Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nội dung cơ bản trong tư tưởng hồ chí minh về nhà nước thể hiện quyền làm chủcủa...

Tài liệu Nội dung cơ bản trong tư tưởng hồ chí minh về nhà nước thể hiện quyền làm chủcủa nhân dân lao động. để xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở việt nam hiện nay cần chú ý những vấn đề gì

.PDF
21
1
109

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI KHOA TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG BÀI THẢO LUẬN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH Đề tài: NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC THỂ HIỆN QUYỀN LÀM CHỦCỦA NHÂN DÂN LAO ĐỘNG. ĐỂ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY CẦN CHÚ Ý NHỮNG VẤN ĐỀ GÌ? Nhóm: 6 Lớp học phần: 2125HCMI0111 Giáo viên hướng dẫn: Vũ Thị Thu Hà Hà Nội – 2021 1 MỤC LỤC A. LỜI MỞ ĐẦU…………………………………………………….3 B. NỘI DUNG……………………………………………………….4 I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước thể hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động………………………………………..4 1. Bản chất của Nhà nước…………………………………….4 2. Nhà nước của nhân dân……………………………………5 3. Nhà nước do nhân dân…………………………………….6 4. Nhà nước vì nhân dân……………………………………..6 II. Những vấn đề cần lưu ý khi xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay……………………………………………….7 1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền………7 1.1. Nhà nước hợp hiến, hợp pháp……………………….7 1.2. Nhà nước thượng tôn pháp luật…………………….8 1.3. Nhà nước pháp quyền nhân nghĩa………………….9 2. Thực trạng Nhà nước Việt Nam hiện nay………………10 2.1. Thành tựu……………………………………………10 2.2. Hạn chế……………………………………………….13 3. Giải pháp khắc phục hạn chế……………………………15 C. Kết luận………………………………………………………….17 Danh sách thành viên trong nhóm……………………………….18 Biên bản họp nhóm………………………………………………..19 2 A.Lời mở đầu Tư tưởng Hồ Chí Minh là bước phát triển mới của chủ nghĩa Mác – Lênin, được vận dụng một cách sáng tạo vào thực tiễn giải phóng dân tộc và xây dựng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Điều cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với giải quyết xã hội và giải phóng con người. Trong đó, vấn đề dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động cùng với công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam được đặt lên hàng đầu. Với khát vọng tìm đường giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ của thực dân, đế quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin như một tiền định và nhận thấy đây là con đường đúng đắn nhất đem lại độc lập, tự do cho nước nhà. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, chính quyền là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội. Song, quan trọng hơn là bản chất của Nhà nước đó phải là Nhà nước của dân, do dân và vì dân: “Dân là quý nhất, là quan trọng hơn hết, là tối thượng”, “Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”… Xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân là mục tiêu tối thượng và cao đẹp mà chúng ta đã và đang từng bước hiện thực hóa trong cuộc sống xã hội. Đó là xây dựng Nhà nước do nhân dân bầu ra, do nhân dân xây dựng, tất cả quyền lực đều thuộc về nhân dân. Và để làm sáng tỏ những vấn đề trên, nhóm chúng em đã cùng tìm hiểu và xin trình bày đề tài: “Nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước thể hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động. Để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay cần chú ý những vấn đề gì?” Qua đó, người đọc có thể hiểu rõ hơn vấn đề dân chủ cùng với công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. 3 B.Nội dung I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước thể hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động 1. Bản chất của Nhà nước Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước Việt Nam là nhà nước dân chủ, nhưng tuyệt nhiên nó không phải là “Nhà nước toàn dân”, hiểu theo nghĩa là nhà nước phi giai cấp. Nhà nước Việt Nam mới - Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, theo quan điểm Hồ Chí Minh, là một nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân, thể hiện trên những phương diện: Một là, Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vị trí và vai trò cầm quyền. Ngay trong quan điểm về nhà nước dân chủ, nhà nước do nhân dân là người chủ nắm chính quyền, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh nòng cốt của nhân dân là liên minh công - nông - trí, do giai cấp nông dân mà đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản lãnh đạo. Hai là, bản chất giai cấp của Nhà nước Việt Nam thể hiện ở tính định hướng xã hội chủ nghĩa trong sự phát triển của đất nước. Ba là, bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước thể hiện ở nguyên tắc tổ chức và hoạt động của nó là nguyên tắc tập trung dân chủ. Trong Nhà nước Việt Nam, bản chất giai cấp công nhân thống nhất với tính nhân dân và tính dân tộc, điều này thể hiện cụ thể: Một là, Nhà nước Việt Nam ra đời là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ của rất nhiều thế hệ người Việt Nam, của toàn dân tộc. Hai là, Nhà nước Việt Nam ngay từ khi ra đời đã xác định rõ và luôn kiên trì nhất quán mục tiêu vì quyền lợi của nhân dân, lấy quyền lợi của dân tộc làm nền tảng. Ba là, tổ chức nhân dân tiến hành các cuộc kháng chiến để bảo vệ nền độc lập, tự do của Tổ quốc, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần tích cực vào sự phát triển tiến bộ của thế giới. 4 2. Nhà nước của nhân dân Trong quan điểm của Hồ Chí Minh, nhà nước của nhân dân là một nhà nước mà tất cả mọi quyền lực trong nhà nước và trong xã hội đều thuộc về nhân dân. Người khẳng định: “Trong Nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa của chúng ta, tất cả mọi quyền lực đều là của nhân dân”. Nguyên tắc “dân là chủ” khẳng định địa vị chủ thể tối cao của mọi quyền lực là nhân dân. Trong nhà nước dân chủ, nhân dân thực thi quyền lực thông qua hai hình thức: Dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp. - Dân chủ trực tiếp là hình thức dân chủ trong đó nhân dân trực tiếp quyết định mọi vấn đề liên quan đến vận mệnh quốc gia, dân tộc và quyền lợi của dân chúng. Đây là hình thức dân chủ hoàn bị nhất, Hồ Chí Minh luôn coi trọng và đồng thời tạo mọi điều kiện thuận lơi để thực hành dân chủ trực tiếp. - Dân chủ gián tiếp hay dân chủ đại diện là hình thức dân chủ được sử dụng rộng rãi nhằm thực thi quyền lực của nhân dân. Đó là hình thức dân chủ mà nhân dân thực thi quyền lực của mình thông qua các đại diện mà họ lựa chọn, bầu ra và những thiết chế quyền lực mà họ lập mêm. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, trong hình thức dân chủ gián tiếp: Quyền lực nhà nước là “thừa ủy quyền” của nhân dân. Quyền lực của nhà nước là do nhân dân ủy thác do. Theo Hồ Chí Minh: "Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ". Nhân dân có quyền kiểm soát, phê bình nhà nước, có quyền bãi miễn những đại biểu mà họ đã lựa chọn, bầu ra và có quyền giải tán những thiết chế quyền lực mà họ đã lập nên. Hồ Chí Minh luôn “mong đồng bào giúp đỡ, đôn đốc, kiểm soát và phê bình để làm tròn nhiệm vụ của mình là người đầy tớ trung thành của nhân dân”. Luật pháp dân chủ và là công cụ quyền lực của nhân dân. Luật pháp Nhà nước Việt Nam phản ánh được ý nguyện và bảo vệ quyền lực của dân chúng, luật pháp đó là của nhân dân, là công cụ thực hiện quyền lực của nhân dân, là phương tiện để kiểm soát quyền lực nhà nước. 5 3. Nhà nước do nhân dân Nhà nước do dân lập nên, do dân ủng hộ, dân làm chủ. Chính vì vậy Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh nhiệm vụ của những người cách mạng là phải làm cho dân hiểu, làm cho dân giác ngộ để nâng cao được trách nhiệm làm chủ, nâng cao được ý thức trách nhiệm chăm lo xây dựng Nhà nước của mình. Hồ Chí Minh khẳng định: Việc nước là việc chung, mỗi người đều phải có trách nhiệm "ghé vai gánh vác một phần". Quyền lợi, quyền hạn bao giờ cũng đi đôi với trách nhiệm, nghĩa vụ. Điểm quan trọng nhất khi nói tới nhà nước do dân là “Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra". Đồng thời nhân dân đóng góp sức người, sức của, trí tuệ để xây dựng nhà nước. Hồ Chí Minh nhiều lần nhấn mạnh: “Dễ mười lần không dân cũng chịu. Khó trăm lần dân liệu cũng xong”. “Dân chúng đồng lòng, việc gì cũng làm được. Dân chúng không ủng hộ, việc gì làm cũng không nên”. “Nước lấy dân làm gốc. Gốc có vững cây mới bền. Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước Việt Nam mới, nhân dân có đủ điều kiện, cả về pháp luật và thực tế, để tham gia quản lý Nhà nước. Người nêu rõ quyền của dân, khẳng định Nhà nước do dân tạo ra và nhân dân tham gia quản lý là ở chỗ: - Nhân dân làm chủ thì phải tuân theo pháp luật của Nhà nước, tuân theo kỉ luật lao động, giữ gìn trật tự chung, nộp thuế đúng kì, hăng hái tham gia công việc chung và bảo vệ Tổ quốc,… - Cần coi trọng việc giáo dục nhân dân, đồng thời nhân dân cũng phải tự giác phấn đấu để có đủ năng lực thực hiện quyền dân chủ của mình. - Không chỉ tuyên bố quyền làm chủ của nhân dân, cũng không chỉ đưa nhân dân vào công việc nhà nước mà còn chuẩn bị và động viên nhân dân chuẩn bị tốt năng lực làm chủ, thể hiện tư tưởng dân chủ triệt để của Hồ Chí Minh khi nói về nhà nước do nhân dân. - Mọi công việc của bộ máy nhà nước trong việc quản lý xã hội đều thực hiện ý chí của dân (thông qua Quốc hội do dân bầu ra). 4. Nhà nước vì nhân dân Nhà nước vì dân là một Nhà nước lấy lợi ích chính đáng của nhân dân làm mục tiêu, tất cả đều vì lợi ích của dân, ngoài ra không có bất cứ một lợi ích nào khác. Đó là một Nhà nước trong sạch, không có bất cứ một đặc quyền đặc lợi nào. Dân là 6 gốc của nước. Hồ Chí Minh luôn luôn tâm niệm: Phải làm cho dân có ăn, phải làm cho dân có mặc, phải làm cho dân có chỗ ở phải làm cho dân được học hành. Quan trọng nhất của Nhà nước vì dân là “bao nhiêu lợi ích đều vì dân”. Một Nhà nước mà lợi ích vì dân thì việc gì lợi cho dân - dù nhỏ mấy - cũng phải hết sức làm; việc gì hại cho dân - dù nhỏ mấy - cũng phải hết sức tránh. Phải làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân được học hành. Nhà nước vì dân thì mọi chính sách, chủ trương của Nhà nước đều phải xuất phát từ nguyện vọng và lợi ích chính đáng của nhân dân. Nhà nước vì dân thì từ Chủ tịch nước đến Bộ trưởng, Thứ trưởng và cán bộ công chức đều là đầy tớ trung thành của nhân dân tức là phục vụ nhân dân một cách tốt nhất  Cán bộ vừa là người đầy tớ đồng thời cũng là người lãnh đạo của nhân dân. Một Nhà nước vì dân, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, là từ Chủ tịch nước đến công chức bình thường đều phải làm công bộc, làm đầy tớ cho nhân dân chứ không phải “làm quan cách mạng” để “đè đầu cưỡi cổ nhân dân”. Đối với chức vụ Chủ tịch nước của mình Hồ Chí Minh cũng quan niệm là do dân ủy thác cho và như vậy phải phục vụ nhân dân, tức là làm đầy tớ cho dân. Nhà nước vì dân thì phải luôn luôn giữ cho bộ máy trong sạch, không có bất kỳ đặc quyền, đặc lợi nào: Phải chống mọi tiêu cực trong bộ máy Nhà nước như tham ô, lãng phí, quan liêu, thiếu tinh thần trách nhiệm, vô cảm, đùn đẩy trách nhiệm trước khó khăn của dân.  Để làm người thay mặt nhân dân thì phải là người vừa có đức vừa có tài, phải vừa hiền lại vừa minh, thực chất cũng là lợi ích của toàn cục, vì lợi ích lâu dài của nhân dân. II. Những vấn đề cần lưu ý khi xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay 1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền 1.1. Nhà nước hợp hiến, hợp pháp Hồ Chí Minh luôn chú trọng vấn đề xây dựng nền tảng pháp lý cho Nhà nước Việt Nam mới. Người đã sớm thấy rõ tầm quan trọng của Hiến pháp và pháp luật trong đời sống chính trị - xã hội. Điều này được thể hiện trong bản “Yêu sách gửi nhân dân An Nam” của nhóm những người Việt Nam yêu nước tại Pháp do Người thay mặt nhóm gửi đến Hội nghị Véc - xây (Pháp) năm 1919 nhằm đòi quyền bình đẳng. 7 Chỉ một ngày sau khi đọc bản “Tuyên ngôn độc lập”, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời (ngày 3 – 9 – 1945), Hồ Chí Minh đã đề nghị tổ chức Tổng Tuyển Cử đề từ đó lập nên Quốc hội rồi đến Chính phủ và các cơ quan, bộ máy hợp hiến chính thức của Nhà nước mới. Cuộc Tổng tuyển cử được tiến hành thắng lợi ngày 6 – 1 – 1946 với chế độ phổ thông đầu phiếu, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Lần đầu tiên trong lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam cũng như ở Đông Nam Á, tất cả người dân từ 18 tuổi trở lên, không phân biệt nam nữ, giàu nghèo, dân tộc, đảng phái, tôn giáo… đều đi bỏ phiếu bầu cử những đại biểu của mình tham gia Quốc hội. Ngày 2 – 3 – 1946, Quốc hội khóa I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã họp phiên đầu tiên, lập ra các tổ chức, bộ máy và các chức vụ chính thức của Nhà nước. Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch Chính phủ liên hiệp đầu tiên. Đây chính là Chính phủ có đầy đủ tư cách pháp lý để giải quyết một cách có hiệu quả những vấn đề đối nội và đối ngoại ở nước ta. 1.2. Nhà nước thượng tôn pháp luật Nhà nước quản lý bộ máy và bằng nhiều biện pháp khác nhưng quan trọng nhất là quản lý bằng Hiến pháp và bằng pháp luật. Trước hết, cần làm tốt công tác lập pháp. Hồ Chí Minh luôn chú trọng xây dựng hệ thống luật pháp dân chủ, hiện đại. Người đã từng 2 lần tham gia vào quá trình lãnh đạo soạn thảo Hiến pháp (1946 và 1959), đã ký lệnh công bố 16 đạo luật, 613 sắc lệnh trong đó có 243 sắc lệnh quy định về tổ chức Nhà nước và luật pháp. Trong bối cảnh đất nước vừa kháng chiến, vừa kiến quốc vô cùng khó khăn, sự ra đời của hệ thống luật pháp như trên thể hiện rất rõ nỗ lực của Hồ Chí Minh và Nhà nước Việt Nam trong công tác lập pháp. Cùng với công tác lập pháp, Hồ Chí Minh rất chú trọng đưa luật pháp vào trong đời sống, bảo đảm cho pháp luật được thi hành và có cơ chế giám sát việc thi hành pháp luật. Người chỉ rõ sự cần thiết phải nâng cao trình độ hiểu biết và năng lực sử dụng luật của người dân, giáo dục ý thức tôn trọng và tuân thủ pháp luật trong nhân dân. Pháp luật là công cụ quyền lực của nhân dân vì thế việc giáo dục pháp luật cho mọi người, đặc biệt là thế hệ trẻ trở nên cực kỳ quan trọng trong việc xây dựng một Nhà nước pháp quyền, bảo đảm mọi quyền và nghĩa vụ công dân được thực thi trong cuộc sống. Qua đây cũng giúp nâng cao dân trí, phát huy tính tích cực chính trị của 8 nhân dân, làm cho nhân dân có ý thức chính trị trong việc tham gia công việc của chính quyền các cấp. Bên cạnh đó cũng phải nêu cao tính nghiêm minh của pháp luật. Hồ Chí Minh tuyên bố rằng: “Pháp luật Việt Nam tuy khoan hồng với những người biết cải tà quy chính nhưng sẽ thẳng tay trừng trị những tên Việt gian đã bán nước buôn dân”. Điều đó đòi hỏi pháp luật phải đúng và phải đủ, tăng cường tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho mọi người dân, người thực thi pháp luật phải thực sự công tâm, nghiêm minh. Cuối cùng, người luôn khuyến khích nhân dân phê bình, giám sát công việc của Nhà nước, giám sát quá trình Nhà nước thực thi pháp luật, đồng thời không ngừng nhắc nhở cán bộ các cấp, các ngành phải gương mẫu trong việc tuân thủ pháp luật, trước hết là cán bộ thuộc ngành hành pháp và tư pháp. Bản thân Hồ Chí Minh cũng là một tấm gương sáng về sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Người tự giác khép mình vào kỷ luật, vào việc gương mẫu chấp hành Hiến pháp và pháp luật. Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật đã trở thành nền nếp, thói quen và lối ứng xử tự nhiên của Hồ Chí Minh. 1.3. Pháp quyền nhân nghĩa Trước hết là Nhà nước phải tôn trọng, bảo đảm thực hiện đầy đủ các quyền con người, chăm lo lợi ích của mọi người. Hồ Chí Minh đã tiếp thu và vận dụng sáng tạo các lý thuyết hiện đại về quyền của con người, qua đó tiếp cận quyền con người một cách toàn diện. Người cũng đề cập đến quyền tự nhiên của con người như quyền sống – quyền cao nhất, quyền chính trị – dân sự, quyền kinh tế, văn hóa, xã hội của con người hay quyền của một số nhóm người cụ thể như phụ nữ, trẻ em, dân tộc thiểu số... Mục tiêu giải phóng con người, để con người được hưởng quyền của mình một cách đầy đủ đã trở thành mục tiêu cao nhất của sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam. Hiến pháp của đất nước đã ghi nhận một cách toàn diện quyền con người ở Việt Nam. Đó là nền tảng pháp lý để bảo vệ và thực thi quyền con người một cách triệt để. Trong pháp quyền nhân nghĩa, pháp luật có tính nhân văn, khuyến thiện. Vì thế ngay sau khi thành lập, Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã lập tức tuyên bố xóa bỏ mọi luật pháp hà khắc của chính quyền thực dân phản động. Tính nhân văn của hệ thống luật pháp thể hiện ở việc ghi nhận đầy đủ và bảo vệ quyền con người, ngay cả với những kẻ phản bội Tổ quốc “Chính phủ Việt Nam sẽ tha thứ hay trừng trị họ theo luật pháp tùy theo thái độ của họ hiện nay và về sau. Nhưng sẽ không có ai bị tàn sát”. Hệ thống phá luật có tính khuyến thiện, bảo vệ cái đúng, cái 9 tốt, lấy mục đích giáo dục, cảm hóa, thức tỉnh con người làm căn bản. Với Hồ Chí Minh, việc xây dựng và thi hành luật pháp phải dựa trên nền tảng đạo đức của xã hội và các giá trị đạo đức thấm sâu vào trong mọi quy định của pháp luật. Nói cách khác, pháp luật trong Nhà nước pháp quyền nhân nghĩa phải là pháp luật vì con người. 2. Thực trạng Nhà nước Việt Nam hiện nay 2.1. Thành tựu Đối với Việt Nam, vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền đang được đặt ra như một tất yếu lịch sử và tất yếu khách quan: - Tính tất yếu lịch sử của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền của Việt Nam bắt nguồn từ chính lịch sử xây dựng và phát triển của Nhà nước ta. Ngay từ khi thành lập và trong quá trình phát triển, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã và luôn là một nhà nước hợp hiến, hợp pháp. Nhà nước được tổ chức, hoạt động trên cơ sở các quy định và luôn vận hành trong khuôn khổ của Hiến pháp, pháp luật. Nước ta đã trải qua 5 lần sửa đổi Hiến pháp: năm 1946, năm 1959, năm 1980, năm 1992 và 2013. Mỗi lần sửa đổi và thông qua đều là những bước củng cố cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước. Vì vậy, có thể nói, quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền của Việt Nam là một quá trình lịch sử được bắt đầu ngay từ Tuyên ngôn độc lập năm 1945 và Hiến pháp năm 1946. Quá trình này đã trải qua hơn nửa thế kỷ và đang được tiếp tục trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước. - Tính tất yếu khách quan của việc xây dựng nhà nước pháp quyền của Việt Nam xuất phát từ định hướng XHCN mà mục tiêu cơ bản là xây dựng một chế độ xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. Chúng ta ý thức sâu sắc rằng, để đạt được những mục tiêu đó thì công cụ, phương tiện cơ bản chỉ có thể là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và một nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tính tất yếu khách quan ấy còn xuất phát từ đặc điểm của thời đại với xu hướng toàn cầu hóa. Nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục đẩy mạnh cải cách nhà nước, cải cách pháp luật, bảo đảm cho Nhà nước ta không ngừng vững mạnh, có hiệu lực để giải quyết có hiệu quả các nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, thực hiện dân chủ, củng cố độc lập, tự chủ và hội nhập vững chắc vào đời sống quốc tế. 10 Dưới góc độ chính trị - pháp lý có thể khái quát những thành tựu cơ bản của Đảng ta trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN như sau: - Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác lập một số nguyên tắc cơ bản, là nền tảng tư tưởng và quan điểm cho việc kiến tạo một Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.  Đó là các nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân với các cơ chế bảo đảm cho quyền lực nhà nước luôn luôn nằm trong quỹ đạo phục vụ nhân dân; Nguyên tắc bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, có sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc thực hiện quyền lực nhà nước từ phía nhân dân; Nguyên tắc Đảng lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền… Những nguyên tắc này không chỉ dừng ở những chủ trương chính trị mà đã được thể chế trong Hiến pháp năm 2013- Đạo luật gốc, đạo luật cơ bản nhất của Nhà nước. Điều này, đòi hỏi trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN phải không ngừng quán triệt, vận dụng và hiện thực hóa những nguyên tắc hiến định. - Xác định rõ hơn vị trí, vai trò và chức năng của Nhà nước. Nhà nước pháp quyền là Nhà nước đề cao vai trò của pháp luật, tính độc lập của cơ quan xét xử, hoạt động của Nhà nước vì con người và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Nhận thức rõ những giá trị này, trong lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định rõ vị trí, vai trò của Nhà nước là trụ cột, trung tâm của hệ thống chính trị, chuyển mạnh chức năng của Nhà nước theo hướng phục vụ nhân dân. - Công tác phòng ngừa và đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng đạt được nhiều kết quả. Với chế độ chính trị nhất nguyên thì quan liêu, tham nhũng là một nguy cơ hiện thực, đe dọa nền dân chủ. Vì vậy, phòng ngừa và đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, làm trong sạch bộ máy của Đảng và Nhà nước là một nhiệm vụ tất yếu được đặt ra. Trong thực tế, nhiệm vụ nói trên đã được triển khai thường xuyên và đạt những kết quả nhất định. Các văn kiện của Đảng từ Đại hội IX đến nay đều đánh giá: trong nhiều năm qua, nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã được coi trọng. Những biểu hiện suy thoái đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên đã giảm khá nhiều và đang tiếp tục được cảnh tỉnh, răn đe; một số nơi tham nhũng, quan liêu, lãng phí, trong đó có không ít vụ việc tồn đọng kéo dài nhiều năm, đã được tiếp tục giải quyết… 11 - Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vững được vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội, từng bước tìm tòi và dẫn dắt quá trình nhận thức cũng như quá trình thể chế hóa các quan điểm, tư tưởng về Nhà nước pháp quyền XHCN trên cả phương diện chính trị và pháp lý. Đảng ngày càng xác định rõ hơn nội dung của phương thức lãnh đạo và các kênh, các con đường đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng cầm quyền đối với Nhà nước pháp quyền XHCN. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội được cải tiến theo hướng ngày càng có nhiều cách làm nhằm thực hiện và mở rộng dân chủ trong quan hệ Đảng - Nhà nước Dân (ứng cử tự do, công khai các cuộc họp của Quốc hội, công bố các dự thảo luật để nhân dân góp ý, công bố nội dung các kỳ họp của Chính phủ...); các phương tiện thông tin đại chúng ngày càng phát huy vai trò tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục nhân dân và vai trò người phản biện đối với các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. - Về phương diện tổ chức quyền lực, Đảng lãnh đạo đổi mới tổ chức, hoạt động của Nhà nước theo hướng minh bạch, cụ thể các bộ phận thực hiện quyền lực và mối quan hệ giữa các cấp chính quyền. Tổ chức và phương thức hoạt động của bộ máy nhà nước pháp quyền nói chung, của từng loại cơ quan nhà nước từng bước được đổi mới; chủ trương cải cách tổng thể bộ máy nhà nước đang được triển khai có kết quả: Trong lãnh đạo tổ chức, kiện toàn hoạt động của Quốc hội Hoạt động lập pháp đã có sự đổi mới mạnh mẽ trong xây dựng các đạo luật, nghị quyết, pháp lệnh, đã kịp thời thể chế hóa đường lối của Đảng và bao quát hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đảng lãnh đạo Quốc hội thực hiện tốt chức năng quyết định các vấn đề quan trọng và chức năng giám sát tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước. Trong lãnh đạo tổ chức, kiện toàn hoạt động của Chính phủ Đảng lãnh đạo Chính phủ thông qua chủ trương, đường lối và các phương thức khác để định hướng hoạt động, điều hòa, phối hợp giữa các cơ quan của Chính phủ với các cơ quan Trung ương và giữa Chính phủ với chính quyền địa phương. Thông qua đó, Đảng kiểm tra, giám sát toàn bộ hoạt động và cơ chế điều hành của Chính phủ, bảo đảm cho Chính phủ thực hiện được quyền hành pháp, đồng thời phải bảo đảm được tính định hướng chính trị thể hiện trong đường lối, chính sách của Đảng. 12 Trong lãnh đạo tổ chức, kiện toàn hoạt động của các cơ quan tư pháp Đảng xác định đúng vị trí, chức năng, thẩm quyền của từng cơ quan tư pháp và các thiết chế bổ trợ tư pháp trong mối liên hệ với khâu trung tâm là xét xử theo yêu cầu của Nhà nước pháp quyền. Đó là các yêu cầu về tính độc lập, khách quan, phụng công, thủ pháp, chí công vô tư, tinh thần trách nhiệm trước nhân dân, dân chủ, minh bạch. Việc tổ chức thực hiện các chủ trương về cải cách tư pháp của Đảng, các quy định của pháp luật về chức năng, nhiệm vụ của cơ quan trong thời gian qua đã và đang tạo sự chuyển biến tích cực trong nhận thức của toàn xã hội về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của công tác tư pháp trong điều kiện xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Trong lãnh đạo tổ chức, kiện toàn hoạt động, đa dạng hóa mô hình của chính quyền địa phương các cấp Hiến pháp năm 2013 đã tạo ra bước tiến lập pháp quan trọng, làm nền tảng cho việc kiện toàn tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương theo hướng đa dạng hóa các mô hình, gắn với thực tiễn và điều kiện tổ chức chính quyền đô thị, mô hình tổ chức chính quyền nông thôn, phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do luật định. 2.2. Hạn chế Xuất phát điểm về kinh tế - xã hội thấp cùng những ảnh hưởng nặng nề của cơ chế quản lý kế hoạch hóa tập trung, bao cấp áp dụng trong một thời gian dài đã tác động không nhỏ đến quá trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước XHCN ở Việt Nam. Việc tìm tòi, xây dựng một mô hình Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN trong điều kiện nêu trên là một vấn đề rất khó khăn, hơn nữa đây còn là vấn đề mới về lý luận, chưa có tiền lệ trên thế giới đòi hỏi sự tìm tòi, khai phá, đúc kết kinh nghiệm một cách bền bỉ và kiên trì. Nhiều vấn đề lý luận về Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN chưa được nghiên cứu một cách cơ bản và có hệ thống, chưa xác định rõ vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Sự phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp chưa được thể chế đầy đủ, rõ ràng về phương diện pháp luật; chưa tạo sự gắn kết, đồng bộ giữa cải cách hành chính với cải cách lập pháp, tư pháp. Quốc hội nước ta là một thiết chế hoạt động không thường xuyên, đại biểu Quốc hội phần lớn kiêm nhiệm, không chuyên nghiệp, lại thiếu phương pháp, công cụ mang tính chuyên môn nên tác động 13 của giám sát tối cao của Quốc hội đối với Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao còn hạn chế. Việc thực hiện các hình thức giám sát như bỏ phiếu tín nhiệm, thành lập ủy ban điều tra lâm thời có quy định trong Luật hoạt động giám sát của Quốc hội nhưng chưa được thực hiện trên thực tế. Vai trò của Tòa án với tư cách là trung tâm của hệ thống tư pháp thực hiện việc giám sát hành vi vi phạm pháp luật, giải quyết các xung đột trong xã hội chưa được đề cao, nhất là trong việc phán quyết đối với cơ quan hành chính chưa đủ nhanh để góp phần hạn chế vi phạm pháp luật của cơ quan này. Tuy đã sớm thấy yêu cầu đổi mới và kiện toàn tổ chức, bộ máy nhà nước, sắp xếp tổ chức, bộ máy không đi đôi với đổi mới thể chế, chính sách, phương thức hoạt động nên kết quả thực hiện bị hạn chế.  Đó là nguyên nhân khiến cho cơ cấu tổ chức, bộ máy lúc giảm, lúc tăng đầu mối, khi tách, khi nhập tổ chức bộ máy; biên chế ngày càng tăng. Xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật, nhất là cải cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng Đảng và chính quyền cơ sở chưa đáp ứng yêu cầu thực hiện. Cụ thể như sau: - Bộ máy nhà nước ta chưa thật trong sạch, vững mạnh; tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu còn nghiêm trọng, chưa được ngăn chặn; hiệu lực quản lý, điều hành chưa cao; kỷ cương xã hội còn bị buông lỏng, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, nhà nước ta. - Quản lý Nhà nước chưa ngang tầm với đòi hỏi của thời kỳ mới; chưa phát huy đầy đủ mặt tích cực và hạn chế được tính tự phát, tiêu cực của kinh tế thị trường. Đất đai, vốn và tài sản Nhà nước chưa được quản lý chặt chẽ, sử dụng lãng phí và thất thoát nghiêm trọng. - Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước vẫn còn tình trạng buông lỏng và bao biện, chống chéo nên chưa phát huy tốt vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực điều hành của bộ máy Nhà nước. - Tổ chức bộ máy nhà nước còn nặng nề, sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp còn có những điểm chưa rõ về chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ, phân cấp trung ương - địa phương còn một số mặt chưa cụ thể (như về quản lý đầu tư, tài chính, 14 tổ chức bộ máy, kết hợp quản lý theo ngành và lãnh thổ...), làm cho tình trạng tập trung quan liêu cũng như phân tán, cục bộ chậm được khắc phục. 3. Giải pháp khắc phục những hạn chế Để khắc phục những hạn chế trên cần đề ra một số giải pháp cụ thể, có tính chiến lược góp phần hoàn thiện quấ trình xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Theo Tư tưởng Hồ Chí Minh, dưới đây là một số biện pháp khắc phục cụ thể: Phải xây dựng Nhà nước thật sự trong sạch, vững mạnh. - Đẩy mạnh việc hoàn thiện pháp luật gắn với tổ chức thi hành pháp luật để nâng cao hiệu quả, hiệu lực Nhà nước. Bảo đảm pháp luật vừa là công cụ để Nhà nước quản lý xã hội, vừa là công cụ để nhân dân làm chủ, giám sát, kiểm tra quyền lực Nhà nước, đồng thời coi trọng xây dựng nền tảng đạo đức xã hội. - Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, tôn trọng, đảm bảo quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân. - Xác nhận rõ cơ chế phân công, phối hợp thực thi quyền lực nhà nước, nhất là cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở quyền lực nhà nước là thống