Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tiểu luận tư tưởng hồ chí minhthống nhất giữa lý luận và thực tiễn...

Tài liệu Tiểu luận tư tưởng hồ chí minhthống nhất giữa lý luận và thực tiễn

.PDF
10
533
76

Mô tả:

Tiểu luận tư tưởng Hồ Chí Minh:Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn PGS,TS Đức Vượng(*) Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một trong những tư tưởng cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, học đi đôi với hành, nói và làm đi liền với nhau là một trong những tư tưởng cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đây vừa là nội dung hành động, vừa là phương pháp nghiên cứu theo quan điểm tư tưởng Hồ Chí Minh. Lý luận và thực tiễn là một trong nh ững vấn đề c ơ b ản c ủa khoa h ọc mácxít nói chung và của nhận thức luận mácxít nói riêng. Hồ Chí Minh coi lý luận và thực tiễn có mối liên hệ khăng khít với nhau, không th ể tách rời. Nó tác động lẫn nhau, chuyển hoá cho nhau. Trong mối liên h ệ này, thực tiễn có tác động quyết định và lý luận, đến lượt nó, l ại ph ản ánh vào thực tiễn. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, lý luận chính là nh ững kinh nghiệm rút ra từ thực tế (thực tiễn) trong mọi hoạt động của con người và xã hội. Còn thực tiễn lại cũng là toàn bộ nh ững ho ạt đ ộng c ủa con người để tạo ra những điều kiện cần thiết cho đời sống xã h ội. Quan điểm này của Hồ Chí Minh được phát triển trên cơ sở quan điểm lý luận của C.Mác cho rằng, thực tiễn, trước hết, là hoạt động vật ch ất, là sản xuất, vì đời sống của xã hội, sự sống của con người do sản xuất quy ết định. C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, Hồ Chí Minh đều có chung một nhận định là một trong những nhân tố quan trọng nhất hợp thành th ực tiễn là hoạt động cách mạng của những giai cấp, những tập đoàn xã hội nhằm xoá bỏ chế độ xã hội già cỗi, bóc lột, thay thế bằng chế độ xã hội mới, tiến bộ hơn, phát triển hơn. Hồ Chí Minh nói: "Lý luận là đem th ực t ế trong lịch sử, trong kinh nghiệm, trong các cuộc tranh đấu, xem xét, so sánh thật kỹ lưỡng, rõ ràng, làm thành kết luận. R ồi lại đem nó ch ứng minh với thực tế. Đó là lý luận chân chính. Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế"(1). Người còn nói: "Lý luận cốt để áp dụng vào công việc th ực tế. Lý lu ận mà không áp dụng vào thực tế là lý luận suông. Dù xem được hàng ngàn, hàng vạn quyển lý luận, nếu không biết đem ra thực hành, thì khác nào một cái hòm đựng sách"(2). Người kết luận: "Lý luận phải đem ra th ực hành. Th ực hành phải nhằm theo lý luận"(3). Ph.Ăngghen có lần nói rằng, mọi cái, xét cho cùng, đều quy công cho sản xuất. Như vậy, rõ ràng, lý luận được đ ẻ ra trên nền tảng của thực tiễn, là kết quả khoa học c ủa s ự khái quát kinh nghiệm thực tiễn của hoạt động đời sống xã hội. Không có thực ti ễn, không có lý luận khoa học. Thực tiễn phong phú sẽ làm cho lý lu ận phong phú. Thực tiễn không phong phú, lý luận cũng không th ể phong phú. Nh ư vậy, lý luận và thực tiễn bổ sung cho nhau, làm phong phú l ẫn nhau. Th ực tiễn đề ra những vấn đề yêu cầu lý luận phải giải đáp. Cho nên không có thứ luận khoa học nào mà "tự nặn ra". Chỉ có lý luận nào g ắn ch ặt v ới thực tiễn, phục vụ thực tiễn và được thực tiễn kiểm nghiệm, kiểm tra, thì lý luận đó mới đích thực là lý luận, mới bắt rễ sâu trong đời sống. Quan điểm của Hồ Chí Minh là mọi lý luận, xét cho cùng, đều quy về thực tiễn. Một nhà khoa học viết một công trình có "độ nhuyễn" giữa lý luận và thực tiễn, có tính khả thi, cũng là biết kết hợp giữa lý luận và thực tiễn. Trái lại, một công trình nghiên cứu toàn lý luận, không liên h ệ gì đ ến th ực tiễn, không đếm xỉa gì đến thực tiễn, công trình ấy cũng chỉ đạt yêu cầu một nửa. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói rằng, trong công tác của cán b ộ chúng ta có nhiều ưu điểm, những cũng bộc lộ nhiều khuyết điểm. Một trong những khuyết điểm là lý luận suông. Người kể có lần Người đi công tác trên Việt Bắc, dọc đường nghỉ chân, Người gặp một cán bộ tên là L đi t ập huấn chính trị về. Nhân tiện, Người hỏi về tình hình địa ph ương nơi cán bộ L công tác: "Mùa màng năm nay thế nào?". L trả lời: "Việc đó tôi đã động viên nhân dân rồi". Người hỏi: "Rồi sao nữa?". L nói: "Công vi ệc xem chừng khá". Người lại hỏi tiếp: "Rồi sao nữa?". L trả lời: "Chắc là có tiến bộ". Người lại hỏi: "Nói tóm lại là đã cấy được mấy mẫu?". L nói: "ở vùng chúng tôi, cày cấy hiện nay chưa đâu ra đâu cả". Trước những câu trả lời vu vơ, sáo rỗng như vậy, Người kết luận: "Trong Đ ảng ta, có một số người như thế. Chỉ biết nói là nói, nói gi ờ này qua gi ờ khác, ngày này qua ngày khác. Nhưng một việc gì thiết th ực cũng không làm được. Những người như thế cũng không dùng vào việc thực tế"(4). Theo Người, những khuyết điểm đó đều là "chứng bệnh". Trong các "ch ứng bệnh", có bệnh có thể chữa được ngay, nhưng cũng có bệnh "nan y", ph ải chữa cả đời. Người còn cho rằng, mỗi "chứng bệnh" phát sinh do nhiều nguyên nhân, trong đó, nguyên nhân của bệnh chủ quan là: "Kém lý luận, hoặc khinh lý luận, hoặc lý luận suông"(5). Theo Người, liều thuốc hiệu nghiệm nhất để chữa căn bệnh này, chính là "Phê bình và tự phê bình". Người nói: "Mỗi cán bộ, mỗi đảng viên, mỗi ngày phải tự ki ểm đi ểm, t ự phê bình, tự sửa chữa như mỗi ngày phải rửa mặt. Được như thế thì trong Đảng sẽ không có bệnh mà Đảng sẽ mạnh khoẻ vô cùng"(6). Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, học đi đôi với hành, nói và làm: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, học đi đôi với hành, nói và làm đi liền với nhau vào trong cu ộc s ống hôm nay, trước hết, chúng ta phải nghĩ ngay đến vấn đề đưa cuộc sống vào trong nghị quyết, chính sách của Đảng và Nhà nước và đưa nghị quy ết, chính sách của Đảng và Nhà nước vào trong cuộc sống. Đây chính là hai mặt của một vấn đề, có mối liên hệ khăng khít với nhau. Nó là s ự kh ởi nguồn của mọi vấn đề kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, học đi đôi với hành, nói và làm đi liền với nhau. Muốn xây dựng một ngh ị quy ết, chính sách tốt, cần thực hiện những công đoạn sau đây: (1) Ph ải ti ến hành đi ều tra xã hội học về vấn đề sẽ phản ánh vào trong nghị quyết, chính sách cho thật tỷ mỷ, chu đáo. (2) Phải nắm bắt nhanh nhạy đời sống xã h ội, ch ỉ đúng những mặt tích cực, những mặt tiêu cực để có biện pháp khắc ph ục. (3) Phải lấy ý kiến những người biết về lĩnh vực đó. (4) Nh ững người soạn thảo nghị quyết, chính sách có khả năng xử lý thông tin. (5) Có khả năng dự báo tốt. Dự báo gần đúng những hiện tượng, sự kiện xảy ra và quá trình có thể hay tất nhiên sẽ xảy ra, nhờ vào việc nắm bắt nhanh nhạy thực tiễn đời sống xã hội. (6) Nghị quyết, chính sách được thảo ra phải có những giải pháp cụ thể, thiết thực. (Hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh trưng bày tại Bảo