao những năm 90 chỉ đạt
khoảng 7 - 8 tấn/ha thì đến năm 1999 một số hộ nuôi cá tra điển hình đã đạt đến 30 - 40
tấn/ha/vụ, có điểm đạt 70 - 80 tấn/ha/vụ, gần đây với mật độ 20 con/m2, năng suất cá Tra nuôi
1 ha diện tích mặt nước có thể đạt 200 tấn. Tính đến năm 1999 cả nuớc đã có 82.600 ha nuôi
cá ao hồ nhỏ sản lượng đạt 130.000 tấn (Bộ Thuỷ sản, 1993, 2000, 2001a). Ngoài cá đối
tượng nuôi truyền thống như mè, chép, trôi, trắm, cá tra, nhiều đối tượng nuôi mới có giá trị
xuất khẩu cũng đã được đưa vào nuôi như cá bống tượng, cá basa, trê lai, cá rô phi toàn đực,
các loài cá đồng như: cá lóc, rô, sặc rằn....
1.2. Mô hình nuôi luân canh, xen canh cá tôm trong ruộng lúa
Nghề nuôi cá ruộng trước đây đã được phát triển ở cả tnước, đặc biệt là cá tỉnh phiá
Bắc. Sau ngày miền Nam giải phóng đồng bào Nam bộ cũng đã nuôi cá trong ruộng lúa tập
trung ở các vùng thuộc khu vực Đồng bằng sông Cửu long. Các đối tượng nuôi chính là sặc
rằn, rô phi, chép, sau đó một số loài khác như mè trắng, mùi, trê lai cũng đã được bổ sung vào
nhóm cá nuôi trong ruộng lúa. Năng suất cá nuôi đạt 100 - 350 kg/ha (Phạm Hữu Đức &Trần
Trường Lưu, 1989)
Thực hiện chủ trương chuyển đổi kinh tế nông nghiệp, nông thôn, nâng cao hiệu quả
sản xuất trên một đơn vị diện tích canh tác, tăng năng suất trên một đơn vị canh tác. Nhiều địa
phương trong cả nước xây dựng các mô hình nuôi luân canh, xen canh cá luá. Năng suất bình
quân đạt 250 - 400 kg/ha, một số nơi đạt năng suất 1-1,7 tấn/ha (Bộ Thuỷ Sản, 2001)
Theo đánh giá của Bộ Thủy sản, việc canh tác luân, xen canh đã đem lại hiệu quả rõ
rệt so với hình thức chuyên lúa trước đây. Đặc biệt những vùng ruộng trũng cấy lúa bấp bênh,
năng xuất thấp, cải tạo ruộng để nuôi 1 vụ cá hoặc 1 vụ tôm kết hợp với 1 vụ lúa đã không chỉ
làm tăng và ổn định năng suất lúa mà giá trị lợi nhuận và thu nhập từ cá, tôm cũng tăng lên
đáng kể so với mô hình trồng lúa độc canh trước đây.
13
1.3. Mô hình nuôi cá lồng bè
Nuôi cá lồng, bè đã và đang được phát triển ở nhiều nơi trong cả nước, không chỉ nuôi
cá lồng trên sông, còn mở rộng nuôi trên ao hồ chứa. Năm 1992, cả nuớc chỉ mới có khoảng
hơn 6.000 ngàn lồng bè nuôi cá. Trong đó ở các tỉnh phía Bắc có khoảng 5.000 lồng cá nuôi
có thể tích 12 - 24 m3/lồng, tập trung ở các tỉnh Thanh Hoá, Hà Tây, Hòa Bình, Sơn La,
Tuyên Quang. Trên sông Đồng Nai có 270 lồng cá trên hồ Trị an, đối tượng nuôi là cá bống
tượng, cá lóc Bông, năng suất bình quân 1-2 tấn/bè. Ở An giang thời gian này có khoảng 700
bè, kích thước 100-150m3/ bè nuôi cá, năng suất bè trung bình 15-20 tấn/nè/năm, bè lớn 100 150 tấn cá/năm, sản lượng 7.820 tấn/năm (Bộ Thuỷ sản, 1993)
Đến năm 2000 tổng số lồng bè cá nuôi nước ngọt trong cả nước là 16.000, tăng 10 lần
so với năm 1994, trong đó khoảng 4.000 lồng nuôi cá trên hồ và 12.000 lồng nuôi cá trên
sông. Cá bè lớn nuôi cá basa cá tra xuất khẩu tập trung ở hai tỉnh An giang : 2.550 bè, Đồng
tháp 1.874 bè. Nghề nuôi cá lồng trên cá hồ chứa cũng phát triển mạnh ở hồ Thác bà, Dầu
tiếng, Trị an... Nghề nuôi cá lồng trên hồ chứa còn có tác dụng tạo thế ổn định về đời sống xã
hội cho nhân dân trong vùng hồ kết hợp giữa khai thác, nuôi cá và bảo vệ vùng hồ (Bộ Thuỷ
sản, 2001). Ngoài các mô hình trên, ở cá tỉnh miền núi và tây nguyên nuôi cá ao nước chảy đã
trở thành tập quán của các gia đình đồng bào dân tộc. Nhiều nơi có đến hơn 70 - 80 % số hộ
gia đình có ao nuôi cá nước chảy, năng suất đạt bình quân từ 1-1,5 tấn/ha (Bộ Thuỷ sản,
2001)
2. Sản xuất giống thủy sản nước ngọt
Do diện tích nuôi thuỷ sản nước ngọt ngày càng gia tăng, nguồn giống khai thác từ tự
nhiên giảm sút nghiêm trọng, nên việc tăng cường sản xuất giống nhân tạo là rất cần thiết.
Đến năm 2000 cả nước có khoảng 400 cơ sở sản xuất cá giống. Ngoài những thành công về
cho đẻ nhân tạo cá loài cá nuôi truyền thống như mè, trắm chép, nhiều loài cá trước đây phải
vớt từ tự nhiên đã được cho sinh sản nhân tạo thành công (Bộ Thuỷ sản, 2001a)
Thành công lớn nhất phải kể đến là việc sản xuất giống cá Tra, cá basa. Sau một thời
gian dài nghiên cứu của các nhà khoa học của Viện nghiên cứu nuôi trồng Thủy sản 2 và
truờng Đại học Cần thơ, đến năm 1995 việc cho đẻ thành công với số lượng lớn cá tra, cá
basa. Điều này đã góp phần quan trọng trong việc chủ động đàn cá nuôi và hạn chế việc thu
vớt cá bột quá mức trên sông, bảo vệ nguồn lợi cá tự nhiên trên sông Mekong (Marc
Legendre, 1998). Các loài cá đồng có giá trị kinh tế cao như cá lóc, cá rô, cá thác lác cũng
được sinh sản nhân tạo thành công và chuyển giao xuống đến nhiều nông hộ, nhằm tăng
cường nguồn giống cá đồng cho các mô hình nuôi. Thử nghiệm cho đẻ nhân tạo và ương nuôi
các đối tượng quí hiếm như cá bỗng, cá chiên, cá lăng, cá anh vũ... (Bộ Thuỷ sản, 2001a).
3. Thuần hóa, di nhập cá nước ngọt
Để tăng cường số lượng loài cá nuôi cũng như thay thế một số loài nuôi đạt hiệu quả
không cao, ngành thủy sản đã quan tâm đến vấn đề thuần hóa và di nhập một số loài cá nuôi
vào Việt nam cũng như từ các vùng trong nước.
Để cải tiến dòng cá rô phi nhập về từ những năm 50, đến năm 1993 nước ta đã nhập về
cá rô phi cá rô phi vằn (Oreochromis.niloticus), rô phi xanh (O. aureus) từ Đài Loan, Thái
lan, Philippin, cá rô phi Hồng từ Cu ba và Thái Lan. Đây là những loài cá có kích thước lớn,
sinh trưởng tốt trong điều kiện nước ta. Ngoài ra việc công nghệ sản xuất giống cá rô phi toàn
đực thành công đã góp phần không nhỏ vào việc nuôi cá rô phi trong cả nước (Bộ Thuỷ sản,
1996)
14
Sau năm 1975, ở miền Nam đã nhập về giống cá Trê phi, đây là loài cá ăn tạp, sinh
trưởng rất nhanh, chịu đựng tốt vối điều kiện môi trường khắc nghiệt. Tuy nhiên do thị hiếu
nguời tiêu dùng loài cá này không được phát triển nuôi. Đến năm 1990, việc cho lai tạo thành
công giữa cá trê vàng và cá trê phi đã cho ra một đối tượng cá trê lai, có sức lớn nhanh, ăn tạp,
ít bệnh tật (Bộ Thuỷ sản, 1996). Hiện nay cá trê lai đang là đối tượng nuôi chính ở nhiều vùng
trong cả nước, năng suất nuôi đạt 20-30 tấn/ha, cao nhất 100 tấn/ha ở những cùng có nguồn
thức ăn cung cấp từ phụ phẩm của các nhà máy chế biến thủy sản. (Bộ Thuỷ sản, 2001a).
Sau nhóm cá chép nhập từ Trung quốc từ trước năm 1975. Sau năm 1975, cá chép vảy
Hunggari cũng đã được nhập Viêtû nam và phát triển nuôi ở nhiều vùng trong cả nuớc. Đến
năm 1982 Viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản 1 đã nhập các loài cá chép ấn độ như: Cá Rô
hu (Labeo rohita Hamilton), Mirgal (Cirrihinus mirgala) và Catla (Catla catla) từ Lào và
Thái Lan. Đây là những loài ăn tạp thiên về thực vật, sống ở tầng đáy và tầng giữa có sức sinh
trưởng nhanh. Các đối tượng này được phát trển nuôi trong ao, ruộng, hồ chứa (Bộ Thuỷ sản,
1996). Vừa qua chúng ta cũng đã nhập và nuôi thử nghiệm một số đối tượng nuôi nước ngọt
mới như cá chim trắng, cá nheo Mỹ..(Bộ Thuỷ sản, 2001b)
Ngoài ra, để tăng cường các loài ca nuôi cho các vùng trong cả nuớc, sau ngày giải
phóng, nhiều loài cá đã được di giống và thuần hóa giữa các vùng trong cả nước. Di các loài
cá nuôi từ miền Bắc vào miền Nam: Nhằm tận dụng các diện tích hồ chứa, ao hồ tự nhiện
chúng ta đã di nhập giống cá mè trắng, mè hoa, trắm cỏ, chép từ miền Bắc và đạt kết quả rất
tốt (Bộ Thuỷ sản, 1996). Hiện nay các loài cá này đang là các đối tượng nuôi ghép trong
nhiều mô hình nuô ở khu vực ĐBSCL.
Di nhập các loài cá gốc châu phi ra Bắc như cá Rô phi vằn (O. niloticus) năm 1979,
thay thế dần cá rô phi đen. Cá Trê Phi, cá Trê vàng cũng được di nhập và được phát triển nuôi
tốt. Cá Mùi cũng đã được di nhập ra Bắc vào năm 1978. Ngoài ra các loài cá gốc miền Nam
như cá mè Vinh (1990), cá Tra (1978) cũng đã được di nhập và cho sinh sản nhân tạo cũng
như nuôi thành công tại các tỉnh phía Bắc (Bộ thuỷ sản, 1996). Nhìn chung công tác nhập nội,
di giống thuần hóa của chúng ta trong những năm vừa qua là đúng hướng và thu được những
hiệu quả to lớn. Chúng ta đã tập hợp đàn cá nuôi nuôi khá đầy đủ để nuôi có hiệu quả ở cả hai
miền, đã thúc đẩy nghể nuôi cá phát triển nhanh, mạnh và vững chắc.
Ngoài việc di nhập và thuần hóa, nhiều công trình nghiên cứu khả năng ứng dụng ưu
thế lai vào sản xuất nghề cá. Nhiều kết quả lai đã nâng cao năng xuất, sản lượng cá nuôi ở
nhiều địa phương. Đáng kể nhất là các công công trình nghiên cứu lai kinh tế giữa cá chép với
cá chép như cá chép Trắng Việt nam với cá chép Kính Hung, cá chép Trắng Việt Nam với cá
chép vảy Hung (Phạm mạnh Tưởng & Trần Mai Thiên, 1979). Lai kinh tế cá rô phi vằn (O.
niloticus) và cá rô phi đen (O. mossambicus) (Nguyễn Công Thắng, 1988), cá Trê Lai (Phạm
Báu, 1994), Cá mè trắng Việt Nam và cá mè trắng Trung Quốc (Nguyễn Quốc Ân, 1993), Mè
trắng và mè Hoa (1993). Ở miền Nam từ những năm 1998 đến nay cũng đã thử nghiệm thành
công lai tạo cá Tra lai và cá Basa lai, tuy nhiên việc đưa đối tượng này vào nuôi thì con đang
cân nhắc.
4. Phòng và trị bệnh cá nước ngọt
Việc nuôi cá thâm canh với mật độ cao, thức ăn cung cấp nhiều nên môi trường nuôi
thường bị ô nhiễm là nguyên nhân xuất hiện một số bệnh thủy sản trong các mô hình nuôi
nước ngọt. Nghiên cưú về ký sinh trùng cá tôm nước ngọt ĐBSCL và một số biện pháp phòng
trị (Bùi Quang Tề, 1992), Nghiên cứu các biện pháp phòng trị bệnh cho tôm cá (Hà Ký,
1996). Biện pháp phòng và trị bệnh một số bệnh thường gặp một số đối tượng cá nuôi (Vũ
Thị tám và ctv, 1993). Nhiều nghiên cứu và điều trị bệnh trên các đối tượng cá nuôi lồng bè
15
như cá Tra, Basa, Bống tượng đã được nghiên cứu. Đồng thời cũng đã sản xuất một số loại
thuốc trị bệnh cho tôm cá nuôi.
5. Sử dụng và sản xuất thức ăn
Để nâng cao hiệu quả của nghề nuôi cá nước ngọt việc khuyến khích người nuôi sử
dụng nguồn nguyên liệu địa phương, sẵn có, rẻ tiền để nuôi cá vẫn được tiếp tục phát triển.
Tuy nhiên, trong mô hình nuôi thâm canh thì việc sử dụng thức ăn công nghiệp đã được
khuyến khích người nuôi. Nếu những năm 90, thức ăn công nghiệp chủ yếu được nhập từ
nước ngoài, hoặc do các công ty nước ngòai đầu tư và sản xuất ở Việt Nam thi đến nay nhiều
công ty sản xuất thức ăn trong cả nuớc đã được xây dựng, góp phần vào việc giảm giá thành
thức ăn tăng hiệu quả của người nuôi. Tính đến năm 2000 cả nước có 64 cơ sở sản xuất thức
ăn nuôi trồng thủy sản với công xuất 64.000 tấn/năm, nhập thêm khoảng 40.000 tấn từ Thái
Lan, Hồng Kông, Đài Loan (Bộ Thuỷ sản, 20001b)
¾ Tiềm năng, sản lượng một số đối tượng nuôi thủy sản vùng ĐBSCL
Theo số liệu của Bộ thủy sản về tình hình tiêu thụ các sản phẩm thủy sản năm 2002
trong cả nước cho thấy, với 7 mặt hàng thủy sản chính là tôm, tôm hùm, cá rô phi, cá basa, cá
tra, nhuyễn thể, cá biển nuôi và sau cùng là rong biển, đã góp phần mang lại kim ngạch xuất
khẩu và lợi nhụận khá cao cho nền kinh tế Việt nam thời gian qua. Theo thống kê, năm 2002,
kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng thủy sản đạt giá trị đứng hàng thứ 3 (sau ngành dầu khí và
dệt may) trong cả nước.
1. Sản phẩm tôm nuôi
Ở Việt nam sau năm 1975, tôm càng xanh mới phát triển nuôi ở Đồng Bằng Sông
Cửu Long. Theo thống kê, các tỉnh Nam bộ có diện tích có thể nuôi tôm càng xanh là 168.000
ha, tuy nhiên hiện nay chỉ nuôi đạt khoảng 6.000 ha sản lượng 2.500 tấn/năm (Bộ thuỷ sản,
1999). Tôm càng xanh được nuôi tập trung ở các tỉnh Vĩnh long, Cần thơ, Tiền giang. Nghề
nuôi tôm hiện nay phổ biến với các hình thức nuôi như nuôi tôm kết hợp trên ruộng lúa, nuôi
trong mương vườn, nuôi ao, nuôi đăng quầng. Năng suất tôm nuôi đạt từ 100 - 300 kg/ha đối
với nuôi ruộng, 500 -1.200 kg/ ha/vụ đối với nuôi ao và 1.200-5.000 kg/ha đối với nuôi trong
đăng quầng (Hiền & ctv, 1999). Ở miền Bắc tôm cũng đã được đưa vào nuôi thành công từ
những năm 1982 và hiện nay đã phát triển ra nhiều khu vực (Phạm Minh Thành & ctv, 1991).
Do sự phát triển mạnh của mô hình nuôi tôm càng xanh nên nhu cầu về con giống
ngày càng gia tăng. Ở nước ta, từ năm 1975, FAO đã đầu tư xây dựng trại tôm càng xanh đầu
tiên tại Vũng Tàu. Tuy nhiên, sau ngày giải phóng, trại chưa hoàn chỉnh và chưa hoạt động.
Đến năm 1987, thông qua Ủy Ban Quốc tế sông Mêkông, chính phủ Úc đã tài trợ khôi phục
và hoàn chỉnh trại tôm Vũng Tàu. Các cơ quan, Viện, trường như Đại Học Cần Thơ, Viện
nghiên cứu Nuôi trồng thuỷ sản II từ năm 1980 đã có nhiều nghiên cứu và ứng dụng các qui
trình nước trong kín, nước trong hở và nước xanh trong sản xuất giống tôm càng xanh và đã
đạt được những kết quả quan trọng (Nguyễn Việt Thắng, 1993). Qui trình nước trong hở trở
thành qui trình chủ yếu và đã được triển khai ứng dụng ở Vũng Tàu và một số địa phương
như Tiền Giang, Trà Vinh, Cần Thơ và Bến Tre. Ở miền Bắc, tuy tôm càng xanh không phân
bố tự nhiên nhưng các nhà khoa học đã chuyển từ miền Nam ra và thử nghiệm sản xuất giống
thành công, tỷ lệ sống của ấu trùng đạt 34,4 % (Trần Mai Thiên và ctv, 1993)
Năm 1998 Khoa Thuỷ Sản - Đại Học Cần Thơ đã tiến hành nghiên cứu sản xuất tôm
càng xanh theo quy trinh này. Điểm quan trọng là không thay nước trong suốt quá trình ương,
16
sử dụng nguồn tảo nuôi từ cá rô phi, hệ thống rất đơn giản, chi phí thấp, rất dễ ứng dụng cho
nhiều đối tượng và nhiều nơi cả vùng xa biển. Hiện nay quy trình đã được phổ biến rộng rãi
trong cả nước. Tính đến năm 2000 sản lượng tôm giống đạt khoảng vài chục triệu (Bộ Thuỷ
Sản, 2001). Đây là một bước tiến nổi bật mở ra hướng phát triển cho nghề nuôi tôm càng
xanh trong cả nước.
Tổng sản lượng tôm nước mặn và nước lợ năm 2002 ước lượng là 284.969 tấn, trong
đó sản lượng từ khai thác chiếm khỏang 90.996 tấn. Nuôi và khai thác nội địa chiếm 193.973
tấn. Tôm càng xanh chủ yếu nuôi ở các tỉnh phía nam với sản lượng ước lượng đạt 10.886 tấn.
Tôm thẻ chân trắng chỉ mới được thử nghiệm phát triển nuôi ở một số địa phương. Năm 2002
xuất khầu tôm đông lạnh đạt 114.580 tấn với giá trị là 949, 418 triệu USD. Trong đó tôm
nguyên liệu dùng cho xuất khẩu tương ứng khỏang 180.000 tấn. Nhìn chung thị trường tôm
trên thế giới và trong nước luôn rộng mở, nhưng có nhiều biến động, các mặt hàng tôm đông
lạnh luôn đóng vai trò chính trong thương mại thủy sản, vì vậy có thể tăng sản lượng tôm nuôi
để xuất khẩu và tiêu thụ nội địa.
Dự báo, mức tiêu thụ tôm trên thế giới và trong nước vẫn tăng nhẹ. Năm 2003, sản
lượng tôm nói chung của Việt nam có thể đạt trên 300.000 tấn, trong đó sẽ co khỏang 150.000
tấn sẽ dành cho xuất khẩu, số còn lại sẽ tiêu thụ trong nước. Riêng tôm càng xanh, đối tượng
tôm nước ngọt hiện đang phát triển rất mạnh đối với một số tỉnh vùng ĐBSCL như Cần Thơ,
An giang và Vĩnh Long, Đồng Tháp. Dự báo năm 2003 có thể đạt hơn 15.000 tấn.
2. Cá rô phi
Cá rô phi đang là mặt hàng được ưa chuộng trong nước và trên quốc tế, đây là mặt
hàng cá thịt trắng có chất lượng thịt cao, có thể thay thế dần các lòai cá biển đang cạn kiệt
nguồn lợi. Hiện cá rô phi đang được xuất dưới dạng phi lê đông lạnh, cả nguyên con đông
lạnh và cá tươi sống, thị trường chủ yếu là Mỹ, Nhựt Bản, Trung Quốc, Đài Loan và Hồng
Kông.