nhất. - Chú trọng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức. Đảng phải tập trung lãnh đạo về đường lối, chủ trương xây dựng tiêu chí, tiêu chuẩn, cơ chế, chính sách về cán bộ công chức. Đẩy mạnh công tác dân chủ hóa công tác cán bộ, thực hiện thí điểm dân trực tiếp bầu một số chức danh ở cơ sở và cấp huyện. Đồng thời xây dựng cơ chế, chính sách đãi ngộ, thu hút, trọng dụng nhân tài. - Đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, hách dịch; thực hành tiết kiệm trong các cơ quan nhà nước và trong đội ngũ cán bộ công chức. Đổi mới, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước - Nâng cao hiệu quả thực hiện và đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ phẩm chất và năng lực, gương mẫu, tuân thủ pháp luật. Đổi mới lãnh đạo, nâng cao chất lượng lập pháp, cải cách hành chính và tư pháp. 15 - Bản chất, tính chất của Nhà nước gắn liền với vai trò, trách nhiệm của Đảng cầm quyền, do đó sự trong sạch, vững mạnh của Đảng là yếu tố quyết định cho sự thành công của việc xây dựng nhà nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh . 16 C. Kết luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ nói chung và về quyền làm chủ của nhân dân nói riêng là kết quả của sự nhận thức sâu sắc về vai trò của nhân dân trong lịch sử, là kết quả của sự kết hợp giữa tư tưởng thân dân truyền thống ở phương Đông và quan điểm cách mạng là sự nghiệp của quần chúng trong học thuyết Mác – Lênin. Kết hợp giữa truyền thống và hiện đại, giữa lý luận và thực tiễn – Hồ Chí Minh đã nâng tư tưởng dân chủ lên một tầm cao mới vừa mang tính khoa học, vừa mang tính nhân văn sâu sắc. Cùng với việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đang phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức. Yêu cầu đặt ra là Đảng phải luôn đảm bảo được tính chính đáng trong cầm quyền của mình thể hiện uy tín, sự tin tưởng, sự cuốn hút của Đảng đối với Nhân dân; tính hiệu quả trong lãnh đạo phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, đáp ứng yêu cầu, lợi ích của Nhân dân. Do đó, việc thực hiện công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính Nhà nước là điều kiện tiên quyết, có ý nghĩa to lớn đối với công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. 17 DANH SÁCH SINH VIÊN THAM GIA THẢO LUẬN STT HỌ VÀ TÊN 1 Trần Thị Linh 2 Trần Thị Thùy Linh NHIỆM VỤ GHI CHÚ Những vấn đề cần chú ý khi xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay Mở đầu + Kết luận + Word 3 Nguyễn Hữu Luân Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước thể hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động 4 Dương Thị Hiền Lương Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước thể hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động 5 Trần Thị Ngọc Ly Bối cảnh Nhà nước Việt Nam hiện nay 6 Phan Đức Mạnh Bối cảnh Nhà nước Việt Nam hiện nay 7 Sái Hoàng Minh Powerpoint + Thuyết trình 8 Nguyễn Thành Nam Bối cảnh Nhà nước Việt Nam hiện nay 9 Đặng Thu Nga Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền 10 Trần Thị Nga Bối cảnh Nhà nước Việt Nam hiện nay 18 CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc BIÊN BẢN HỌP NHÓM Nhóm: 06 Buổi làm việc nhóm lần thứ: Nhất Địa điểm làm việc: Họp nhóm online trên group facebook. Thời gian: Ngày 02 tháng 04 năm 2021. Nội dung công việc chính: 1. Nhóm trưởng triển khai đề tài đến tất cả các thành viên trong nhóm. 2. Phân công công việc cụ thể cho từng thành viên: - Mở đầu + Kết luận + Word: 1 thành viên. - Powerpoint + Thuyết trình: 1 thành viên. - Phần B. Nội dung: 8 thành viên. 3. Chốt lịch nộp nội dung thảo luận và họp lần hai. Ngày 02 tháng 04 năm 2021 Nhóm trưởng Sái Hoàng Minh 19 CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc BIÊN BẢN LÀM VIỆC NHÓM Nhóm: 06 Buổi làm việc nhóm lần thứ: Hai Địa điểm làm việc: Họp nhóm online trên group facebook. Thời gian: Ngày 07 tháng 04 năm 2021 Nội dung công việc chính: 1. Các thành viên nộp lại nội dung bài thảo luận đã được phân công. 2. Trao đổi và chỉnh sửa, bổ sung những nội dung chưa phù hợp theo những ý kiến đóng góp của các thành viên: - Bổ sung thêm những nội dung còn thiếu. - Chốt bản word. Ngày 07 tháng 04 năm 2021 Nhóm trưởng Sái Hoàng Minh 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng