Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tiểu luận quy hoạch du lịch tỉnh lào cai...

Tài liệu Tiểu luận quy hoạch du lịch tỉnh lào cai

.DOCX
45
882
66

Mô tả:

MỤC LỤC CHƯƠNG I . ĐÁNH GIÁ, PHÂN TÍCH NGUỒN LỰC PHÁT TRIỂN DU LỊCH TỈNH LÀO CAI.......................................................................................................1 1.1Vị Trí Địa Lý:..................................................................................................1 1.1.1. Lãnh Thổ.................................................................................................1 1.1.2.Giao Thông...............................................................................................1 1.1.3. Du Lịch....................................................................................................2 1.2. Tài Nguyên Du Lịch......................................................................................2 1.2.1. Tài Nguyên Du Lịch Tự Nhiên...............................................................2 1.2.1.1. Địa Hình............................................................................................2 1.2.1.2. Khí Hậu............................................................................................3 1.2.1.3. Nguồn nước.....................................................................................4 1.2.1.4. Sinh Vật............................................................................................5 1.3.1. Tài Nguyên Nhân Văn............................................................................7 1.3.1.1. Di sản văn hóa thế giới- di tích văn hóa lịch sử...............................7 1.3.1.2. Di sản văn hóa thế giới- Di tích văn hóa lịch sử.............................7 1.3.2. Các tài nguyên du lịch nhân văn khác..................................................18 1.4. Cơ sở hạ tầng...............................................................................................23 1.4.1. Mạng lưới và phương tiện giao thông:.................................................23 1.4.1.1. Đường bộ:.......................................................................................23 1.4.1.2. Đường sắt........................................................................................26 1.4.1.3. Đường sông.....................................................................................26 1.4.2. Khả năng cung cấp điện nước..............................................................27 1.4.3. Hệ thống thông tin liên lạc....................................................................27 Chương 2 PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG DU LỊCH....................28 2.1.Hoạt động theo ngành...................................................................................28 2.1.1. Nguồn khách.........................................................................................28 2.1.2Cơ sở vật chất –kĩ thuật..........................................................................29 2.1.2.1. Số cơ sở lưu trú và số phòng..........................................................29 2.1.2.3.Các cơ sở vui chơi giải trí................................................................29 2.1.3.Doanh Thu..............................................................................................30 2.1.3.1.Doanh thu qua các năm...................................................................30 2.1.3.2. Lao Động........................................................................................30 1 2.1.4Theo lãnh thổ...........................................................................................30 2.1.4.1Các điểm du lịch...............................................................................30 2.1.4.2. Các tuyến du lịch trong tỉnh...........................................................31 Chương 3 Định hướng và giải pháp phát triển du lịch..........................................34 3.1Định hướng....................................................................................................34 3.1.1Định hướng chung...................................................................................34 Mục tiêu phát triển.......................................................................................34 3.1.2.Định hướng cụ thể..................................................................................36 3.1.2.1.Theo Ngành.....................................................................................36 3.1.2.2.Theo lãnh thổ...................................................................................38 3.2..GIải Pháp.....................................................................................................38 3.2.1Nguồn nhân lực.......................................................................................38 3.2.2.Vốn.........................................................................................................39 3.2.3Tuyên truyền, quảng bá...........................................................................41 3.2.4.Khoa học và công nghệ..........................................................................43 3.2.5.Quy Hoạch..............................................................................................44 2 CHƯƠNG I . ĐÁNH GIÁ, PHÂN TÍCH NGUỒN LỰC PHÁT TRIỂN DU LỊCH TỈNH LÀO CAI 1.1 Vị Trí Địa Lý: 1.1.1. Lãnh Thổ -Giới hạn lãnh thổ: Lào Cai là tỉnh vùng cao biên giới thuộc vùng trung và miền núi phía Bắc của Việt Nam giáp ranh giữa vùng Tây Bắc và Đông Bắc. Phía Đông giáp tỉnh Hà Giang, phía Nam giáp tỉnh Yên Bái, phía Tây giáp tỉnh Lai Châu và Sơn La, phía Bắc giáp tỉnh Vân Nam_ Trung Quốc. - Tọa độ địa lí: 22°22′48″B 104°09′28″Đ 1.1.2.Giao Thông Lào Cai là một tỉnh cửa ngõ biên cương phía Tây Bắc của Tổ quốc có 203km đường biên giới với Trung Quốc, có vị trí chiến lược quan trọng cả về kinh tế - chính trị - an ninh - quốc phòng. Lào Cai nằm ở vị thế “đầu cầu” nối liền tỉnh Vân Nam và cả vùng Tây Nam rộng lớn của Trung Quốc với đồng bằng Bắc bộ. Lào Cai có điều kiện thuận lợi về giao thông, có cả đường thuỷ, đường bộ và đường sắt. Trên địa phận tỉnh Lào Cai có 3 tuyến quốc lộ, 6 tuyến tỉnh lộ, đường ôtô đã về đến xã, phường, thị trấn. Đường sông Hồng là tuyến đường huyết mạch thời cổ đại và phong kiến. Lào Cai hiện có cửa khẩu quốc tế, cửa khẩu quốc gia và nhiều cửa khẩu phụ thông thương với Trung Quốc. Đường bộ: + Quốc lộ chạy qua địa bàn tỉnh gồm 5 tuyến (4D, 4E, 279, 32, 70) với tổng chiều dài 472 km + Đường tỉnh lộ có 8 tuyến với 300 km, gần 1.000 km đường từ huyện đến trung tâm xã, hơn 2.000km đường liên thôn bản. Mạng lưới giao thông bộ phân bố tương đối phù hợp. Gồm các tuyến đường: Đường 79 (Xuân Giao - Khe Sang); Đường Kim Tân - Mường Hum; Đường Phố Mới - Phong Hải; Đường Hoàng Liên Sơn I; Cầu Ngòi Phát; Đường Bản Vược - Nậm Chác và Đường Tùng Chung Phố - Pha Long; Đường Bắc Ngầm - Bắc Hà: UBND tỉnh Lào Cai đã cho phép triển khai lập dự án khả thi nâng cấp thành đường cấp 4 miền núi. Sở Giao thông vận tải Lào Cai đang triển khai các thủ tục để lập dự án; Đường Sa Pa - Bản Dền; Cầu Kim Thành qua sông Hồng nối khi thương mại Kim Thành (Lào Cai) và khu Thương Thành (Hà Khẩu-Vân Nam-Trung Quốc. Đường sắt: + Tuyến đường sắt liên vận quốc tế Hải Phòng - Hà Nội - Lào Cai - Vân Nam (Trung Quốc): vận tải hàng hoá, hành khách quốc tế, trong nước 1 + Tuyến đường sắt nội bộ : phục vụ khai thác khoáng sản. Đường thuỷ: Có 2 tuyến sông Hồng và sông Chảy chạy dọc giữa tỉnh tạo thành một hệ thống giao thông liên hoàn. 1.1.3. Du Lịch Với 25 dân tộc cùng sinh sống, Lào Cai trở thành mảnh đất phong phú về bản sắc văn hóa, về truyền thống lịch sử, di sản văn hóa. Trong đó Người Việt chiếm số đông, có mặt khá sớm và đặc biệt chiếm tỉ lệ cao trong những năm 1960 bởi phong trào khai hoang và cán bộ được điều động từ thành phố Hải Phòng các tỉnh Phú Thọ, Thái Bình, Hà Nam...lên. Trong số các dân tộc khác thì đông hơn cả là Người H'Mông, Tày, Người Dáy,...Người Hoa chiếm tỉ lệ đáng kể. Chính sự phong phú về đời sống các dân tộc đã tạo ra một bản sắc riêng của Lào Cai. Việc các tỉnh Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai, Hà Giang, Lai Châu, Hòa Bình, Điện Biên, Sơn La cùng hợp tác trong chương trình Hợp tác phát triển du lịch 8 tỉnh Tây Bắc mở rộng đã tạo cơ hội phát huy thế mạnh này và thu hút được dự quan tâm của du khách. Là tỉnh miền núi cao, đang phát triển nên Lào Cai còn giữ được cảnh quan môi trường đa dạng và trong sạch. Đây sẽ là điều quan trọng tạo nên một điểm du lịch lý tưởng đối với du khách trong và ngoài nước. Khu du lịch nghỉ mát Sa Pa - là 1 trong 21 khu du lịch quốc gia của Việt Nam. Sa Pa nằm ở độ cao trung bình từ 1.200 m - 1.800 m, khí hậu mát mẻ quanh năm, có phong cảnh rừng cây núi đá, thác nước và là nơi hội tụ nhiều hoạt động văn hóa truyền thống của đồng bào các dân tộc như chợ cùng cao. Dãy núi Hoàng Liên Sơn có đỉnh Fansipan - nóc nhà của Việt Nam - và có khu bảo tồn thiên nhiên Hoàng Liên hấp dẫn nhiều nhà khoa học, khách du lịch. Lào Cai có nhiều địa danh lịch sử, hang động tự nhiên và các vùng sinh thái nông nghiệp đặc sản như mận Bắc Hà, rau ôn đới, cây dược liệu quý, cá hồi, cá tầm... Cặp cửa khẩu quốc tế Lào Cai (Việt Nam) - Hà Khẩu thuộc Vân Nam (Trung Quốc) tách nhau qua sông Nậm Thi cũng là một điểm du lịch thú vị. 1.2. Tài Nguyên Du Lịch 1.2.1. Tài Nguyên Du Lịch Tự Nhiên 1.2.1.1. Địa Hình a. Đặc điểm hình thái địa hình: dựa vào độ cao tương đối và độ cao tuyệt đối, phân ra hai dạng địa hình - Nhận xét chung về đặc điểm địa hình của lãnh thổ Dạng địa hình Phân tích 2 1.Núi và Cao nguyên 2. Đồi (trung du) Chiếm 80% so với tổng diện tích tự nhiên. Độ cao từ 250 đến 3.143m, so với mực nước biển (là đỉnh Phan Si Păng cao nhất Việt Nam). Với địa hình đồi núi cao chiếm ưu thế, còn có đỉnh Phan Si Păng cao nhất Việt Nam thích hợp cho các loại hình du lịch mạo hiểm khám phá thiên nhiên. Đỉnh Phan Si Păng, đỉnh Bạch Mộc Lương Tử (Bát Xát), núi Ba mẹ con (Bắc Hà)… thích hợp cho loại hình du lịch mạo hiểm Ngoài ra còn có núi Cô Tiên, núi Hàm Rồng, bản Cát Cát cũng có giá trị du lịch không kém. Chiếm 12% so với diện tích tự nhiên. Địa hình đồi núi thấp, bị chia cắt lớn, với phần thung lũng dọc sông Hồng và các tuyến đường bộ, đường sắt chạy qua vùng trung tâm của tỉnh. b. Dạng địa hình đặc biệt Dạng địa hình Karst Phân tích Có dạng địa hình Karst ngập nước mà tiêu biểu là Hang Tiên. Có giá trị thu hút du lịch và là thắng cảnh tự nhiên của vùng. 1.2.1.2. Khí Hậu Lào Cai có khí hậu nhiệt đới gió mùa, song do nằm sâu trong lục địa bị chia phối bởi yếu tố địa hình phức tạp nên diễn biến thời tiết có phần thay đổi, khác biệt theo thời gian và không gian. Đột biến về nhiệt độ thường xuất hiện ở dạng nhiệt độ chênh lệch trong ngày lên cao hoặc xuống thấp quá (vùng Sa Pa có nhiều ngày nhiệt độ xuống dưới 00C và có băng hoặc tuyết rơi). Khí hậu Lào Cai chia làm hai mùa: mùa mưa bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 10, mùa khô bắt đầu từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau. Nhiệt độ trung bình nằm ở vùng cao từ 150C - 200C (riêng Sa Pa từ 140C – 160C và không có tháng nào lên quá 200C), lượng mưa trung bình từ 1.800mm - >2.000mm. Nhiệt độ trung bình nằm ở vùng thấp 3 từ 230C – 290C, lượng mưa trung bình từ 1.400mm - 1.700mm. Sương: Sương mù thường xuất hiện phổ biến trên toàn tỉnh, có nơi ở mức độ rất dày. Trong các đợt rét đậm, ở những vùng núi cao và các thung lũng kín gió còn xuất hiện sương muối, mỗi đợt kéo dài 2 - 3 ngày. Khí hậu Lào Cai rất thích hợp với các loại cây ôn đới, vì vậy Lào Cai có lợi thế phát triển các đặc sản xứ lạnh mà các vùng khác không có được như: hoa, quả, thảo dược và cá nước lạnh. Độ ẩm Lượn g mưa Nhiệt độ I 15, 3 22 II 16, 4 33 III 20, 2 58 IV 24, 8 129 V 28, 8 171 VI 31, 4 239 VII 32, 0 302 VIII 31, 3 355 IX 29, 0 222 X 25, 4 153 XI 20, 4 54 XII 16, 7 27 Năm 24,3 15, 7 17 20, 7 24, 2 27 27, 9 27, 9 27, 5 26, 3 24 20, 2 17 23 1764 1.2.1.3. Nguồn nước Nguồn nước 1.Sông 2. Hồ 3.Nước Khoáng Phân Tích - Hệ thống sông: Lào Cai có 2 con sông lớn chảy qua là sông Hồng và sông Chảy bắt nguồn từ Vân Nam (Trung Quốc). Ngoài ra còn có hàng nghìn sông suối lớn nhỏ. - Tổng chiều dài các con sông: sông Hồng là 130km chiều dài chảy qua tỉnh, sông Chảy có chiều dài đoạn chảy là 124km chảy qua tỉnh. Trong số hàng nghìn sông suối lớn nhỏ thì có 107 con sông, suối dài từ 10km trở lên. -Mật độ sông ngòi: Lào Cai có hệ thống sông suối dày đặc được phân bố khá đều. -Với hệ thống sông suối dày đặc thuận lợi cho phát triển du lịch ngắm cảnh với các hang động và hệ thống thác nước và động như: hang Tiên, thác Cốc San Lào Cai có hàng nghìn sông suối lớn nhỏ nhưng chỉ có hai hồ đó là: hồ Thác Bạc và hồ Cốc Ly Hồ Thác Bạc là một hồ tự nhiên: Hồ Thác Bạc rộng gần 6ha, nơi sâu nhất 9 m và có khả năng tích được khoảng gần 200.000 m3 nước. Hồ nước này đảm bảo nguồn nước quanh năm cho danh thắng Thác Bạc, đồng thời cung cấp nước sạch phục vụ sinh hoạt và nuôi cá nước lạnh của khu vực thượng huyện Sa Pa. Hồ Thác Bạc có tiềm năng du lịch lớn và hiện là điểm đến hấp dẫn của vùng Hồ Cốc Ly là một hồ nhân tạo, hồ thủy điện của vùng. Các nguồn nước khoáng ở đây chủ yếu là nguồn thiên nhiên, chảy ra từ các khe suối, vách đá, từ những lớp bồi tích của một con suối trên núi hay ở thung lũng. Hệ thống nước khoáng ở đây tương đối nhiều, có các hệ thống như: Lũng Pô, Bản Mac, Nà Ban, Phênh Phát, Nà Ún, Bản Xa, Nậm Sở, Bản Khì. 1.2.1.4. Sinh Vật - Đặc điểm chung của hệ sinh thái: 4 Đặc trưng cơ bản của hệ sinh thái tự nhiên là khả năng tự lập lại cân bằng, nghĩa là mỗi khi bị ảnh hưởng bởi một nguyên nhân nào đó thì lại có thể phục hồi để trở về trạng thái ban đầu. Trong một hệ sinh thái luôn tồn tại mối quan hệ nhân quả giữa tính ổn định và tính phong phú về tình trạng, về chủng loại trong thành phần của hệ sinh thái với tính cân bằng của hệ sinh thái. Hệ sinh thái càng trưởng thành thì cân bằng môi trường càng lớn. -Hệ thống các vườn quốc gia, khu dự trữ sinh quyển. +Vườn quốc gia Hoàng Liên: thành lập năm 1996. Địa điểm: Vườn quốc gia Hoàng Liên là một vườn quốc gia Việt Nam được thành lập năm 2002, nằm ở độ cao từ 1.000-3000m so với mặt biển trên dãy Hoàng Liên Sơn thuộc địa bàn các huyện Than Uyên, Phong Thổ tỉnh Lai Châu và Sa Pa của tỉnh Lào Cai. Tọa độ địa lý của vườn từ 22°07'-22°23' độ vĩ Bắc và 103°00'-104°00' độ kinh Đông. Đặc trưng: Thực vật tại Vườn quốc gia Hoàng Liên có 2.024 loài thuộc 200 họ, trong đó có 66 loài trong sách đỏ Việt Nam, 32 loài quý hiếm, 11 loài có nguy cơ tuyệt chủng như bách xanh, thiết sam, thông tre, thông đỏ, đinh tùng, dẻ tùng v.v. Có tới trên 700 loài cây được dùng làm thuốc trong đó có những cây dược liệu được khai thác và đưa vào sử dụng từ lâu như thiên niên kiện, đương quy, thục địa, đỗ trọng, hoàng liên chân chim, đỗ quyên, kim giao, thảo quảv.v. Đó là chưa kể còn trên 2.500 loài lấy được mẫu tiêu bản nhưng chưa xác định được tên họ của cây. Tại đây người ta còn tìm thấy loài nấm cổ linh chi trong đó có những tai nấm nặng trên 6 kg Khảo sát theo dọc tuyến Hoàng Liên, các nhà khoa học cũng đã phát hiện thêm nhiều loài quý hiếm, như ở độ cao 2.000 mét của khu vực các xã Séo Mý Tỷ đến Dền Thàng có rừng pơ mu mọc liên tiếp với diện tích trên 100ha, mỗi cây có đường kính trên 1m; Phan Xi Păng đi San Sả Hồ ở độ cao gần 3.000m, lại phát hiện rừng đỗ quyên với khoảng 20 loài trong tổng số 27 loài có mặt tại Việt Nam, trong đó đẹp và nhiều nhất là loài quyên ly, quyên huyền diệu, quyên silie. Số lượng các loài thực vật đặc hữu chiếm tới 25% các loài thực vật đặc hữu tại Việt Nam, khiến Vườn quốc gia Hoàng Liên sở hữu kho tàng gen cây rừng quý hiếm bậc nhất trong các vườn quốc gia Việt Nam Vườn sở hữu ba loài cây đặc biệt quý hiếm là loài bách xanh, phân bố tại vùng núi đá vôi xã Bản Hồ, huyện Sa Pa, mọc rải rác trên diện tích 30ha nhưng hiện chỉ còn không đến 10 cây có đường kính thân cây từ 20–30 cm, cao trên 20m . Loài thông đỏ chỉ còn 3 cá thể được tìm thấy tại xã Sa Pả huyện Sa Pa, sống ở độ cao trên 2.000m. Loài vân sam Hoàng Liên (sam lạnh) mọc ở độ cao 2.700m, cây cao từ 18-20m, có đường kính gốc từ 50–80 cm, phân bố trong vùng lõi vườn quốc gia với diện tích khoảng 400-500 ha . Ba loại cây quý hiếm này nay đang được Quỹ Quốc tế về Bảo vệ 5 Thiên nhiên (WWF) và Chương trình Đông Dương khuyến cáo cần có biện pháp bảo tồn, nhân giống vì đứng trước nguy cơ tuyệt chủng cao. Về động vật, tại Vườn quốc gia Hoàng Liên có 66 loài thú trong đó có 16 loài nằm trong sách đỏ Việt Nam. Bên cạnh những loài quen thuộc như sóc bay, mèo rừng, sơn dương, vượn đen, là những loài có nguy cơ tuyệt chủng như vượn đen tuyền, hồng hoàng, cheo cheo, voọc bạc má; chim có 347 loài trong đó có những loài quý hiếm như đại bàng đốm to, trĩ mào đỏ, chim hét mỏ vàng; động vật lưỡng cư có 41 loài; bò sát với 61 loài. Vườn bảo tồn nguồn gen của một nửa loài ếch nhái có ở Việt Nam, trong đó có loài ếch gai rất hiếm vừa được phát hiện. Giá trị du lịch: Thị trấn Sa Pa nằm trong vườn quốc gia Hoàng Liên từ lâu đã trở thành điểm du lịch sinh thái hấp dẫn của Việt Nam. Du khách đến Sa Pa có thể tiếp tục hành trình theo các tuyến du lịch đến các khu vực thuộc Vườn quốc gia Hoàng Liên như chinh phục đỉnh Phan Xi Păng, vượt đèo Ô Quy Hồ, khám phá văn hóa các dân tộc thiểu số sinh sống trong vùng đệm của vườn. nhưng hiện nay, giá cả của cây thảo quả càng ngày càng cao, nên người dân địa phương đang tàn phá rất nhiều rừng, khi trông cây thảo quả buộc cư dân phải đốn rất nhiều cây cổ thụ để trồng cây, và khi thu hoạch họ cung cần đốn nhiều cây để lấy củi, và rừng đang bị tàn phá, các cán bộ của khu bảo tồn họ chỉ lo tìm khách du lịch để kiếm tiền, còn rừng khắp nơi bi phá thì họ không quan tâm. +Khu bảo tồn thiên nhiên Văn Bàn: Khu bảo tồn thiên nhiên Văn Bàn nằm trong vùng núi Hoàng Liên Sơn, cách đỉnh Fan Si Pan là đỉnh núi cao nhất Việt Nam 40 km về phía đông nam là một vùng núi, có nhiều đỉnh cao trên 2.000 m. Điểm cao nhất (2.875 m) ở phía bắc huyện trên ranh giới với VQG Hoàng Liên. Huyện Văn Bàn bị chia đôi bởi thung lũng sông chạy từ tây nam đến đông bắc. Độ cao dọc theo thung lũng này chỉ dưới 200 m. + Khu bảo tồn thiên nhiên Bát Xát: Mới đây theo quyết định số 1976/ QĐ- TTg ngày 30/10/2014 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt quy hoạch hệ thống rừng đặc dụng cả nƣớc đến năm 2014, tầm nhìn đến năm 2030, trong đó có Khu bảo tồn thiên nhiên Bát Xát với diện tích tự nhiên là 18.637 ha. Khu bảo tồn thiên nhiên Bát Xát có độ che phủ rừng đạt 95% với 940 loài thực vật bậc cao như Mộc Lan, Dương xỉ, ngành thông. Trong đó có 38 loài có trong sách đỏ Việt Nam, 9 loài trong sách đỏ thế giới. 1.3.1. Tài Nguyên Nhân Văn 1.3.1.1. Di sản văn hóa thế giới- di tích văn hóa lịch sử Di sản văn hóa quốc gia và cấp tỉnh Di tích văn hóa lịch sử Tổng số di tích trên lãnh thổ là 17 6 di tích các loại Số di tích được xếp hạng cấp quốc gia là 15 di tích Mật độ di tích là 0,003/km 1.3.1.2. Di sản văn hóa thế giới- Di tích văn hóa lịch sử - Lễ hội STT 1. Tên Lễ Hội Hội hoa chuối của người Xa Phó Thời gian Ngày 9 tháng 9 âm lịch hàng năm Địa Điểm Huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai. 2. Lễ “ăn cơm mới” của người Tày, Bắc Hà Cuối tháng 9 đầu 10 dương lịch hàng năm Huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai. 3. Lễ cúng rừng của người dao Tuyển Mùng 8 tết hàng năm Bản Mạ, xã Trì Quang, huyện Bảo Thắng 4. Hội Xòe ở Tà Chải Ngày 5 tháng 1 âm lịch hàng năm Bắc hà, tỉnh Lào Cai. 7 Nội Dung Hội hoa chuối được tổ chức tại một gia đình, nhóm gia đình, hay cả thôn bản, là nơi tụ họp vui chơi, cầu chúc, múa hát, thể hiện tinh thần đoàn kết, nhớ ơn tổ tiên, cùng phấn đấu vươn lên trong cuộc sống, lao động của người dân tộc Xa Phó (Văn Bàn). Ngay sau khi thu hoạch vụ lúa mùa khi ngô, lúa đã chất đầy bồ thì đó cũng là thời điểm để bà con người dân tộc Tày (Bắc Hà) bước vào mùa Tết "cơm mới" với ý nghĩa tổng kết một năm sản xuất, dâng thành quả lao động cúng đất trời, cầu mưa thuận gió hòa, làm ăn phát đạt, mùa màng tươi tốt, con cháu mạnh khỏe và bày tỏ sự tôn kính lên ông bà tổ tiên đã khuất. Đây là lễ hội bảo vệ và phát triển rừng cộng đồng, kết hợp lễ cúng rừng đầu xuân theo phong tục cổ truyền. Đây là hội xuân của người Tày cầu cho mùa màng tươi tốt, thóc gạo đầy nhà. Nghi 5. Lễ cấp sắc của người Dao đỏ Tháng 11,12 âm lịch hoặc tháng 1 hàng năm. Bắc Hà, tỉnh Lào Cai. 6. Lễ hội đền Trung Đô Mùng 10 tháng giêng hàng năm. Trung Đô, xã Bảo Nhai, huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai. 8 lễ khá đơn giản với một mâm lễ vật tại chân cây nêu to, biểu thị lòng thành kính của dân bản đối với Thần Nông vị thần cai quản ruộng nương. Sau khi thầy cúng làm lễ cầu khấn, cả làng cùng tham gia múa xoè trong tiếng chiêng, tiếng trống rộn rã với nhiều điệu