Mô tả:
GVHD: Cô Trần Thị Hải Lý
Nhóm 4 – TCDN Đêm 4 – K19
1
Vũ Thị Anh Đào
Ngô Thị Kim Oanh
Phan Văn Nhựt
Trương Thị Thanh Nhàn
Trần Thị Hoa Phi
Hồ Lũy Muối
Phạm Thị Quỳnh Nương
Nguyễn Thị Thanh Nhàn
2
1. Giới thiệu chung
2. Phương pháp nghiên cứu và MH nghiên cứu
• Mô hình chéo 2 giai đoạn không có kế thừa
• Mô hình chéo 2 giai đoạn có kế thừa
• Mô hình mở rộng
3. Kết luận
3
Mục tiêu nghiên cứu
Kiểm chứng rằng các nhà đầu tư gây nhiễu phi lý trí
có niềm tin sai lầm đều ảnh hưởng đến giá và tạo lợi
nhuận cao hơn dự kiến.
Tập trung một cách rõ ràng về giới hạn của kinh
doanh chênh lệch giá tới khai thác nhận thức sai lầm
của các nhà đầu tư thiếu thông tin.
Làm sáng tỏ một số sự khác thường của tài chính.
4
Các nghiên cứu liên quan
Figlewski (1979): có thể mất một thời gian rất dài cho các NĐT gây
nhiễu mất phần lớn số tiền của mình nếu các nhà KD chênh lệch giá
phải gánh chịu rủi ro cơ bản chống lại họ.
Shiller (1984), Campbell và Kyle (1987): ác cảm với rủi ro cơ bản có
thể chính nó giới hạn KD chênh lệch giá, ngay cả khi các nhà KD
chênh lệch giá có tầm nhìn vô hạn.
Friedman (1953) và Fama (1965): các nhà đầu tư gây nhiễu thì không
thể ảnh hưởng đến giá quá nhiều và ngay cả khi có thể thì họ sẽ không
làm như vậy trong lâu dài,
5
Phương pháp NC và mô hình NC
Mô hình chéo 2 giai đoạn không kế thừa
Mô hình chéo 2 giai đoạn có kế thừa.
Mô hình chéo mở rộng.
6
Các giả định
Không có giai đoạn tiêu dùng đầu tiên.
Không có quyết định cung ứng lao động
Không có kế thừa
Các đại diện quyết định duy nhất là chọn một danh mục ĐT khi còn trẻ
7
Các đại diện nhà đầu tư tinh vi tối đa hoá hữu dụng:
Các đại diện nhà đầu tư thiếu thông tin tối đa hoá hữu
dụng:
Sự khác biệt duy nhất giữa (4) và (6) là kỳ cuối cùng
của (6), mà nắm được những ngộ nhận thu nhập kỳ
vọng của nhà đầu tư gây nhiễu từ việc nắm giữ λtn
đơn vị tài sản rủi ro.
8
Giải quyết (4) và (6) sản lượng được hiển thị cho việc
nắm giữ (u) của các đại diện:
9
Hàm giá cả:
Phương trình (9) cho thấy rằng giá của các tài sản rủi ro ở
kỳ t là một hàm ngộ nhận của kỳ t bởi những nhà đầu tư
gây nhiễu (pt), của các tham số công nghệ (r) và hành vi (γ)
của mô hình, và của những thời điểm của sự phân phối giá
pt+1 một giai đoạn trước.
10
Hình thức cuối cùng của quy tắc giá cả với (u), trong
đó giá cả chỉ phụ thuộc vào các tham số nội sinh của
mô hình và những thông tin công cộng về hiện tại,
tương lai ngộ nhận bởi những nhà đầu tư gây nhiễu, là:
11
Giải thích: 3 điều khoản sau cho thấy ảnh hưởng của
việc thiếu thông tin NĐT trên giá của tài sản (u)
Điều khoản thứ hai ở (12) thể hiện được sự dao động
giá của tài sản có rủi ro (u) do bởi sự biến thiên ngộ
nhận của các nhà đầu tư gây nhiễu
Điều khoản thứ ba ở (12) thể hiện được độ lệch của
pt từ giá trị cơ bản của nó dựa trên lập luận sự ngộ
nhận trung bình của các nhà đầu tư gây nhiễu không
phải bằng 0
Điều khoản sau cùng ở (12) là điểm chính (trung
tâm) của mô hình. Các nhà đầu tư tinh vi có thể
không giữ tài sản có rủi ro trừ khi bù đắp cho việc
gánh chịu rủi ro mà các nhà đầu tư gây nhiễu sẽ trở
nên bi quan và giá các tài sản rủi ro sẽ giảm
12
Tác giả đưa thêm yếu tố kế thừa bởi mô hình hai giai
đoạn phần 1 không cho phép kiểm tra sự tích lũy của
cải của nhà đầu tư gây nhiễu
Các nhà đầu tư kế thừa là những thành viên trong gia đình,
một hình ảnh có liên quan của một nhà đầu tư mới tham
gia thị trường như một quỹ hưu trí tìm kiếm một người
quản lý tiền mới.
13
Phương pháp tiếp cận
Phương pháp đầu tiên là định đề mà nhà đầu tư mới
chỉ đáp trả lại gần đây đạt được chiến lược đầu tư
khác nhau, và không thể đánh giá chính xác nguy
cơ thực hiện. Tác giả chỉ ra rằng nhà đầu tư gây
nhiễu có hiệu ứng về giá không chắc chắn giảm
theo thời gian.
Phương pháp thứ hai của tác giả, các nhà đầu tư mới
lựa chọn chiến lược đầu tư của họ trên cơ sở mức độ
tiện ích gần đây. Tác giả chỉ ra rằng nhà đầu tư gây
nhiễunhất thiết phải giảm theo thời gian
14
Mô hình bắt chước dựa trên lợi nhuận thực hiện mà
không có rủi ro cơ bản: đặt μt là độ nhạy cảm của nhóm nhà
đầu tư gây nhiễu và Rn và Ri là mức lợi nhuận của nhà đầu tư
gây nhiễu và nhà đầu tư tinh vi, chúng ta giả định rằng:
Với ζ là tỷ lệ mà mỗi nhà đầu tư mới tăng thêm khi trở thành nhà đầu tư gây nhiễu cho mỗi đơn vị
lợi nhuận thay đổi
Công thức (20) thành công khi mô phỏng rằng: chiến
lược đầu tư này làm cho những người thay đổi theo nó sẽ
giàu hơn
15
Trong công thức số 12, quy luật xác định giá với một số lượng nhà đầu
tư gây nhiễu không đổi, với μ thay đổi thành μt , giới hạn khi ζ hội tụ ở
mức 0 của quy luật xác định giá cả, mô hình được mô phỏng
Nếu phần của nhà đầu tư gây nhiễu là:
thì μt có khuynh hướng giảm. Nếu μt lớn hơn μ*, nhà đầu tư gây nhiễu sẽ
tạo ra nhiều mức giá rủi ro làm cho các nhà đầu tư tinh vi rất khó khăn để
suy xét những điều chống lại họ. Và số lượng các nhà đầu tư gây nhiễu
cũng kiếm được mức lợi nhuận trung bình nhiều hơn các nhà đầu tư tinh vi
16
Phần mở rộng với rủi ro cơ bản: Mục này mở rộng mô
hình mô phỏng cho trường hợp có rủi ro cơ bản cho phần tài
sản không an toàn. Tài sản yêu cầu sẽ là:
17
Hàm số giá cả nếu có rủi ro cơ bản được chuyển từ (21)
thành:
trong giới hạn khi ζ tiến về zero.
18
Mệnh đề: Quy luật định giá được đưa ra như (27) và
luật mô phỏng (20). Giả sử rằng phương trình
E{ΔR(μ)} = 0 có ít nhất là một nghiệm trong khoảng
μ Є [0, 1]. Chú ý một dãy chỉ số kinh tế có n biến, sự
khác nhau chỉ là trong giá trị của nó của thông số mô
phỏng ζ n, như là ζ n → 0 khi n → ∞. Ta có δ > 0
như E(μt) → μ≥ δ khi n → ∞, khi đó sự mong đợi
được lấy ra sự phân phối ổn định của μt.
19
Mô phỏng dựa vào tính hữu dụng
Số lượng nhà đầu tư gây nhiễu phụ thuộc vào sự
khác nhau về tính hữu dụng được nhận biết ở kỳ
trước từ các chiến lược của nhà đầu tư tinh vi và
nhà đầu tư gây nhiễu.
Nhà đầu tư tinh vi tối đa hóa tính hữu dụng mong
đợi thực tế, tính hữu dụng nhận biết được của nhà
đầu tư tinh vi bình quân cao hơn tính hữu dụng
nhận biết được của của nhà đầu tư gây nhiễu.
Sự mô phỏng này được dựa trên sự nhận biết về
mục tiêu thực sự của nhà đầu tư.
20
- Xem thêm -