tàng Hồ Chí Minh. Ảnh: Quỳnh Anh) Sau khi có nghị quyết, chính sách rồi, vấn đề đặt ra trước h ết là ph ải đ ưa được nghị quyết, chính sách vào trong cuộc sống xã hội, mà chúng ta thường nói là việc tổ chức thực hiện nghị quyết và vận dụng chính sách. Nhìn lại, thấy rằng, nghị quyết, chính sách rất nhiều, nhưng đưa nó vào trong cuộc sống lại chưa được bao nhiêu. Trong thực tế, có những công dân vi phạm pháp luật là do họ chưa h ề được biết luật đó nói gì. Vì v ậy, vấn đề đặt ra là phải có một hệ thống tổ chức từ trên xuống về phổ biến, tuyên truyền nghị quyết, luật pháp, chính sách của Đảng và Nhà n ước. Tại một số nước, sau khi ban hành luật và chính sách, nhà n ước đó b ỏ một khoản tiền ra in luật, chính sách, phát không cho từng gia đình và buộc người chủ gia đình phải có trách nhiệm phổ biến, học tập luật, chính sách đó cho cả gia đình đó để quán triệt, thực hiện. Dần dần, những cuốn sách luật, chính sách đó đầy ắp trong các gia đình, hình thành "t ủ sách gia đình". Có những bà mẹ thường xuyên mang luật của nhà nước đó ra giải thích cho con, cháu nghe. Kết quả là con, cháu của gia đình đó không bị phạm pháp. Đó là cách đưa các văn bản pháp quy vào cu ộc s ống có hiệu quả nhất. Phỏ biến nghị quyết, luật, chính sách trên các phương tiện thông tin đại chúng và trong các cuộc h ọp cũng rất quan trọng, nh ưng cái quan trọng, thiết thực nhất là các gia đình trong cộng đ ồng xã h ội ph ải nắm vững nghị quyết, luật, chính sách. Gia đình là t ế bào c ủa xã h ội, m ột hình thức có tính chất lịch sử của tổ ch ức đời s ống chung c ủa loài ng ười, giữa nam giới và nữ giới. Hình thức gia đình đều do nh ững s ự thay đổi của chế độ kinh tế - xã hội, do tính chất của các quan h ệ xã hội nói chung quyết định. Vì vậy, vai trò của gia đình trong xã hội là rất quan trọng. Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy chúng ta là muốn đưa được nghị quyết, chính sách của Đảng và Nhà nước vào trong cuộc sống xã hội có hiệu quả nh ất, thì phải biết kết hợp giữa chính sách chung với sự chỉ đạo riêng và phải có sự liên hợp giữa người lãnh đạo và người bị lãnh đạo. Người nói rằng, bất kể việc gì, nếu không có chính sách chung, kêu gọi chung,, thì không thể động viên được toàn thể nhân dân. Song, nếu người lãnh đạo chỉ làm chung, làm khắp cả một lúc, mà không trực tiếp nhằm vào một nơi nào đó, thực hành cho kỳ được, rồi lấy kinh nghiệm nơi đó mà ch ỉ đ ạo nh ững nơi khác, thì không thể biết chính sách của mình đúng hay sai và cũng không thể làm cho nội dung của chính sách đó đầy đủ, thiết thực. Người nêu thí dụ, như việc thực hiện nghị quyết, chính sách trong một cơ quan, đơn vị, ngoài những chương trình, kế hoạch chung, mỗi cơ quan, đơn vị đó phải chọn ra một vài bộ phận trong cơ quan, đơn vị có tính chất tiêu biểu trong việc vận dụng, nghị quyết, chính sách để nhân điển hình học tập chung trong toàn cơ quan, đơn vị. Đồng thời, phải chọn ra được một số người tiêu biểu để nêu tấm gương học tập chung. Trong m ột t ổ ch ức, cần phải có một số người hăng hái làm trung kiến. Người lãnh đạo phải biết động viên anh em vừa làm, vừa rút kinh nghiệm nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong việc vận dụng nghị quyết, chính sách của Đảng và Nhà nước vào trong cuộc sống hằng ngày. Với Người, mọi cái đều ph ải rất thiết thực. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói rằng, đề cao vai trò của tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách cũng là một giải pháp để thực hiện ngh ị quy ết, chính sách của Đảng và Nhà nước. Người đặt vấn đề vì sao cần phải có tập thể lãnh đạo? Vì lẽ, một người cho dù tài giỏi mấy, dù nhiều kinh nghi ệm đ ến đâu, cũng chỉ xem xét được một hoặc một số mặt của một vấn đề, sự việc. Vì vậy, cần phải có nhiều người. Nhiều người thì nhiều kinh nghiệm. Người thì thấy rõ mặt này, người thì thấy rõ mặt kia của vấn đề, sự việc đó. Người nói: "ý nghĩa của tập thể lãnh đạo rất giản đơn, chân lý của nó rất rõ rệt. Tục ngữ có câu: "Khôn bầy hơn khôn độc" là nghĩa đó"(7). Vì sao cần phải có cá nhân phụ trách? Chủ tịch Hồ Chí Minh giải thích rằng, nếu không có cá nhân phụ trách, thì sẽ sinh ra cái t ệ ng ười này ỷ l ại cho người kia, người kia ỷ lại cho người nọ, kết quả là không ai thi hành. Như thế thì việc gì cũng không xong. Người nói: "Tục ngữ có câu: "Nhiều sãi không ai đóng cửa chùa" là như thế"(8). "Vì lẽ đó, cho nên lãnh đạo cần phải tập thể, mà phụ trách cần phải cá nhân"(9). Người quan niệm lãnh đạo không tập thể, thì sẽ đi đến tệ bao bi ện, đ ộc đoán, ch ủ quan, s ẽ dẫn đến hỏng việc. Phụ trách không do cá nhân, sẽ dẫn đến cái tệ bừa bãi, lộn xộn, vô chính phủ, cũng sẽ dẫn đến h ỏng vi ệc. Vì l ẽ đó, cho nên tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách phải luôn luôn đi đôi với nhau. Người kết luận: "Tập thể lãnh đạo là dân chủ, cá nhân ph ụ trách là t ập trung"(10). Trong công tác ngoại giao, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhi ều l ần căn d ặn là phải biết kết hợp giữa lý luận ngoại giao với thực tiễn ngoại giao, th ể hiện là phải biết cách tổ chức thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước trong công tác ngoại giao. Phải có sự kết h ợp nhu ần nhuy ễn giữa vấn đề dân tộc và vấn đề thời đại, giữa độc lập dân tộc và ch ủ nghĩa xã hội trên mặt trận ngoại giao. Ngày 31-5-1946, trước khi lên đường sang Pháp để thương lượng với Chính phủ Pháp giải quyết vấn đề độc lập, tự do cho nhân dân Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói v ới c ụ Huỳnh Thúc Kháng, quyền Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam): "Dĩ bất bi ến, ứng vạn biến" (nghĩa là: Lấy cái không thay đổi để ứng phó v ới muôn s ự thay đổi). Cái không thay đổi là lý luận, nguyên t ắc, đ ường l ối, chính sách c ủa Đảng và Nhà nước. Cái thay đổi là thực tiễn, thể hiện, th ể hi ện ở tài ứng phó linh hoạt của cán bộ ngoại giao trên chính trường quốc tế. Trong tác phẩm "Những năm tháng không thể nào quên" của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, kể rằng, có lần Bắc Hồ nói với Đại tướng về công tác kết h ợp đ ấu tranh giữa quân sự và ngoại giao: "Thực lực như cái chiêng, ngoại giao như cái tiếng. Chiêng có to, tiếng mới lớn". Vậy đó! Trong hoàn cảnh hội nhập quốc tế, trước hết là hội nhập kinh tế quốc t ế, công tác ngoại giao là cần phải nắm vững đặc điểm của Vi ệt Nam, đồng thời phải nắm chắc luật lệ quốc tế. "Thực hiện nh ất quán đường l ối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc t ế. Ch ủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng th ời mở rộng h ợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình h ợp tác quốc tế và khu vực(11). Đó là sự kết hợp giữa lý luận và th ực ti ễn, th ể hiện sự kết hợp giữa độc lập, tự chủ của Việt Nam với hội nh ập quốc tế trong tình hình hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng