1
Phần 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Ngày nay quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đã giúp
cho tỉnh Thái Nguyên ngày càng một phát triển hơn, một mặt tạo sự phát
triển kinh tế, công ăn việc làm, nâng cao mức sống cho người dân mặt khác
đây cũng là nguy cơ làm giảm chất lượng môi trường. Hiện nay, ô nhiễm
môi trường không còn là xa lạ với chúng ta và nó đã trở thành một vấn đề
của toàn cầu. Nếu chúng ta không có biện pháp bảo vệ môi trường kịp thời
để ngăn chặn phòng ngừa mức độ ô nhiễm môi trường thì sự suy thoái môi
trường là điều không thể tránh khỏi.
Một trong những vấn đề môi trường cấp bách hiện nay ở nước ta đó là
rác thải sinh hoạt, một thách thức lớn đang được xã hội quan tâm.
Nền kinh tế ngày càng phát triển, dân số ngày càng gia tăng dẫn tới nhu cầu
tiêu thụ của con người cũng tăng theo, theo đó lượng rác thải phát sinh cũng ngày
càng nhiều và đặc biệt là rác thải sinh hoạt. Việc bùng nổ rác thải sinh hoạt là
nguyên nhân chính gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng trực tiếp tới sức khoẻ
cộng đồng, con người cũng như làm mất cảnh quan đô thị…
Hiện nay tình trạng rác thải nói chung và rác thải sinh hoạt nói riêng tại
thị trấn Đu - huyện Phú Lương - tỉnh Thái Nguyên chưa có đánh giá một
cách đầy đủ dẫn đến việc thu gom và xử lý cũng như quản lý rác thải gặp
nhiều khó khăn và chưa phù hợp trong công tác bảo vệ môi trường.
Xuất phát từ những yêu cầu thực tế trên và được sự đồng ý của Ban giám
hiệu nhà trường, Ban chủ nhiệm khoa Tài nguyên và Môi trường, dưới sự hướng
dẫn của thầy giáo Th.S Nguyễn Quý Ly, tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Thực
trạng công tác thu gom và biện pháp xử lý rác thải sinh hoạt tại thị trấn Đu
- huyện Phú Lương - tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2009 - T4/2012”.
1.2. Mục tiêu của đề tài
1.2.1 Mục tiêu chung
Mục tiêu bao trùm của đề tài là dựa trên thực trạng công tác thu gom và
quản lý rác thải sinh hoạt trên địa bàn thị trấn Đu - huyện Phú Lương - tỉnh
Thái Nguyên, để từ đó làm cơ sở khoa học và thực tiễn để hướng dẫn cộng
2
đồng khu dân cư có ý thức và thói quen thu gom, phân loại rác tại nguồn
nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Đồng thời đề xuất một số giải pháp
trong công tác quản lý rác thải sinh hoạt phù hợp với điều kiện quản lý môi
trường một cách khoa học và bền vững, góp phần nâng cao chất lượng cuộc
sống người dân.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
- Thực trạng công tác thu gom rác thải sinh hoạt trên địa bàn thị trấn Đu.
- Thực trạng quản lý rác thải sinh hoạt trên địa bàn thị trấn Đu.
- Đề xuất một số biện pháp quản lý rác thải sinh hoạt và xử lý phù hợp
với điều kiện của địa phương.
1.3. Ý nghĩa của đề tài
1.3.1 Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học
- Nâng cao kiến thức, kỹ năng và rút ra những kinh nghiệm thực tế phục
vụ cho công tác sau này.
- Vận dụng và phát huy được tất cả các kiến thức đã học tập và nghiên
cứu.
1.3.2 Ý nghĩa thực tiễn
- Đánh giá được lượng rác thải phát sinh, tình hình thu gom, vận
chuyển và quản lý rác thải sinh hoạt trên địa bàn thị trấn Đu.
- Đề xuất một số biện pháp quản lý xử lý rác thải sinh hoạt.
3
Phần 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Cơ sở khoa học
2.1.1. Các khái niệm liên quan
2.1.1.1. Khái niệm về chất thải
- Chất thải là vật chất ở thể rắn, lỏng, khí được thải ra từ sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ, sinh hoạt hoặc các hoạt động khác. (Luật BVMT, 2005).
Chất thải là sản phẩm được phát sinh trong quá trình sinh hoạt của con
người, sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, thương mại, dịch vụ, giao thông,
sinh hoạt gia đình, trường học, các khu dân cư, nhà hàng, khách sạn. Ngoài
ra còn phát sinh trong giao thông vận tải như khí thải của các phương tiện
giao thông đường bộ, đường thuỷ… (GS.TS. Nguyễn Đình Hương, 2003).
2.1.1.2. Khái niệm về chất thải rắn
Chất thải rắn là chất thải ở thể rắn, được thải ra từ quá trình sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt hoặc các hoạt động khác. Chất thải rắn bao
gồm chất thải thông thường và chất thải rắn nguy hại.
Chất thải rắn phát thải trong sinh hoạt cá nhân, hộ gia đình, nơi công
cộng được gọi chung là chất thải rắn sinh hoạt. Chất thải rắn phát thải từ hoạt
động sản xuất công nghiệp, làng nghề, kinh doanh, dịch vụ hoặc các hoạt
động khác gọi là chất thải rắn công nghiệp.
Chất thải rắn nguy hại là chất thải rắn chứa các chất hoặc hợp chất có
một trong những đặc tính: phóng xạ, dễ cháy, dễ nổ, dễ ăn mòn, dễ lây nhiễm,
gây ngộ độc hoặc các đặc tính nguy hại khác. (Nghị định 59 NĐ-CP).
Phần lớn chất thải ở thể rắn và ở khắp mọi nơi xung quanh ta như gạch,
đá, xi măng, vôi, vữa, giấy, sắt vụn, … Loại chất thải này do các công trường,
nhà máy, hộ gia đình thải ra rất lớn.
Chất thải rắn gồm các chất hữu cơ như: thức ăn thừa, giấy, các tông, nhựa,
vải, cao su, gỗ, xác động thực vật,… và các chất vô cơ như: thuỷ tinh, nhôm, đất
cát, phế liệu, kim loại khác… (GS.TS. Nguyễn Đình Hương, 2003).
4
2.1.1.3. Khái niệm về chất thải rắn sinh hoạt
Chất thải rắn sinh hoạt là những chất thải liên quan đến các hoạt động
của con người, nguồn tạo thành chủ yếu từ các khu dân cư, các cơ quan,
trường học, trung tâm dịch vụ, thương mại.
Rác thải hữu cơ sinh hoạt là những chất thải từ nguyên liệu thực phẩm,
thức ăn thừa, vỏ hoa quả, bánh kẹo, hoa lá trang trí trong nhà đã bị héo... mà
con người không dùng được nữa vứt bỏ vào môi trường sống.
Theo bản tin môi trường chuyên đề (2003) định nghĩa một cách khoa
học thì đó là những thành phần tàn tích hữu cơ của các chất hữu cơ phục vụ
sinh hoạt sống của con người. Chúng không được con người sử dụng nữa và
vứt bỏ trở lại môi trường sống gọi là rác thải hữu cơ sinh hoạt.
2.1.1.4. Nguồn phát sinh và phân loại chất thải rắn
2.1.1.4.1 Nguồn phát sinh chất thải rắn
- Từ sinh hoạt: Phát sinh từ hộ gia đình, các biệt thự và các căn hộ
chung cư. Thành phần chủ yếu bao gồm: thực phẩm dư thừa, bao bì hàng hoá
(bằng giấy, gỗ, carton, plastic, thiếc, nhôm, thuỷ tinh...), đồ dùng điện tử, vật
dụng hư hỏng (đồ gia dụng, bóng đèn, đồ nhựa...), chất thải độc hại như chất
tẩy rửa, bột giặt, chất tẩy trắng, thuốc diệt côn trùng...
- Từ khu thương mại: Thương mại (kho, quán ăn, chợ, văn phòng,
khách sạn, nhà in, trạm xăng dầu, gara…): Giấy, các tông, plastic, gỗ, thức ăn
thừa, thuỷ tinh, kim loại, các loại rác đặc biệt (dầu mỡ, lốp xe,…), các chất
thải độc hại khác…
- Từ khu công sở: Cơ quan (trường học, bệnh viện, các cơ quan hành
chính,…). Thành phần bao gồm: Giấy, các tông, plastic, gỗ, thức ăn thừa,
thuỷ tinh, kim loại... Ngoài ra rác thải y tế phát sinh từ bệnh viện phát sinh từ
hoạt động khám chữa bệnh, điều trị bệnh vì vậy rác y tế trở thành phức tạp nó
bao gồm các loại bệnh phẩm, kim tiêm, trai lọ chứa thuốc...
- Từ hoạt động giao thông: Phát sinh từ các hoạt động xây dựng và tháo
dỡ công trình xây dựng, giao thông vận tải như: nâng cấp mở rộng đường
phố, cao ốc, xây dựng di dời nhà cửa...từ đó sinh ra các loại chất thải như đất,
đá, bê tông, gạch ngói, gỗ, sắt thép...
5
- Từ hoạt động công nghiệp: xây dựng, chế tạo, công nghiệp nhẹ, công
nghiệp nặng, lọc dầu, nhà máy hoá chất, nhà máy điện,…): Chất thải từ các
quá trình công nghiệp, các chất thải không phải từ các quá trình công nghiệp
như thức ăn thừa, tro bã, chất thải xây dựng, các chất thải đặc biệt, các chất
thải độc hại…
- Từ hoạt động nông nghiệp: Phát sinh từ thu hoạch đồng ruộng, vườn,
nông trại… các loại chất thải nông nghiệp gồm rơm rạ, phân từ các gia súc gia
cầm, thức ăn thừa...
2.1.1.4.2 Phân loại chất thải rắn
+ Phân loại chất thải theo nguồn gốc phát sinh.
- Chất thải sinh hoạt: Phát sinh hàng ngày ở đô thị, làng mạc, khu du
lịch, nhà ga, trường học, công viên…
- Chất thải công nghiệp: Phát sinh trong quá trình sản xuất công nghiệp
nặng, công nghiệp nhẹ, chế biến nông sản trước và sau thu hoạch…
+ Phân loại theo trạng thái chất thải
- Chất thải trạng thái rắn: Bao gồm chất thải sinh hoạt, chất thải nhà máy
chế tạo máy, xây dựng (kim loại, da, hoá chất, nhựa, thuỷ tinh, vật liệu xây
dựng..v..v.)
- Chất thải lỏng: Phân bùn bể phốt, nước thải từ nhà máy lọc dầu, rượu
bia, nước thải nhà máy sản xuất giấy và vệ sinh công nghiệp…
Chất thải trạng thái khí: Bao gồm khí thải các động cơ đốt trong, máy
động lực, giao thông, ô tô, máy kéo, tàu hoả, nhà máy nhiệt điện, sản xuất
vật liệu…
+ Phân loại theo tính chất nguy hại
- Vật phẩm nguy hại sinh ra tại các bệnh viện trong quá trình điều trị
người bệnh (các loại vật phẩm gây bệnh thông thường được xử lý ở chế độ
nhiệt cao, từ 1150oC trở lên, cá biệt có loại vi sinh vật gây bệnh bị tiêu diệt
khi nhiệt xử lý lên tới 3000oC…)
- Kim loại nặng: Các chất thải sinh ra trong quá trình sản xuất công
nghiệp có thành phần As, Pb, Hg, Cd… là mầm mống gây bệnh ung thư cho
con người.
6
Các chất phóng xạ, các phế thải có phóng xạ sinh ra qua quá trình xử lý
giống cây trồng, bảo quản, khai khoáng năng lượng… (PGS. Nguyễn Xuân
Nguyên và cs, 2004)
2.1.1.5 Thành phần chất thải rắn
- Chất thải rắn nói chung là một hỗn hợp đồng nhất và phức tạp của
nhiều vật chất khác nhau. Tuỳ theo cách phân loại, mỗi một loại chất thải rắn
có một số thành phần đặc trưng nhất định. Thành phần của chất thải rắn đô thị
là bao quát hơn cả bao gồm các chất thải từ nhiều nguồn gốc khác nhau như
sinh hoạt, công nghiệp, y tế, xây dựng, chăn nuôi, xác chết, rác đường phố...
Thành phần chủ yếu của chất thải rắn như sau:
+ Hỗn hợp có nguồn gốc hữu cơ cao (50,27%-62,22%)
+ Chứa nhiều đất, cát, gạch vỡ...
+ Độ ẩm cao, nhiệt trị thấp (900cal/kg)
2.1.1.6. Hoạt động thu gom, vận chuyển, quản lý, xử lý chất thải rắn
Theo điều 3 Nghị định/2007/NĐ-CP ngày 09/04/2007 về quản lý chất
thải rắn.