đặc sắc: xòe tập hợp, xòe đôi, xòe bốn, xòe chào... Lễ cấp sắc ở mỗi bậc cấp đều có những khác biệt nhất định trong trình tự hành lễ. Tuy nhiên, có 2 phần lễ chính là lễ quá tăng (qua đèn) gồm các phần: Trình diện, cấp đèn, hạ đèn, đặt pháp danh, qua cầu. Phần lễ tẩu Slai (lễ thăng cấp) gồm: lễ lên đèn, ban mũ, lễ trình diện Ngọc Hoàng, lễ tơ hồng, lễ thăm thiên đình. Lễ cấp sắc của người Dao có giá trị nhân văn, được thể hiện ở các điều giáo huấn ghi trong sắc cấp cho người thụ lễ tuyệt đối kỵ làm việc ác, điều xấu Đền Trung Đô là nơi thờ tướng quân Gia Quốc Công Vũ Văn Mật cùng với các thuộc tướng của mình đã có công xây dựng căn cứ ổn định bảo vệ biên cương Tổ quốc và phát triển vùng đất Trung Đô cũng như Bắc Hà 7. Lễ hội đền Bắc Hà. Ngày 7 tháng 7 âm lịch 8. Tết mừng chiến thắng Ngày 1 tháng 7 của người Nùng Dín. âm lịch 9. Lễ hội cầu mùa của các dân tộc. Ngày tí tháng giêng hàng năm 10. Lễ hội trùm chăn của người Hà Nhì. 11. Lễ hội xuống đồng bản Hồ Ngày thìn tháng 6 âm lịch diễn ra trong 3 ngày. Ngày mồng 8 tết hàng năm 12. Lễ hội Gầu Tào Ngày 15 tháng giêng. Nếu hội tổ chức 3 năm liền thì mỗi năm tổ chức 3 ngày liền, hội làm Tại Bắc Hà, tỉnh Lào Cai thuộc trấn Tuyên Quang xưa ( Lào Cai ngày nay) thành trung tâm kinh tế xã hội thời bấy giờ. nhằm tưởng nhớ ngày mất Gia quốc công Vũ Văn Mật, người đã có công dẹp loạn, an dân, hùng cứ vùng Tây Bắc thế kỷ 16-17. Huyện Mường Tết là dịp bà con dâng Khương và cúng thần linh thổ địa Huyện Bắc Hà. các món ăn từ chuối: quả chuối, hoa chuối, lõi chuối, xôi 7 màu với biểu tượng cây chuối và một đôi đũa màu đỏ, hát dân ca kể về sự tích chống giặc. thôn Làng My, lễ cầu mùa, cầu cho xã Xuân người yên vật thịnh, quang, huyện mùa màng tốt tươi, lúa Bảo Thắng đầy bồ gà lợn đầy chuồng… Lễ hội Cầu mùa là một lễ hội của người Dao Tuyển. Đây là nét văn hóa truyền thống tốt đẹp của người Dao Tuyển, không cầu kỳ nhưng mang nhiều yếu tố tâm linh sâu sắc của cả cộng đồng. Huyện Bát Lễ hội cúng thần gió, Xác, tỉnh Lào thần đất, còn gọi là Cai. K’Hô lgià lgià. Bản Hồ-Sa Pa, Dân lễ vật cúng thần tỉnh Lào Cai. linh và cầu cho mùa màng bội thu. Ở các gia đình Gầu tào là lễ hội quan người H’Mông trọng của người Hmông. Lễ hội mở ra nhằm một trong hai mục đích cầu phúc hoặc cầu mệnh. Một 9 gộp một năm sẽ tổ chức 9 ngày. 13. Lễ tết nhảy 14. Lễ hội “Nhặn Sồng” và “Nào Sồng”. gia chủ nào đó không có con, thưa con hoặc sinh con một bề, sẽ làm lễ nhờ thày cúng bói xin cho mở hội Gầu tào nhằm cầu mong có con - đó là hội cầu phúc. Một gia chủ khác bị ốm đau bệnh tật, con cái yếu ớt, thậm chí có con bị chết, mùa màng, vật nuôi lụi dần, cũng nhờ thầy cúng bói xin mở hội Gầu tào - đó là hội cầu mệnh. Cuối giờ thìn, đầu Tại nhà ông Tết nhảy của người giờ tị ngày mồng trưởng họ Tả Dao đỏ ở Tà Phìn diễn một và mồng hai Phìn, huyện Sa ra từ cuối giờ Thìn đến tết âm lịch hàng Pa, tỉnh Lào giờ Dậu (khoảng 5 năm. Cai. tiếng đồng hồ) và mang tính tổng hợp khá đầy đủ các loại hình nghệ thuật dân gian khác của dân tộc Dao đỏ, như nghệ thuật nhảy múa, âm nhạc, ngôn ngữ ... Trong Tết nhảy, người Dao đỏ còn hát các điệu hát nói về công lao của đấng tổ tiên, sự tích dòng họ, các sinh hoạt cấy trồng, dệt vải, săn bắn... Những ngày tốt Làng Giàng Tả Trước đây, vào những của tháng đầu Chảy (Tả Van- ngày tốt của tháng đầu năm hàng năm. Sa). năm hàng năm, người Dao ở Giàng Tả Chải thường tổ chức lễ “Nhặn Sồng” ở khu rừng cấm của làng. Từ đầu thập kỷ 50, do sự gia tăng dân số, nạn phá rừng làm nương rẫy cũng phát triển, nên chỉ năm nào rừng bị phá nhiều, trâu ngựa 10 15. Lễ hội “Nào Cống” Ngày thìn, tháng sáu âm lịch hàng năm. ở các làng người Mông, Dao, người Giáy ở Mường Hoa. 11 thả rông phá vườn tược hoa mầu, người Dao mới tổ chức lễ “Nhặn Sồng”. Đồ cúng lễ là một con lợn (to hay nhỏ tuỳ thuộc số người đến dự nhiều hay ít). Con lợn này luân phiên hàng năm từng hộ gia đình trong làng nuôi dưỡng. Lợn dâng cúng phải là lợn có lông đen tuyền, khoẻ mạnh, béo tốt. Ngôi miếu thờ được người Mông gọi là “Chế đáng” (Tsêr đăngz). Miếu thờ có 3 gian, gian giữa thờ hai viên quan họ Đào, họ Nguyễn đã có công an dân và xây dựng Mường Hoa. Một gian bên trái thờ thần núi (Sơn thần), thần Suối Hoa (Long Vương), người Giáy gọi là “Sía po”, “Sía ta”, người Mong gọi là “Thủ Ti”, “Lùng Vàng”. Một gian bên phải thờ các bà nàng vợ hai ông quan họ Đào, họ Nguyễn. Lễ Vật dân cúng là trâu đen, lợn đen và gà vịt do các làng đóng góp mua. Làng Tả Van Giáy còn có trách nhiệm chuẩn bị vàng hương, bát đĩa dâng cúng. Trước đây, người chủ lễ phải mời thầy mo người Tày của Mường Bo (4). Từ thập kỷ 40 – 50 của thế kỷ này, chủ lễ là thầy mo của người Giáy ở Tả Van. Thầy mo ăn mặc áo dài, quần thụng (kiêng đội mũ, khăn) trịnh trọng đọc lời cúng các thần kinh. Nội dung bài cúng là mời các thần về dự lễ, cầu mong các thần phù hộ người yên vật thịnh, được mùa. Sau lễ cúng, chức dịch Mường Hoa lên đọc quy ước chung của cả Mường... 16. Lễ hội Trầu Sun 17. Lễ hội Roòng Poọc của người Giáy ở Tả Van 18. Lễ hội đền Thượng Ngày hợi, tháng giêng (mùng 5) Làng Chành, xã Xuân Giao (Bảo Thắng) Trầu sun là một trong những nghi lễ cầu mùa rất đặc trưng của người Dao đỏ được các làng bản tổ chức thường xuyên hàng năm hoặc vài ba năm một lần vào các dịp đầu xuân cầu cho mưa thuận gió hoà, cây cối phát triển, mùa màng tốt tươi, không xảy ra dịch bệnh, gia đình ấm lo, hạnh phúc. Ngày thìn tháng Tả Van (huyện cầu mùa màng bội thu, giêng âm lịch Sa Pa- Lào người yên vật thịnh, Cai) mưa thuận, gió hoà. Tuy vốn là lễ hội dân tộc truyền thống của người Giáy ở Tả Van, nhưng nhiều năm nay đã lan rộng, trở thành lễ hội chung của cả vùng thung lũng Mường Hoa. Rằm tháng Giêng Thành phố Lào Nhiều năm qua cứ “ hàng năm Cai đến hẹn lại lên” vào rằm tháng Giêng hàng năm, đồng bào các dân 12 19. Lễ hội Lập tịch của người Dao họ Lễ diễn ra ở gia đình và làng của người Dao họ, khi con trai được 13 tuổi Bản Khe Mụ, xã Sơn Hòa, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai 20. Lễ hội rước đất, rước nước của dân tộc Tày ở Bắc Hà. Rằm tháng giêng hàng năm Huyện Bắc Hà, Lào Cai. tộc ở Lào Cai và cả nước lại nô nức hành hương về thành phố Lào Cai – nơi đất thiêng ải Bắc để hoà mình vào bầu không khí sôi động của Lễ hội đền Thượng. Lễ lập tịch (hay còn gọi là cấp sắc) của người Dao Họ giống như lễ thành đinh của các dân tộc ở nước ta và trên thế giới. Đó là nghi lễ đánh dấu một giai đoạn của cuộc đời con người, giai đoạn từ tuổi thiếu niên lên tuổi trưởng thành, được cộng đồng công nhận có vị trí trong đời sống và sinh hoạt của người Dao Họ. Hơn thế nữa, đó không chỉ là sự công nhận chính của cộng đồng, mà còn là sự chấp nhận của thần linh cho chàng trai đó có đầy đủ mọi tiêu chuẩn của một thành viên chính thức của cộng đồng. Cầu xin mẹ đất, mẹ nước phù hộ cho đất luôn màu mỡ, cầu cho nguồn nước không bao giờ cạn, giúp dân bản có cuộc sống no đủ quanh năm. *Giá trị đối với du lịch: -Về thời gian: các lễ hội chủ yếu tập trung vào các tháng Giêng, tháng một, tháng hai âm lịch hàng năm nhằm tháng 1, 2, 3 dương lịch. Vào mùa xuân, mùa lễ hội của năm và cũng là mùa cao điểm du lịch của miền Bắc. -Không gian: chủ yếu tập trung tại các bản làng của các dân tộc thuộc huyện Bắc Hà. 13 -Ý nghĩa của lễ hội: chủ yếu lễ hội diễn ra để cầu cho mưa thuận, gió hòa, vật yên, để mùa màng bội thu và nhớ ơn các vị thần, vị tướng có công và tưởng nhớ tổ tiên. -Về khả năng đón khách và kinh doanh du lịch của vùng: do lễ hội chủ yếu tập trung vào mùa xuân, mùa cao điểm du lịch nên lượng khách đến vùng rất cao. Với hệ thống cơ sở vật chất và danh lam thắng cảnh của vùng đang thu hút lượng du khách rất cao. 1.3.2. Dân Tộc -Tổng số dân có trên lãnh thổ là 613.075 nghìn người. Mật độ dân số bình quân 96 người/km². -Lào Cai có 27 dân tộc anh em sinh sống. Dân tộc kinh có 194.666 người, dân tộc H’Mông có 122.825 người, dân tộc Tày có 82.516 người, dân tộc Dao có 72.543 người, dân tộc Thái có 51.061 người, dân tộc Giáy có 24.360 người, dân tộc Nùng có 23.156 người, dân tộc Phù Lá có 6.763 người, dân tộc Hà Nhì có 3.099 người, dân tộc Lào có 2.134 ngưòi, dân tộc Kháng có 1.691 người, dân tộc LaHa có 1.572 người, dân tộc Mường 1263 người, dân tộc Bố Y có 1.148 người, dân tộc Hoa có 770 người , dân tộc La Chí có 446 người , và 11 dân tộc có số dân ít dưới 70 người như các dân tộc Sán Chay, Sán Dìu, Khmer, Lô Lô, Kà Doong, Pa Cô , Ê Đê, Giẻ Triêng , Gia Rai, Chăm, Kà Tu. Cơ cấu dân số dân tộc thiểu số chiếm 64,09% dân số toàn tỉnh. Dân tộc Kinh chiếm 35,9%, dân tộc Hmông chiếm 22,21%, tiếp đến là dân tộc Tày 15,84%, Dao 14,05%, Giáy 4,7%, Nùng 4,4%, còn lại là các dân tộc đặc biệt ít người Phù Lá, Sán Chay, Hà Nhì, La Chí,... -Về đặc điểm và phong tục tập quán: +Dân tộc H’mông là một dân tộc sinh sống đông nhất ở Sa Pa, chiếm khoảng 53% dân số. Tộc người H’Mông sinh sống chủ yếu ở Sa Pa là người H’Mông Đen do quần áo của họ toàn màu đen nhưng trang phục của họ lại khác hẳn người H’Mông Đen ở nơi khác, vì thế thường được gọi là người H’Mông Sa Pa. Người đàn ông thường mặc quần màu đen hoặc xanh đen (màu chàm) giống nhau, áo cánh ngắn Cũng như nhiều dân tộc khác, nghề dệt vải của dân tộc H’Mông đen có từ rất lâu đời. Dù hàng ngày có vất vả trên nương rẫy ruộng đồng nhưng hễ có thời gian rảnh rỗi là họ dành cho việc thêu, dệt thổ cẩm. Cả một đời từ khi biết làm việc đến khi mất đi, người phụ nữ lúc nào cũng gắn bó với khung cửi, với cây kim mũi chỉ như một nét sinh hoạt thường ngày không thể thiếu vắng của họ Người H’mông có đời sống văn nghệ khá phong phú, đặc biệt là văn học truyền miệng có rất nhiều thể loại, như Truyện thần thoại về anh hùng văn hóa tìm ra loại giống và dạy người H’mông cách trồng ngô, lúa, trồng lanh làm vải mặc … Truyện cổ tích về các con vật chiếm khá nhiều, đặc biệt là truyện về hổ…Người H’mông say đắm dân ca dân tộc mình, đó là 14 Tiếng hát tình yêu (gầu plềnh), Tiếng hát cưới xin (gầu xuống)… mà họ thường hát khi lao động nương rẫy, trong lúc se sợi dệt vải, trong khi đi chợ, đi hội. Trong những dịp lễ hội, đặc biệt là hội Gầu tào (đón năm mới), những bài hát dân ca này không chỉ thể hiện bằng lời mà còn có thể giãi bày thông qua những nhạc cụ dân tộc (sáo, khèn, kèn lá, đàn môi…). Thanh niên thích chơi khèn, vừa thổi vừa múa. Kèn lá, đàn môi là phương tiện để thanh niên trao đổi tâm tình. Sau một ngày lao động mệt mỏi, thanh niên dùng khèn, đàn môi gửi gắm và thể hiện tiếng lòng mình với bạn tình, ca ngợi vẻ đẹp của cuộc sống, của quê hương, đất nước. Hình thành nên loại hình du lịch Home Stay như: HMONG MOUNTAIN RETREAT, PHƠRI’S HOME +Dân tộc Tày: người Tày đã cư trú tập chung thành bản, thường ở ven các thung lũng, triền núi thấp trên một miền thượng du. Mỗi bản có từ 15 đến 20 nóc nhà, nhiều bản có tới hàng trăm nóc nhà. Ngôi nhà truyền thống của người Tày là nhà sàn, họ thường chọn những loại gỗ quý để dựng nhà. Nhà có 2 hoặc 4 mái lợp ngói, tranh hoặc lá cọ. Xung quanh nhà thưng ván gỗ hoặc che bằng liếp nứa. Theo phong tục truyền thống, hầu hết người Tày kết hôn trong cùng dòng họ. Gia đình người Tày theo chế độ gia đình hạt nhân, phụ hệ, một vợ một chồng. Thanh niên nam nữ được tự do tìm hiểu trước khi đi đến hôn nhân. Thế nhưng, có đi đến hôn nhân hay không lại do hai gia đình quyết định. Hôn lễ truyền thống của người Tày được tiến hành qua các nghi thức: Lễ dạm, lễ ăn hỏi, lễ sêu tết, lễ báo ngày cưới, lễ cưới, lễ đón dâu, đưa dâu…, thể hiện bản sắc văn hoá của một tộc người. Sau khi cưới, cô dâu ở nhà bố mẹ đẻ cho đến khi có mang sắp đến ngày sinh nở mới về ở hẳn bên nhà chồng. Gia đình người Tày thường quí con trai hơn và có qui định rõ ràng trong quan hệ giữa các thành viên trong nhà. Người Tày có một nền văn nghệ cổ truyền phong phú, đủ các thể loại thơ, ca, các truyện cổ tích, truyện cười dân gian, múa nhạc... Các điệu dân ca phổ biến nhất là hát lượn, hát đám cưới, ru con. Người Tày phổ biến hát lượn như hát ví ở miền xuôi. Hai bên nam nữ hát đối đáp về mọi khía cạnh của đời sống xã hội, nhất là về tình yêu đôi lứa. Có nhiều điệu lượn như lượn Slương, lượn Then, lượn Nàng Hai... Người Tày còn có các điệu hát Then, gọi là Văn ca, được ngâm hát trong đám tang, gọi là hát hội trong các hội Lồng tồng, gọi là Cỏ lẩu trong hát đám cưới. +Người Dao: người Dao ở Lào Cai chủ yếu là người Dao đỏ, họ sống ở thung lũng hoặc lưng chừng núi. Họ được gọi là người Dao đỏ là vì phụ nữ thường quấn khăn hay đội mũ đỏ, áo xanh đen có nhiều hoa văn đỏ và trắng ở cổ, vạt và tà áo. Trang phục của họ được xem là đẹp nhất ở mỗi phiên chợ Sa Pa. Người phụ nữ còn có tục cạo chân mày và một phần tóc phía trên trán cho đẹp. Họ cũng có chữ viết riêng dựa theo chữ cổ của Hán ngữ gọi là chữ Nôm - Dao nhưng loại chữ này nay chỉ người cao tuổi mới đọc hiểu và viết được. Người Dao có tín ngưỡng rằng loài chó là tổ tiên của họ nên chó luôn luôn được quý trọng, người đàn ông thì chỉ được coi là trưởng thành khi đã chịu lễ cấp sắc. Ngoài 15 ra họ cũng có nhiều tục lệ đặc biệt như là gia đình nào đang nấu rượu thì phải cắm lá trước cửa nhà, không cho người lạ vào vì đồng bào quan niệm rằng người lạ vào nhà rượu sẽ bị chua và khê, nên khi thấy có dấu hiệu cắm lá kiêng bạn không nên bước vào nhà. Trong gia đình có phụ nữ sinh nở cũng có dấu hiệu kiêng cắm lá trước cửa nhà, để không cho người lạ vào nhà, sợ đứa trẻ mới sinh khóc nhiều. Họ cũng có tục kiêng sờ đầu trẻ em, khi cắt tóc, cạo đầu họ vẫn để chỏm tóc ở đỉnh đầu vì cho đó là nơi trú ngụ các hồn vía con người, quan niệm để chỏm tóc như vậy trẻ em sẽ không hay ốm đau. Họ cũng quan niệm là nam và nữ khi chưa kết hôn thì không được chụp ảnh cùng nhau vì như vậy là không tốt, có thể nói đó là một điều cấm kỵ đối với phụ nữ Dao. Người cầm máy ảnh nếu muốn chụp tốt nhất là nên xin phép họ trước. Với lễ hội trong năm như Tết nhảy tổ chức vào ngày mồng một và mồng hai tháng giêng, hội hát giao duyên vào ngày mồng mười tháng giêng ở bản Tả Phìn , thời gian các lễ hội này nhằm vào những tháng cao điểm du lịch và lễ tế nên thu hút lượng lớn du khách và với bài thuốc tắm lá cây rừng của tổ tiên người Dao Đỏ còn truyền lại đến ngày nay rất tốt cho du khách đi đường xa mệt mỏi là một sản phẩm du lịch độc đáo của người dân tộc Dao nơi đây. + Người Xa Phó: Dân tộc Xá Phó thuộc nhóm dân tộc Phù Lá và dân số toàn quốc chỉ có gần 4 ngàn. Ở Sa Pa chỉ có rất ít người Xá Phó sống ở các bản làng thuộc xã Nậm Sài nằm về phía cực nam của huyện Sa Pa là nơi hẻo lánh, xa đường ôtô vì thế đi lại khó khăn và không thường xuyên tiếp xúc với nơi khác. Đến nay một số người Xá Phó dùng tiếng quan hỏa và một số khác trong đó có người Xá Phó ở Sa Pa lại vẫn giữ nguyên tiếng mẹ đẻ thuộc hệ ngôn ngữ Miến - Tạng. Ngoài ra, còn có một số tên gọi khác mà các dân tộc láng giềng đặt cho như: Xá Phu, Pú Dang, Pu La, Bổ Phi Pạ, Mạc Pạ, Mù Dí Pạ Phổ, Va Sơ Lao…Theo nghiên cứu sơ bộ thì người Xá Phó có mặt ở Tây Bắc (Việt Nam) đến nay vào khoảng hơn 300 năm. Trước đây họ sống du canh, du cư từng nhóm nhỏ săn bắn và hái lượm dọc theo các con suối. Phụ nữ người Xá Phó mặc váy dài, cổ áo khoét vuông, đầu vấn khăn, váy được thêu thùa với những đường nét hoa văn cầu kỳ, các gam màu chủ đạo gồm: vàng, đỏ, xanh… điểm xuyết thêm hạt cườm chạy dài theo cổ và tay áo, những hình nét hoa văn như hình cây thông, hình răng bừa, hình bàn tay khỉ, hình quả trám… nổi bật trên nền vải đen và mang một nét thẩm mỹ hài hòa, độc đáo. Nam giới người Xá Phó mặc áo xẻ nách, hở ngực, quần ống xéo. Đồ trang sức của nam và nữ đều làm bằng vỏ ốc núi, nanh lợn rừng. Phụ nữ thường nhuộm răng đen và ăn trầu. Nguồn sống chính hiện nay của người Xá Phó là canh tác ruộng nương bậc thang, trồng các loại lúa nương, đặc trưng vẫn là gạo nương đỏ. Phát triển nhất vẫn là nghề mây tre đan, nhất là các đồ gia dụng như gùi, mân, giỏ bắt cá… Các nghề đan lát 16 chài lưới cũng đạt đến độ tinh xảo. Đặc biệt là nghề trồng bông dệt vải và các công đoạn để làm ra vải mặc, tự cung tự cấp trong cộng đồng. +Người Giáy: Dân tộc Giáy là một nhánh của nhóm các dân tộc Tày - Thái, sống chủ yếu ở các vùng núi cực Bắc. Tổng số người Giáy ở Việt Nam chỉ có trên 25 ngàn và ở Sa Pa họ chỉ chiếm 2%, tập trung ở các bản quanh thung lũng Tả Van, Lao Chả. Cũng như người Tày, Nùng, Thái, người Giáy canh tác trên các mảnh ruộng bằng phẳng trồng lúa tẻ. Trước kia mỗi năm chỉ làm một vụ. Sau ngày tết, họ tổ chức lễ hội xuống đồng gọi là "Gióng Pooc" vào ngày Thìn tháng Giêng để cầu mong một năm trồng cây tốt lành Trang phục Giáy được chọn chủ yếu là ở trang phục nữ với loại áo ngắn xẻ nách viền cổ trang trí đậm nét. Một số tộc người ở nước ta (phía bắc) có mặc loại áo xẻ nách (thường là áo dài), số áo ngắn loại này không nhiều như Nùng... Tuy nhiên đây là loại áo với kỹ thuật "xẻ nách" và phong cách trang trí ở đường viền cổ, tuy không cầu kỳ nhưng là một sắc thái riêng cho loại áo này về kỹ thuật và mỹ thuật. Người Giáy làm ruộng nước là chính, rẫy chỉ là nguồn thu nhập thêm và thường cũng là chỗ chăn nuôi lợn, gà. Đồng bào nuôi nhiều trâu, ngựa, lợn, gà, vịt, có truyền thống dùng ngựa để cưỡi, thồ, dùng trâu kéo cày, kéo gỗ. Người Giáy nổi tiếng nghề thủ công như đan lát, đóng đồ gỗ, làm bàn ghế trúc, làm gạch nung vôi, chưng cất dầu hồi. Người Giáy vốn có truyện cổ, thơ ca, tục ngữ, câu đố, đồng dao, phong giao, v.v... Có nhiều truyện giải thích hiện tượng tự nhiên, có nhiều truyện thơ dài, có truyện kết hợp lời kể với lời hát. Dân ca phong phú, gồm nhiều loại, mỗi loại có nhiều bài, điệu khác nhau, đặc biệt các hình thức hát giao duyên nam nữ là sinh hoạt sôi nổi và hấp dẫn. Ở người Giáy có ba kiểu hát mà họ gọi là "vươn" hay "phướn" hát bên mâm rượu, hát đêm và hát tiễn dặn... Hiện nay đồng bào ở nhà đất vẫn còn dựng một sàn trước cửa để sử dụng. Nhà sàn hay nhà đất, gian giữa đều là nơi trang nghiêm: đặt bàn thờ tổ tiên, tiếp khách. Buồng các cặp vợ chồng trong gia đình quay ở các gian bên. Phụ nữ không nằm gian giữa. Bếp thường đặt ở gian bên; nay có nhiều nơi đã làm nhà để đun nấu riêng. 1.3.2. Các tài nguyên du lịch nhân văn khác. a. Các làng nghề. May mặc, đan lát chế tác các vật phẩm bằng kim loại hoặc gỗ, đồ trang sức, làm đồ gốm... là những nghề có ở các địa phƣơng, thƣờng thì mỗi tộc ngƣời có những bí kíp nghề riêng. Ngƣời Tày trồng cây bông, thu bông, kéo sợi rồi nhuộm sợi bông để dệt những tấm chăn làm của hồi môn truyền thống. Ng ƣời Mông trồng cây gai, lấy sợi nhuộm màu chàm để dệt thành quần áo mặc. Các tộc ng ƣời ở đây đều nuôi tằm lấy sợi để thêu thùa. Sợi và vải dệt truyền thống có nhiều ở các chợ phiên nhƣ Bắc Hà và Sa Pa. Tuy nhiên, gần đây do sự phát triển du lịch và nhu cầu mua sắm của 17 du khách tăng cao, nên đã có hiện tƣợng làm giả thổ cẩm bằng cách mua hàng dệt sẵn bằng máy bên Trung Quốc rồi về cắt may các sản phẩm để bán cho du khách. Việc này có thể làm mất đi hình ảnh của du lịch Lào Cai. Nghề truyền thống được công nhận, gồm: Nghề làm hương truyền thống tại thôn Làng Kim, xã Quang Kim, huyện Bát Xát; Nghề trạm khắc bạc truyền thống tại thôn Cốc Môi, xã Na Hối, huyện Bắc Hà. Về làng nghề được công nhận có: Làng nghề thêu may thổ cẩm tại thôn Nì Xỉ, xã Pha Long, huyện Mường Khương. Về Làng nghề truyền thống được công nhận: Làng nghề trạm khắc bạc truyền thống tại thôn Séo Pờ Hồ, xã Mường Hum, huyện Bát Xát. Nghề rèn, đúc, dệt vải lanh của người H’Mông ở SaPa, Lào Cai. Làng nghề nấu rượu nổi tiếng: rượu ngô Bản Phố ở huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai; rượu San Lùng, Bản Xèo ở huyện Bát Xát tỉnh Lào Cai. Làng nghề thêu, dệt thổ cẩm ở Sa Pa có 11 làng nghề thuộc các xã Tả Phìn, San Sả Hồ, Sa Pả với khoảng 1.050 hộ tham gia tập trung và một số tổ hợp của Hội phụ nữ huyện, mỗi năm xuất khẩu từ 32.000 – 35.000 mét vải. Các huyện Văn Bàn, Bắc Hà… cũng đã hình thành nhiều làng nghề thêu, dệt thổ cẩm, thu hút hàng nghìn lao động nhàn rỗi. b. Các sản vật địa phương. -Mận Bắc Hà Ở các tỉnh thuộc biên giới phía Bắc nước ta, đâu cũng thấy cây mận, mận Lào Cai, Lạng Sơn có màu hồng đỏ, mận Bắc Hà có vỏ màu xanh, mỗi loại mận đều có hương vị riêng và sắc màu khác nhau, song giống mận ngon nhất, đẹp mã nhất vẫn là giống mận trồng ở đất Bắc Hà. -Nấm chân chim Nấm còn gọi là nấm phiến chẻ – là một sản phẩm độc đáo chỉ có ở Bắc Hà (Lào Cai), không những có giá trị dinh dưỡng cao mà còn là một loại dược liệu quý. Vị ngọt của nấm khiến người ăn khó quên được hương vị của vùng cao này. -Hạt dẻ nướng Vào buổi tối, du khách còn được thoải mái thưởng thức các món ăn đặc sản Lào Cai thơm nức mũi từ ngô, khoai, hạt dẻ đến cá suối, lại cả trứng gà nướng. Khi màn đêm buông xuống trong cái lạnh của phố núi còn gì thi vị hơn lúc được ngồi bên bếp lửa rực hồng ở một quán cóc ven đường nào đó, chỉ một chiếc bàn con, dăm ba chiếc ghế nhựa để nhâm nhi chén rượu Thanh Kim (Sapa) thấy lòng ấm lại trong cái lạnh tê tái để đắm chìm trong không gian tĩnh lặng. 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan