LỜI NÓI ĐẦU
Trong những năm gần đây, du lịch ngày càng trở thành một hiện
tượng kinh tế - xã hội phổ biến, khi đời sống người dân dần được cải thiện,
nhu cầu đi du lịch cũng tăng lên, nó trở thành tiêu chuẩn để đánh giá mức
sống và chất lượng cuộc sống của các tầng lớp dân cư trong xã hội. Việt
Nam là một nước có điều kiện địa lý tự nhiên và tiềm năng du lịch đa dạng
và phong phú, hấp dẫn về vẻ đẹp sinh thái tự nhiên, nền văn hoá đa dạng và
truyền thống lịch sử lâu đời. Phong phú về di sản văn hoá, các làng nghề và
các lễ hội truyền thống gắn với các nhóm dân tộc của cả nước. Tất cả đều là
các yếu tố thuận lợi cho Việt Nam để phát triền ngành kinh tế du lịch. Hiện
nay, nền kinh tế nước ta đang có nhiều biến chuyển, tuy nhiên ngành nông
nghiệp vẫn được coi là ngành kinh tế chính, mặc dù ngành nông nghiệp có
kinh ngạch xuất khẩu đứng thứ hai trên thế giới song vẫn chưa mang lại thu
nhập cao cho người dân, bên cạnh đó là ngành công nghiệp lại cần đến
lượng vốn đầu tư khoa học kỹ thuật lớn, thời gian hòan vốn lâu thì ngành du
lịch - một ngành kinh doanh dịch vụ, được coi như là một ngành công
nghiệp không khói do lượng vốn cần đầu tư không quá nhiều và thời gian
thu lợi nhuận nhanh, đang dần trở thành một trong những ngành kinh tế mũi
nhọn của nước ta.
Trong những năm qua, du lịch Việt Nam tăng trưởng tương đối ổn
định với tốc độ trung bình ở mức tương đối cao (khoảng 20%), thị phần du
lịch của Việt Nam trong khu vực đã tăng từ 5% năm 1995 lên trên 8% năm
2005, thu nhập từ ngành du lịch tăng lên nhiều lần. Đây là một thành công
lớn góp phần giúp du lịch trở thành một trong những ngành có đóng góp lớn
vào GDP.
Du lịch chính là chiếc cầu nối góp phần thúc đẩy nền kinh tế, là bộ
mặt của một đất nước, kinh tế muốn phát triển thì phải đẩy mạnh du lịch
phát triển và du lịch muốn phát triển mạnh thì các cấp lãnh đạo phải biết
quan tâm và cân nhắc các chính sách phải triển sao cho phù hợp với tình
hình kinh tế. Để có một sản phẩm du lịch hoàn hảo, hấp dẫn và thu hút được
khách du lịch là điều không hề đơn giản, bởi du lịch có mối quan hệ sâu sắc
với các ngành kinh tế phụ trợ khác như: Y tế, thương mại, tài chính, an ninh,
hải quan, giao thông vận tải, khách sạn… Muốn phát triển du lịch một cách
bền vững ta phải xem xét mối quan hệ giữa ngành du lịch với các ngành
kinh tế phụ trợ và phối hợp nhịp nhàng các ngành đó để đem lại hiệu quả
kinh tế cao nhất. Do vậy, có thể nói rằng du lịch là một ngành kinh tế tổng
hợp, nó mang tính liên ngành, liên vùng và phức tạp.
1
PHẦN I: DU LỊCH LÀ NGÀNH KINH TẾ TỔNG HỢP,
CÓ TÍNH LIÊN NGÀNH, LIÊN VÙNG
1. MỐI QUAN HỆ GIỮA DU LỊCH VÀ CÁC THÀNH PHẦN KINH
TẾ PHỤ TRỢ:
Thực tiễn phát triển du lịch của đất nước ta trong mấy năm gần đây
đang ngày càng khẳng định được vị trí, vai trò quan trọng của du lịch trong
tiến trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, thu hút đông đảo các
thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động du lịch, đóng góp tích cực vào
việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thu nhập của nền kinh tế quốc dân.
Việt Nam luôn được quốc tế đánh giá là him du lịch hấp dẫn, thân
thiện và an tòan đối với du khách với những lợi thế cơ bản về ổn định chính
trị, con người thân thiện, mến khách và nguồn tài nguyên du lịch hấp dẫn đa
dạng từ biển đảo đến núi, hang động. Bằng chứng là Việt Nam đang xuất
hiện nhiều hơn trong các cuộc bình chọn về các danh lam thắng cảnh, các kỳ
quan trên thế giới như : Hạ Long, Phong Nha - Kẻ Bàng, đỉnh Phanxipăng…
Các điểm du lịch Việt Nam đang ngày càng tới gần hơn với khách du
lịch quốc tế thông qua các kênh thông tin, báo chí, do vậy việc chào đón
lượng khách du lịch ngày một lớn đến Việt Nam là một vấn đề khiến cho các
công ty du lịch, lữ hành, kinh doanh khách sạn lưu tâm. Làm sao để tăng
được lượng khách du lịch đến Việt Nam ngày một đông? Làm thế nào để lôi
cuốn khách quay trở lại Việt Nam du lịch, giải trí và nghỉ dưỡng?
Để làm được điều đó, ta cần phải có các sản phẩm du lịch chất lượng
tốt, nội dung hấp dẫn, giá cả phù hợp với nhiều đối tượng khách du lịch. Một
sản phẩm du lịch được cấu thành bởi nhiều thành phần kinh tế, khi một tour
du lịch hòan chỉnh và đến tay khách hàng tức là nó đã có sự tham gia của các
ngành vận tải chuyên chở hành khách, ngành khách sạn, ngành kinh doanh
ẩm thực, bán đồ lưu niệm, an ninh...
Tuy nhiên nhắc tới du lịch, ta không phải chỉ nhắc tới những chuyến
đi du lịch hấp dẫn mà còn nhắc tới những địa danh du lịch, các tài nguyên du
lịch, nơi vui chơi giải trí… hay nói cách khác chính là nhắc tới vấn đề tu bổ,
xây dựng, nâng cấp cơ sở hạ tầng ở các khu du lịch, do vậy ngành du lịch
cũng cần có sự tham gia, liên kết, đóng góp vốn đầu tư của các ngân hàng tín
dụng, các cơ quan đòan thể, công ty, doanh nghiệp. Bộ kế hoạch đầu tư cũng
cần phải đưa ra các phương hướng, kế hoạch, chính sách vào các công trình
tôn tạo, bảo tồn, xây dựng các khu du lịch và các khu vực có tiềm năng du
lịch.
Quảng Ninh là một tỉnh ven biển, có các cửa khẩu quốc tế và nhiều
điểm tham quan du lịch nổi tiếng, đây cũng là vùng có địa hình độc đáo, kỳ
vĩ với hơn 2.000 đảo nằm trải dài trên phạm vi 250km bờ biển, chiếm 2/3 số
2
đảo của cả nước, đặc biệt là vùng vịnh Hạ Long và Bái Tử Long đã được
UNESCO hai lần công nhận là di sản thiên nhiên thế giới. Với mục tiêu đưa
Quảng Ninh trở thành trung tâm du lịch lớn, hiện đại trong nước và khu vực,
những năm gần đây, cùng với các nguồn vốn của Tỉnh và nguồn vốn tự có
của các doanh nghiệp, các ngân hàng đã không ngừng mở rộng đầu tư vốn,
từng bước làm thay đổi diện mạo cơ sở hạ tầng, nâng cao chất lượng dịch vụ
tạo điều kiện thuận lợi mở ra triển vọng phát triển to lớn cho ngành công
nghiệp “không khói” của Quảng Ninh.
Vốn tín dụng đã tập trung đầu tư vào cơ sở hạ tầng như khu Biệt thự
Tuần Châu; khu du lịch Bãi Dài và các khu trung tâm thương mại tại khu
vực Bãi Cháy, cửa khẩu Móng Cái; xây mới, nâng cấp lắp đặt các thiết bị
cho các khách sạn, nhà nghỉ và đóng mới tàu du lịch... đồng thời đầu tư hỗ
trợ cho các dự án lớn, đối tượng chủ yếu các chủ đầu tư tại địa phương hoặc
các cá nhân vay vốn để nâng cấp khách sạn nhà nghỉ, hoặc đóng tàu chở
khách du lịch. Các dự án lớn mang tầm cỡ quốc gia như cáp treo Yên Tử;
khu du lịch Tuần Châu; Hoàng Gia và các khách sạn đầu tư xây dựng mới
mang tầm cỡ quốc tế. Tuy nhiên thực tế cho thấy, tỷ trọng vốn tín dụng đầu
tư cho ngành du lịch còn rất thấp, tăng trưởng không đều mấy năm gần đây
chiếm bình quân trên dưới 16 %/tổng dư nợ.
Nhắc tới kinh doanh du lịch, ta không thể không nhắc tới việc kinh
doanh khách sạn, nhà hàng. Đây là nơi đón tiếp, phục vụ việc lưu trú, ăn
uống, vui chơi, giải trí, bán hàng cho khách du lịch. Chất lượng tour tốt hay
không tốt là do các dịch vụ trong kinh doanh khách sạn, nhà hàng quyết
định. Các nhà hàng cần phải đảm bảo vệ sinh thực phẩm và nâng cao chất
lượng món ăn thêm ngon, hấp dẫn, đặc biệt là các món đặc sản của các địa
phương, các vùng miền, nhằm quảng bá ẩm thực Việt Nam tới du khách.
Trong vài năm trở lại đây, kinh doanh khách sạn ở Hà Nội và TP Hồ
Chí Minh đã gặt hái được những “ quả ngọt” với công suất cao do lượng
khách quốc tế và lượng khách nội địa ngày càng tăng. Theo ông Thân Hải
3
Thanh, về lâu dài, cả Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh đều cần phải xây thêm
khách sạn thì mới có thể đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng của khách du
lịch. Việc Việt Nam gia nhập WTO có tác động mạnh mẽ đến kinh doanh
khách sạn ở hai thành phố lớn trên hai mặt: Thứ nhất, đối tượng khách đến
tìm hiểu cơ hỏi kinh doanh và đầu tư sẽ tăng lên; thứ hai, các hãng lữ hành
quốc tế hoạt động chuyên nghiệp sẽ vào theo lộ trình mở cửa, từ đó, họ sẽ
mang thêm nhiều khách du lịch vào Việt Nam.
Cơ hội vẫn còn mở rộng đối với việc đầu tư xây mới khách sạn cao
cấp ở TP. Hồ Chí Minh vì đa số các khách sạn trên địa bàn hiện nay rất nhỏ,
không đáp ứng được nhu cầu của khách đoàn. Trong khi đó, khách du lịch
quốc tế đều muốn đặt phòng đạt tiêu chuẩn từ 4-5 sao. Tuy nhiên, không
phải khách du lịch nào cũng đủ tiền ở khách sạn 5 sao, vì thế cần xây dựng
thêm nhiều khách sạn 4 sao.
Dự kiến tới năm 2010, Hà Nội sẽ đón khoảng 2triệu lượt khách du
lịch quốc tế và khi đó cần khoảng 7.000 phòng tiêu chuẩn 4-5 sao. Thế
nhưng các dự án mới được cấp phéo và chấp thuận đầu tư gần đây, đến năm
2010, Hà Nội mới có khoảng 2.000 phòng khách sạn cao cấp. Hiện nay, với
nhiều chính sách ưu đãi đầu tư, Hà Nội đang đón nhận nhiều dự án xây dựng
khách sạn cao cấp với quy mô khá lớn. Chẳng hạn như Tập đoàn Accor
(Pháp) vừa chính thức khởi công khách sạn thứ 5 của mình tại Hà Nội là
Novotel Hanoi on the Park, nơi được xem là “ khu resort trong lòng thành
phố” và là điểm tổ chức hội nghị hàng đầu tại Hà Nội. Hay hàng loạt dự án
4
lớn tập trung chủ yếu quanh khu Trung tâm Hội nghị Quốc gia, trên đường
Phạm Hùng, Mỹ Đình của các nhà đầu tư Hàn Quốc, Nhật Bản. Do vậy, việc
này được dự đoán rằng sẽ thu hút khách du lịch tới Hà Nội trong các năm
tới.
Hiện nay, trong tìn hình nền kinh tế đang gặp khủng hoảng, lạm phát
cao, nhiều người dân quyết định cắt bỏ chi tiêu cho đi du lịch. Do vậy, thực
hiện chương trình hành động của ngành du lịch nhằm tăng cường thu hút
khách quốc tế và thúc đẩy du lịch nội địa, sáng ngày 7/2/2009, tại TP.HCM
đã diễn ra hội nghị “ Thực trạng kinh doanh khách sạn và các giải pháp cấp
bách nhằm tăng cường thu hút khách”. Giải pháp cấp bách mà Vụ Khách sạn
đưa ra là: giảm giá phòng để thu hút khách, vấn đề này các cơ sở lưu trú du
lịch cần tham khảo kinh nghiệm và mặt bằng giá phòng của các nước lân cận
để xây dựng giá phòng, giá dịch vụ hợp lý so với các nước trong khu vực và
đảm bảo giữ được chất lượng tương xứng với thứ hạng được công nhận.
Việc giảm giá một cách linh hoạt trong tình hình hiện nay nhằm kích cầu du
lịch cũng là biện pháp cần thiết để thúc đẩy ngành Du lịch thoát khỏi tình
trạng khủng hoảng. Bên cạnh đó, tiếp tục các chiến dịch khuyến mãi nhằm
thu hút khách đến lưu trú tại cở sở, trong đó có ưu đãi đối với khách đi theo
tour. Đặc biệt cần đẩy mạnh xúc tiến, quảng bá trong và ngòai nước, cần chú
trọng tới thị trường truyền thống và thị trường tiềm năng của bản thân cơ sở
lưu trú.
Ngành giao thông vận tải, lưu chuyển khách cũng đóng vai trò quan
trọng trong phát triển ngành kinh tế du lịch, bởi nếu các công ty lữ hành
càng đảm bảo an toàn cho du khách, rút ngắn thời gian đi lại, tăng các điểm
đến du lịch bấy nhiêu thì càng có khả năng hấp dẫn người dân đi du lịch bấy
nhiêu. Để kích cầu du lịch, các hãng du lịch cũng đã “ gõ cửa” ngành đường
sắt hình thành nên các tuyến du lịch bằng các toa tàu chất lượng cao trên
tuyến Hà Nội – Sa Pa và TP. HCM – Nha Trang, Bình Thuận. Bên cạnh đó là
các hãng hàng không bắt tay với du lịch để tạo ra những sản phẩm du lịch
mới, giá tour giảm, chất lượng dịch vụ tăng hơn. Ví dụ như cả hai hãng
hàng không Vietnam Airlines và Pacific Airline đều kết hợp với các công ty
du lịch mở thêm những tour du lịch mới độc đáo, giá lại giảm so với trước.
Vấn đề an toàn cho khách tham quan không chỉ do các công ty vận tải
khách mà còn do cả các công ty bảo hiểm, y tế, an ninh chịu trách nhiệm.
Một địa điểm du lịch tốt quan trọng nhất phải đảm bảo tình hình chính trị ổn
định, an ninh tốt, không có các dịch bệnh hay đại dịch nguy hiểm. Do vậy
các cơ quan y tế cần phải đảm bảo vệ sinh môi trường, đặc biệt là vệ sinh
thực phẩm, nếu có dịch bệnh cần khoanh vùng, không để lây lan bệnh sang
các vùng khác nhằm ảnh hưởng tới du lịch của địa phương đó. Ngòai ra, các
cơ quan y tế cũng cần phải kiểm tra kỹ lưỡng nhằm đảm bảo an toàn cho
khách du lịch, tránh việc mang các bệnh, dịch bệnh dễ lây lan, truyền nhiễm
5
của hành khách vào khu du lịch. Các cơ quan an ninh, chính quyền địa
phương cũng cần giữ an ninh trật tự, ngăn chặn các cuộc bạo loạn, khủng bố
ở các khu du lịch, hay những hiện tượng quậy phá cho khách khi đi trên
đường và vui chơi trong các khu du lịch, đồng thời cũng phải có các biện
pháp để tránh việc các thành phần khủng bố trà trộn vào khách du lịch gây
mất ổn định, an ninh trật tự. Các cơ quan an ninh chức trách cũng là người
tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho người dân, trước mỗi mùa du lịch, các
cơ quan an ninh cũng cần phải rà soát để nắm các đối tượng cần phải quản
lý, nhắc nhở. Các công ty lữ hành cũng cần phải mua bảo hiểm cho khách,
đặc biệt là khách quốc tế để đề phòng các trường hợp xấu có thể xảy ra như:
tử vong, tai nạn, phát sinh các chi phí y tế liên quan đến việc điều trị cho
khách du lịch trong thời gian khách đi du lịch. Bảo hiểm y tế du lịch cho
người nước ngoài vào Việt Nam của Bảo Việt đã làm du khách nước ngòai
cảm thấy yên tâm hơn khi du lịch ở Việt Nam. Những người nước ngòai có
độ tuổi đến 75 vào Việt Nam với mục đích du lịch, thăm thân, kinh doanh,
học tập, tham dự hội thảo, hội nghị quốc tế… trong thời gian tối đa
180ngày/chuyến tại Việt Nam, người nước ngòai đang công tác tại Việt Nam
đi du lịch, công tác trong lãnh thổ Việt Nam được xách định là những khách
hàng tiềm năng tham gia bảo hiểm này.
Nhiều công ty du lịch và lữ hành trong nước còn ít biết về hoạt động
bảo hiểm. Các quy tắc và điều khỏan bảo hiểm cho người nước ngòai vào
Việt Nam còn hạn chế về quyền lợi bảo hiểm, phạm vi bảo hiểm và mức số
tiền bảo hiểm. Các công ty lữ hành trong nước chỉ đơn thuần là đơn vị lấy
khách từ các tour do các công ty lữ hành ở nước ngòai tổ chức mà không
phải là đơn vị độc lập tổ chức du lịch vì vậy trách nhiệm, quyền hạn về
quyết định mua bảo hiểm cho đoàn tour của các công ty lữ hành trong nước
bị hạn chế và phụ thuộc và công ty lữ hành, du lịch nước ngòai.
2. TÍNH LIÊN VÙNG TRONG KINH TẾ DU LỊCH:
Sự phụ thuộc, lan toả về du lịch giữa các nước trong cùng khu vực,
giữa các địa phương trong vùng là một tất yếu.Trong những năm qua, dưới
sự chỉ đạo của Tổng cục Du lịch Việt Nam, công tác liên kết, hợp tác giữa
các địa phương trong xây dựng sản phẩm liên vùng và xúc tiến quảng bá đã
được các ngành, các cấp, địa phương quan tâm thúc đẩy, đặc biệt là ở Đà
Nẵng , Thừa Thiên Huế và Quảng Nam.
Để tăng cường công tác xúc tiến quảng bá hình ảnh, tiềm năng thế
mạnh của du lịch miền Trung nói chung, tại thành phố Đà Nẵng, ba sở Du
lịch Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam, Đà Nẵng đã ký biên bản hợp tác liên
kết phát triển du lịch. Mở đầu là việc ba địa phương đã có những hành động
hưởng ứng chuỗi sự kiện: “Đà Nẵng biển gọi”, “Hành trình Di sản”- Quảng
6
Nam, “Lăng cô huyền thoại biển”- Thừa Thiên Huế; đồng thời ngành du lịch
ba địa phương đã phối hợp tổ chức Roadshow tại thủ đô Băng cốc - Thái
Lan vào cuối tháng 7 năm 2007. Thông qua các hoạt động chung của ngành
du lịch ba địa phương và sự hỗ trợ, phối hợp chặt chẽ qua các chương trình
lễ hội, xây dựng sản phẩm du lịch; ... Du lịch Thừa Thiên - Huế, Đà Nẵng,
Quảng Nam đang nâng dần tính chuyên nghiệp của sự liên kết, hướng tới
việc phát triển du lịch một cách bền vững.
"Trong xu thế phát triển chung, du lịch Đà Nẵng trong năm 2007 đã
có bước tiến vượt bậc: là năm đầu tiên du lịch thành phố đạt ngưỡng một
triệu khách du lịch, với doanh thu 606 tỷ đồng tăng 39% so với năm 2006...
Kết quả trên là do thành phố Đà Nẵng đã có sự khởi động mạnh mẽ các dự
án đầu tư du lịch, nâng cao chất lượng dịch vụ, cải thiện đáng kể môi trường
du lịch, đồng thời đẩy mạnh công tác xúc tiến du lịch, đổi mới việc tổ chức
các sự kiện du lịch để tạo sức thu hút khách.
Ngành du lịch Đà Nẵng xác định 2008 là năm “Sản phẩm và môi
trường Du lịch”. Đây là bước đệm để Đà Nẵng xây dựng môi trường du lịch,
đồng thời đa dạng hoá sản phẩm, xác định thế mạnh của du lịch Đà Nẵng
trong mối liên hệ với Huế, Quảng Nam. Đà Nẵng có sự mệnh to lớn trong
việc tiếp tục duy trì con đường di sản miền Trung và nối dài tới không gian
văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên. Hơn thế nữa, chủ động kết nối du lịch
miền Trung - Tây Nguyên với những điểm đến nổi tiếng của ba nước Đông
Dương và tuyến Hành lang Kinh tế Đông Tây sẽ mở ra những vận hội mới
cho du lịch trong vùng. Hội nhập và liên kết đang là một xu thế tất yếu, và
du lịch Đà Nẵng quyết không đứng ngoài mà sẽ đóng góp sinh động vào tiến
trình này."
(Ông Ngô Quang Vinh - Giám đốc Sở Du lịch Đà Nẵng)
"Ngành du lịch Quảng Nam luôn quan tâm đến sự liên kết vùng, xem
đó là một trong những giải pháp phát triển của chính mình. Vấn đề đặt ra là
phối hợp như thế nào để đạt hiệu quả và tiếp cận thị trường tốt hơn. Phối
hợp đón các đoàn Famtrip, và kết hợp tổ chức các hoạt động xúc tiến tại các
thị trường nước ngoài (Hàn Quốc, Nga) đang là định hướng chung của ba
địa phương. Trong các hoạt động này, ba Sở Du lịch sẽ cùng phát hành một
số ấn phẩm chung về du lịch như sách hướng dẫn, bản đồ, brochure ... Đồng
thời, các Sở sẽ tăng cường phối hợp trong việc tổ chức các sự kiện du lịch để
tránh trùng lặp về thời gian, hỗ trợ nhau trong công tác tổ chức và quảng bá
cho các sự kiện du lịch ở mỗi địa phương một cách thiết thực; tạo điều kiện
cho các công ty lữ hành trong việc đặt văn phòng, chi nhánh, vận chuyển
khách trên địa bàn của mình.
Với tốc độ đầu tư các khu du lịch hiện nay ở Quảng Nam, Đà Nẵng
và Huế thì vấn đề hạ tầng là rất bức thiết. Do đó, du lịch miền Trung luôn
7
quan tâm đến việc nâng cấp sân bay và mở nhiều tuyến đường bay quốc tế
đến Đà Nẵng, nâng cấp hệ thống hạ tầng giao thông đường thuỷ phục vụ du
lịch của ba địa phương. Cần có nhiều chương trình quảng bá, xúc tiến du
lịch tổng thế của 3 địa phương nói riêng, của miền Trung và cả nước nói
chung tại các thị trường trọng điểm."
(Ông Đinh Hài - Giám đốc Sở Du lịch Quảng Nam)
"Du lịch Thừa Thiên - Huế từ lâu đã là một điểm dừng chân quan
trọng trong các chương trình du lịch đòi hỏi sự liên kết chặt chẽ giữa các địa
phương Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam. Đặc biệt, khai thông con
đường Xuyên Á trên tuyến hành lang Đông Tây, các chương trình du lịch
“Ba quốc gia - Một điểm đến”; “Một ngày ăn cơm ba nước”,... là những
minh chứng cho thành quả của việc liên kết, hợp tác xây dựng sản phẩm và
xúc tiến quảng bá cho ngành du lịch ba địa phương.
Vừa qua, thành phố Huế được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án
xây dựng trở thành thành phố Festival của Việt Nam. Theo đó, thành phố sẽ
tổ chức chuyên nghiệp Festival 2 năm một lần. Đây là điều kiện phát huy vai
trò to lớn của sự liên kết nhằm khai thác tiềm năng phát triển du lịch của cả
ba địa phương. Sự liên kết sẽ hướng tới những mục tiêu chủ yếu như: Đẩy
mạnh công tác hợp tác quản lý chất lượng sản phẩm ...; xây dựng các thương
hiệu sản phẩm liên vùng, miền ...; phối hợp tổ chức các hoạt động chung ...;
khai thác các loại hình sản phẩm du lịch lễ hội, sự kiện...
Từ những kết quả đạt được trong thời gian qua, ngành du lịch ba địa
phương đang cùng nhau tháo gỡ những rào cản, đề ra những biện pháp hữu
hiệu trong liên kết giữa các địa phương trên Hành lang Kinh tế Đông Tây
đặc biệt là trong xây dựng sản phẩm và xúc tiến quảng bá điểm đến trong
quá trình hội nhập và phát triển."
(Ông Nguyễn Quốc Thành - Phó Giám đốc Sở Du lịch Thừa Thiên - Huế)
Với tiềm năng du lịch phong phú của Huế, Đà Nẵng và Quảng Nam;
sự quan tâm của lãnh đạo Chính quyền, Tổng cục Du lịch, Bộ Văn hoá, Thể
Thao và Du lịch, sự quyết tâm của toàn ngành du lịch của 3 địa phương,
chúng ta tin tưởng hoạt động liên kết hợp tác phát triển du lịch của 3 địa
phương nói riêng và miền Trung nói chung trong thời gian tới sẽ đem lại
những thành quả tốt đẹp cho ng ành kinh tế du lịch của Việt Nam.
Do vậy, có thể nói rằng kinh tế du lịch là ngành kinh tế tổng hợp,
mang tính liên ngành, liên vùng, phức tạp, để phát triển bền vững ngành du
lịch, ta cần phải hiểu rõ mối quan hệ của nó với các ngành khác và đối với
ngành kinh tế nói chung, từ đó mới có thể đưa ra được các chính sách,
đường lối đúng đắn để phát triển du lịch.
8
PHẦN III: TẦM QUAN TRỌNG CỦA LIÊN KẾT NGÀNH, VÙNG
TRONG NGÀNH KINH TẾ DU LỊCH, LỮ HÀNH
Trong lĩnh vực lữ hành, để thu hút khách du lịch nhiều hơn, việc tăng
cường khả năng liên kết ngành, vùng, nhất là trong lĩnh vực du lịch ngày
càng trở thành nhu cầu cấp thiết đối với sự phát triển của Du lịch Việt Nam
trong thời kỳ mới.
Với sự hợp tác giữa ngành du lịch với các bộ, ban ngành khác đồng
thời sự liên kết chặt chẽ, tránh sự trùng lặp về sản phẩm du lịch ở các địa
phương đã giúp cho sản phẩm, dịch vụ du lịch của Việt Nam đáp ứng ngày
càng tốt hơn nhu cầu ngày càng cao của du khách.
Trên thực tế, chúng ta đều thấy rằng những trung tâm du lịch lớn như
Hà Nội hay TP.Hồ Chí Minh có rất nhiều lợi thế về các cơ sở lưu trú cao
cấp, trong khi các tỉnh phụ cận lại có thể mở rộng các khu nghỉ dưỡng vì vậy
việc liên kết giữa các địa phương là một tất yếu khách quan nhằm khai thác
thế mạnh của các bên. Ở khu vực phía Nam, TP. Hồ Chí Minh và các tỉnh
Đồng bằng Sông Cửu Long, các tỉnh Tây Nguyên đang triển khai sự liên kết
khá tốt. Ở khu vực phía Bắc, Hà Nội – Hà Tây - Hải Phòng - Quảng Ninh ...
cũng vậy. Ngoài việc liên kết giữa các trung tâm du lịch lớn với các địa
phương khác, các địa phương, các điểm du lịch cũng cần tăng cường hoạt
động này.
Dưới sự chủ trì của Tổng cục Du lịch trong thời gian vừa qua, một
loạt địa phương trong cả nước đã tiến hành khảo sát và đánh giá lại tiềm
năng, chất lượng du lịch. Gần đây nhất là vào trung tuần tháng 8, Tổng cục
Du lịch đã tổ chức đoàn khảo sát điều kiện thực tế và chất lượng dịch vụ tại
7 tỉnh Nam Trung Bộ và Tây Nguyên đồng thời tổ chức các cuộc hội thảo tại
khu vực này. Trên cơ sở đó, nhiều ý tưởng cho việc mở các tour, tuyến mới
được hình thành, nhiều biện pháp được đề xuất nhằm phát triển du lịch theo
hướng liên kết vùng, tránh sự trùng lặp các sản phẩm du lịch và phát hiện,
xây dựng thêm các sản phẩm du lịch mới có chất lượng cao. Những cố gắng
tìm tòi đó giúp cho việc tổ chức khai thác tiềm năng du lịch của các địa
phương ngày càng hiệu quả. Cũng từ những kết quả này, các nhà đầu tư có
hướng để tập trung đầu tư, nâng cao chất lượng của các điểm đến. Nó cũng
tạo ra sự đa dạng trong việc tổ chức các tour du lịch của các công ty lữ hành.
Từ quá trình triển khai khảo sát này, một vấn đề được chú ý chính là làm thế
nào để tìm ra những thế mạnh đặc trưng của từng cơ sở để tập trung khai
thác du lịch theo chiều sâu và tạo "thương hiệu" du lịch cho địa phương.
Trong việc phát triển du lịch biển là một ví dụ. Mỗi địa phương nên chọn
chủ đề mà mình có lợi thế nhất ví dụ như Vũng Tàu có thể phát triển mô
hình du lịch biển kết hợp các môn thể thao, văn hóa giải trí...; Phú Quốc trở
thành tuyến điểm du lịch biển nghỉ dưỡng cao cấp; Nha Trang, Phan Thiết
9
du lịch biển kết hợp mua sắm, hội nghị, hội thảo; Quảng Nam, Đà Nẵng, Hội
An, Ninh Thuận thích hợp mô hình du lịch biển kết hợp tìm hiểu lịch sử, văn
hóa truyền thống Việt Nam khi có điểm nhấn là các Di sản thế giới và các
nền văn hóa Sa Huỳnh, Champa độc đáo… Chính điều này, sẽ giúp cho hoạt
động lữ hành dễ dàng xây dựng tour hơn và đáp ứng nhu cầu về chất lượng
của du khách tốt hơn.
Sự liên kết ấy không chỉ bó hẹp trong phạm vi quốc gia, mà còn là sự
liên kết quốc tế. Chúng ta nhận thấy rõ nhất trong thời gian gần đây là tại
khu vực miền Trung với việc tăng cường hợp tác, hướng tới sự phát triển lâu
dài, bền vững của ngành du lịch 3 nước Đông Dương. Đây cũng là nội dung
chính của Hội thảo quốc tế về “Hợp tác phát triển du lịch giữa các di sản văn
hóa thế giới: Hội An - Mỹ Sơn - Huế - Không gian văn hóa cồng chiêng Tây
Nguyên - Watphou - Luang Phrabang - Ăngkor”, tổ chức tại Hội An sáng
28/6/2007, trong khuôn khổ chương trình Lễ hội “Quảng Nam: Hành trình di
sản” lần thứ 3-2007.
Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp. Nó đòi hỏi phải có sự liên kết
với nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác. Bên cạnh việc liên kết theo lãnh thổ,
sự hợp tác giữa ngành Du lịch với các Bộ, Ban, ngành hữu quan khác cũng
cần được quan tâm. Việc kết hợp chặt chẽ với ngành Hàng không trong thời
gian vừa qua, đã đem lại lợi nhuận lớn cho cả hai lĩnh vực. Việc đưa ra các
chương trình giảm giá vé, tổ chức tour mới, mở thêm các đường bay, tăng
tần xuất chuyến bay đồng thời liên kết với nhiều doanh nghiệp du lịch,
ngành Hàng không đang tạo điều kiện thuận lợi nhất thu hút khách trong và
ngoài nước đi du lịch. Tháng 8 cũng là tháng cuối kỳ du lịch hè, mưa nhiều
do ảnh hưởng của cơn bão số 2, số 3 nhưng so với các năm trước, hoạt động
du lịch năm nay đã có sự khác biệt, dần thu hẹp tính mùa vụ, lượng khách du
lịch quốc tế vẫn tăng lên đáng kể. Hà Nội đón được 114.000 lượt khách du
lịch quốc tế trong tháng vừa qua, tăng 2,7% so với cùng kỳ; TP.Hồ Chí Minh
đón 210.000 lượt khách, tăng 18% so với cùng kỳ; Hải Phòng đón được
59.000 lượt khách; Khánh Hoà đón 26.000 lượt khách...
Để hoạt động lữ hành được triển khai có hiệu quả, ngoài việc liên kết
chặt chẽ với ngành giao thông, một số ngành khác cũng cần được ngành du
lịch đặc biệt quan tâm là văn hóa, bảo hiểm, y tế, giáo dục, quốc phòng... Và
việc phối hợp giữa các ngành muốn đạt hiệu quả cao, cần phải xây dựng hệ
thống văn bản quy phạm pháp luật cụ thể, hợp lý và chặt chẽ.
10
PHẦN IV: HƯỚNG GIẢI QUYẾT ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH
TẾ DU LỊCH
Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đã đặt ra mục tiêu “Từng bước
đưa nước ta trở thành một trung tâm du lịch có tầm cỡ trong khu vực. Phấn
đấu sau năm 2010 du lịch Việt Nam được xếp vào nhóm quốc gia có ngành
du lịch phát triển trong khu vực”. Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm
2006-2010 cũng xác định mục tiêu sau năm 2010 du lịch Việt Nam được xếp
vào nhóm quốc gia có ngành du lịch phát triển trong khu vực; Phát triển
nhanh dịch vụ du lịch chất lượng cao; Đảm bảo quan hệ hài hoà giữa phát
triển du lịch và quản lý bền vững tài nguyên thiên nhiên, môi trường và văn
hoá.
Thực tế cho thấy, những nhân tố cơ bản thúc đẩy sự phát triển của
ngành du lịch bao gồm tạo điều kiện thuận lợi cho sự di chuyển của khách
du lịch đến hoặc trong phạm vi đất nước, xúc tiến du lịch ở nước ngoài,
khuyến khích sự tham gia của khu vực tư nhân, cải tiến quản lý nhà nước đối
với các hoạt động du lịch, đồng thời nâng cao nguồn nhân lực trong ngành.
Để đạt được các mục tiêu đề ra, chúng ta cần tập trung các giải pháp như
sau:
1. Nhanh chóng hoàn thiện cơ chế chính sách về du lịch, đặc biệt là
các văn bản hướng dẫn Luật Du lịch làm cơ sở cho công tác điều hành, quản
lý nhà nước, cũng như trong hoạt động kinh doanh của chính các doanh
nghiệp.
Tổng cục Du lịch chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương,
hiệp hội và doanh nghiệp (kể cả doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài) rà soát các quy định có liên quan đến đầu tư, xúc
tiến, quảng bá du lịch, đào tạo nguồn nhân lực, cơ chế liên kết, phối hợp
giữa các ngành, các cấp và các doanh nghiệp… để tìm ra các quy định bất
hợp lý làm cản trở sự phát triển của ngành và đề xuất hướng sửa đổi, bổ
sung, đồng thời kiến nghị Ban chỉ đạo Nhà nước về du lịch xem xét, xử lý
kịp thời.
2. Về công tác xúc tiến, quảng bá du lịch:
- Sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến cơ chế tài chính cho hoạt
động xúc tiến, quảng bá du lịch.
- Có chế tài huy động vốn nhiều hơn nữa từ doanh nghiệp cho quảng bá,
xúc tiến du lịch.
- Gắn công tác xúc tiến, quảng bá du lịch với xúc tiến đầu tư thương mại.
3. Một trong những chính sách quan trọng nhất cần tính đến là đào
tạo và phát triển nguồn nhân lực, bao gồm cả về quản lý, kỹ năng nghề và
11
giám sát, để ngành có thể đáp ứng được chất lượng dịch vụ du lịch như
mong muốn của khách hàng.
4. Hình thành một số Khu du lịch có “thương hiệu” mang tầm cỡ khu
vực và quốc tế. Hiện nay, Chính phủ đã cho lập quy hoạch các khu du lịch
quốc gia (có thể thuê nước ngoài làm quy hoạch) làm cơ sở để thu hút đầu
tư.
5. Các địa phương cần chấn chỉnh ngay công tác quy hoạch các
ngành liên quan đến phát triển du lịch của địa phương mình, đẩy mạnh công
tác cải thiện cảnh quan môi trường du lịch. Khôi phục làng nghề, lễ hội
truyền thống để tạo thêm nhiều các sản phẩm du lịch hấp dẫn.
6. Ngân sách Trung ương cùng với ngân sách địa phương cần tập
trung bố trí vốn đầu tư nhiều hơn nữa để đầu tư cơ sở hạ tầng du lịch, nâng
cấp các di tích lịch sử – văn hoá nhằm cải thiện đáng kể vấn đề này trong 5
năm tới.
7. Kiến nghị Chính phủ sớm xem xét, thông qua đề án phát triển kinh
doanh Casino tại Việt Nam, nhằm tạo thêm dịch vụ vui chơi giải trí để thu
hút khách du lịch nước ngoài, hình thành những khu du lịch, giải trí tổng
hợp có quy mô lớn, đảm bảo cạnh tranh với các nước trong khu vực và thế
giới.
8. Nhằm khuyến khích phát triển du lịch, các ngành cần nghiên cứu
cơ chế chính sách như giảm chi phí đầu vào, giảm giá, giam thuế… đối với
các dịch vụ phục vụ khách du lịch như nhiều nước đã thực hiện trong thời
gian qua để trình Quốc hội và Chính phủ xem xét, quyết định.
9 Hiệp hội du lịch cần đẩy mạnh các hoạt động của mình để trở thành
người đại diện cho các doanh nghiệp, phản ánh đầy đủ những khó khăn,
vướng mắc trong quá trình phát triển của ngành và hoạt động của doanh
nghiệp, là đầu mối thúc đẩy liên doanh, liên kết giữa các doanh nghiệp.
10. Chú trọng hơn nữa sự phối hợp đồng bộ và hợp tác chặt chẽ với
các ngành kinh tế khác, đặc biệt là những ngành dịch vụ đầu vào hỗ trợ cho
ngành du lịch trong một chiến lược tổng thể phát triển dịch vụ của Việt Nam.
Nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban Chỉ đạo Nhà nước về du lịch để Ban
Chỉ đạo trở thành cầu nối liên kết giữa các Bộ, ngành, địa phương trong việc
phát triển du lịch.
11. Tăng cường hợp tác khu vực và quốc tế: Là một trong những
nước thuộc ASEAN, Việt Nam có điều kiện thực hiện những sáng kiến khu
vực để phát triển thị trường du lịch của mình. Mở cửa thị trường, Việt Nam
sẽ có các cơ hội thu hút vốn, công nghệ và kỹ năng quản lý để phát triển du
lịch. Tuy nhiên, với tư cách là dịch vụ đáp ứng nhu cầu cuối cùng (chứ
không phải là dịch vụ trung gian), du lịch sẽ là lĩnh vực dễ bị tổn thương
trước sự thay đổi của các yếu tố bên ngoài (như khủng bố, thiên tai) nhiều
hơn các dịch vụ khác. Đồng thời, cũng còn một số vấn đề đáng quan tâm
12
khác, đó là: (a) khả năng duy trì và phát triển năng lực cạnh tranh của ngành
để phát triển bền vững và giảm thiểu những tác động tiêu cực; (b) làm thế
nào để nhân rộng những lợi ích của phát triển du lịch tới nhiều người dân
hơn (đặc biệt là những người dân thuộc nhóm nghèo hoặc chịu thiệt thòi
trong xã hội) và phân bổ lợi ích từ ngành du lịch một cách công bằng hơn;
(c) phát triển ngành du lịch theo hướng phục vụ tốt hơn công cuộc xoá đói,
giảm nghèo.
Các cơ hội quốc tế và trong nước sẽ thúc đẩy ngành du lịch phát triển
nhanh chóng và bền vững trong những năm tới. Tuy nhiên, cần lưu ý cải
thiện năng lực cạnh tranh của ngành du lịch Việt Nam bằng cách nâng cao
chất lượng của sản phẩm du lịch và chất lượng đầu vào của các loại dịch vụ
trung gian (như đào tạo, tiếp thị và nghiên cứu thị trường, ICT, dịch vụ
chuyên môn…), hội nhập tốt hơn và nâng cao tính sẵn có của nhiều loại hình
du lịch.
Với vai trò đã được khẳng định của mình trong phát triển kinh tế, xã
hội thời gian vừa qua, chắc chắn phát triển du lịch sẽ tiếp tục là lĩnh vực
được coi trọng trong quá trình nghiên cứu xây dựng chiến lược phát triển
kinh tế – xã hội giai đoạn 2011-2020.
13
KẾT LUẬN
Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp, để phát triển du lịch, việc phối
hợp giữa các ngành hữu quan là hết sức cần thiết và quan trọng. Nhằm tạo
thuận lợi cho du khách quốc tế đến Việt Nam, ngành Du lịch đã phối hợp
chặt chẽ với các Bộ Ngoại giao, Giao thông Vận tải, Tổng cục Hải Quan,
Khách sạn, Công an, Quốc phòng ... Bên cạnh đó, các cơ quan du lịch cũng
cần phải kết hợp các điểm du lịch với nhau để đa dạng hóa tour du lịch, thu
hút đông đảo khách du lịch.
Công tác xúc tiến quảng bá trong và ngoài nước cũng đã và đang được
đẩy mạnh, trong những năm gần đây bước đầu xã hội hoá du lịch và thu hút
du lịch quốc tế. Thông qua việc tham dự các hội chợ du lịch quốc tế, các sự
kiện du lịch quốc tế trong đại gia đình du lịch thế giới và khu vực, bạn bè, du
khách quốc tế đã hiểu rõ hơn về Việt Nam - Một đất nước hoà bình, ổn định,
an toàn và mến khách với những tiềm năng du lịch đa dạng và phong phú.
14
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU....................................................................................................................1
PHẦN I: DU LỊCH LÀ NGÀNH KINH TẾ TỔNG HỢP,.............................................2
1. MỐI QUAN HỆ GIỮA DU LỊCH VÀ CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ PHỤ
TRỢ:...............................................................................................................................2
2. TÍNH LIÊN VÙNG TRONG KINH TẾ DU LỊCH:...............................................6
PHẦN III: TẦM QUAN TRỌNG CỦA LIÊN KẾT NGÀNH, VÙNG TRONG
NGÀNH KINH TẾ DU LỊCH, LỮ HÀNH......................................................................9
PHẦN IV: HƯỚNG GIẢI QUYẾT ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU LỊCH............11
KẾT LUẬN.......................................................................................................................14
15
- Xem thêm -