Sản lượng cá Rô phi cả nước ta năm 2002 ước tính khỏang 25.000 - 30.000 tấn. Hiện
nay phong trào nuôi cá rô phi đang được phát triển, theo nhận định nhu cầu tiêu thụ cá rô phi
cho xuất khẩu và tiêu thụ trong nước rất cao, song vấn đề quan trọng là giá cả và chất lượng,
nếu được phát triển có qui họach với qui mô lớn, mặt hàng cá rô phi sẽ chiếm thị trường xuất
khẩu chỉ sau tôm sú và sẽ là mặt hàng tiêu thụ trong nước ưa thích nhứt. Năm 2003, mức tiêu
thụ nội địa và xuất khẩu đạt khỏang 40.000 tấn, chủ yếu dưới dạng tươi sống và phi lê. Tới
năm 2010, sản lượng có thể đạt đến 150.000 - 200.000 tấn.
3. Cá tra và basa
Sản lượng nuôi năm 2002 đạt hơn 200.000 tấn, các mặt hàng Basa phi lê được xuất
khẩu trực tiếp sang Mỹ và đã có tiếng vang trên thị trường thế giới. Lượng xuất khẩu năm
2002 đạt 56.000 tấn, đạt kim ngạch xuất khẩu khỏang 135 triệu USD. Tuy nhiên năm 2003
họat động xuất khẩu cá tra và basa đã gặp nhiều rào cản, do vậy để ổn định thị trường, Việt
nam cần mở rộng thêm thị trường ở các nước khác như Hồng Kông, thị trường Châu Âu,
Châu Á và Autralia, thậm chí mở rộng ngay cả thị trường tiêu thụ nội địa. Dự báo tổng sản
lượng cá da trơn chủ yếu là cá tra và basa năm 2003 là hơn 250.000 tấn và đến năm 2010 sản
lượng có thể đạt hơn 500.000 tấn. Tất nhiên tính hiện thực của dự đóan nầy sẽ còn lệ thuộc rất
nhiều vào khả năng ổn định thị trường tiêu thụ nội địa và mở rộng thị trường xuất khẩu.
17
4. Cá biển nuôi
Các lòai cá Hồng, cá song (cá bống mú) và cá chẽm, cá giò là những lòai cá nuôi rất
có triển vọng, có giá trị kinh tế cao và sau cùng la 2 người nuôi thu được lợi nhuận. Tất nhiên
để khai thác hiệu quả hơn nữa những lòai cá nầy, cần mở rộng đầu tư, qui họach, phát triển kỹ
thuật làm hạ giá thành sản phẩm nuôi, tăng lợi nhuận cho người nuôi. Dự kiến, năm 2003 sẽ
thu họach khỏang 12.000 tấn và đến năm 2010 sản lượng có thể tăng đến 100.000 tấn.
5. Rong biển
Sản lượng năm 2002 đạt 23.260 tấn rong khô và 1.800 tấn rong sụn tươi, đây là mặt
hàng có thể phát triển trồng để xuất khẩu và cung cấp cho công nghiệp chế biến. Dự báo, năm
2003 mức tiêu thụ sẽ đạt khỏang 25.000 tấn.
6. Nhuyễn thể
Thu họach từ 2 nguồn chính là khai thác (170.500 tấn) và nuôi (130.000 tấn). Năm
2002 đạt sản lượng 300.500 tấn. Nhuyễn thể xuất khẩu chủ yếu sang thị trường EU, Nhựt
Bản, và gần đây là sang thị trường Mỹ. Dự báo sản lượng năm 2003 sẽ là 350.000 tấn và đến
năm 2010 sản lượng sẽ là 600.000 tấn, trong đó sản lượng mang lại từ hoạt động nuôi chiếm
khỏang 400.000 tấn.
7. Các lòai thủy đặc sản khác
+ Baba
+ Rùa
+ Cá sấu
+ Lươn
+ Cá cảnh
•
•
•
Trong những năm gần đây, phong trào nuôi các loài thủy đặc sản phát triển khá mạnh
ở vùng ĐBSCL.
Tiếp tục nghiên cứu, hoàn chỉnh các mô hình nuôi, hình thành qui trình công nghệ
nuôi đạt hiệu quả trên các đối tượng đã nêu.
Thị trường tiêu thụ sản phẩm, trong và ngoài nước.
18
- Xem thêm -