- Hoạt động thu gom chất thải rắn: Là hoạt động tập hợp, đóng gói, và
tạm thời lưu giữ chất thải rắn tại nhiều điểm thu gom.
- Vận chuyển chất thải rắn: Là quá trình chuyên chở chất thải rắn từ
nơi phát sinh, thu gom, lưu giữ, đến nơi xử lý, tái chế, tái sử dụng hoặc bãi
chôn lấp.
- Hoạt động quản lý chất thải rắn bao gồm các hoạt động quy hoạch,
quản lý, đầu tư xây dựng bãi xử lý chất thải. Lưu giữ, vận chuyển, tái sử
dụng, tái chế và xử lý chất thải rắn nhằm ngăn ngừa, giảm thiểu các tác động
xấu đến môi trường.
- Xử lý chất thải rắn là quá trình sử dụng các biện pháp công nghệ, kỹ
thuật nhằm làm giảm, loại bỏ tiêu huỷ các thành phần có hại hoặc không có
ích trong chất thải rắn, thu hồi, tái chế, tái sử dụng lại các thành phần có ích.
2.1.1.7. Quản lý rác thải sinh hoạt và xử lý rác thải sinh hoạt
Mô hình quản lý chất thải sinh hoạt tại Việt Nam từ trước đến nay hầu
hết mới chỉ tập trung cho khu vực đô thị.
7
Nguồn phát sinh và thành phần chất thải
Phân loại, lưu trữ, xử lý
chất thải tại nguồn
Thu gom chất thải
Vận chuyển chất thải
Đốt
Làm phân
Compost
Phân loại, tái chế
Chôn
lấp
Không thu gom được
Hình 2.1. Mô hình quản lý chất thải sinh hoạt
2.1.2. Cơ sở pháp lý
- Luật BVMT 2005.
- Căn cứ nghị định số 59/2007/NĐ-CP ngày 09/04/2007 về quản lý chất
thải rắn.
- Căn cứ thông tư số 39/2008/TT-BTC ngày 19/05/2008 về việc hướng
dẫn thực hiện nghị định số 174/1007/NĐ- CP ngày 29/11/2007 của chính phủ
về phí BVMT đối với chất thải rắn.
- Nghị định số 80/2006/NĐ-CP ngày 9/8/2006 của Chính phủ: Quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo vệ Môi trường.
- Nghị định số 81/2006/NĐ-CP ngày 9/8/2006 của Chính phủ về xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Bảo vệ Môi trường.
- Nghị định 21/2008/NĐ-CP ban hành ngày 28/02/2008 của Chính Phủ
về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 80/2006/NĐ-CP ngày
8
09/8/2006 của Chính Phủ về việc quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một
số điều của Luật Bảo vệ Môi trường.
- Nghị định số 121/2004/NĐ-CP ngày 12/5/2004 của Chính phủ: Quyết
định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Bảo vệ Môi trường.
- Nghị định số 175/NĐ-CP ngày 18/10/1994 của Chính phủ: Hướng
dẫn thi hành Luật Bảo vệ Môi trường.
- Chỉ thị số 199-TTg ngày 3/4/1997 của Thủ tướng Chính phủ về những
biện pháp khẩn cấp để quản lý chất thải rắn ở khu công nghiệp và đô thị.
- Chỉ thị số 23/2005/CT-TTg ngày 21/6/2005 của Thủ tướng Chính phủ
về việc đẩy mạnh công tác quản lý CTR tại các đô thị và khu công nghiệp.
- Luật Bảo vệ sức khoẻ cộng đồng, 1991.
- Thông tư số 1350/TT-KCM ngày 2/8/1995 của Bộ Khoa học Công
nghệ và Môi trường: Hướng dẫn thi hành Nghị định số 02-CP ngày 5/1/1995
của Chính phủ về việc buôn bán có điều kiện các hoá chất độc, các chất
phóng xạ, chất thải và bán sản phẩm kim loại và hoá chất nguy hại trong chất
thải tại thị trường trong nước.
- Thông tư số 4527-DTI ngày 8/1/1996 của Bộ Y tế: Những hướng dẫn
về quản lý chất thải rắn của bệnh viện.
- Quy chế quản lý chất thải y tế, Bộ Y tế.
- Thông tư số 2433/TT-KCM ngày 3/10/1996: Hướng dẫn thi hành
Nghị định số 26/CP ngày 26/04/1996 về quy định xử phạt hành chính những
vi phạm Luật Bảo vệ Môi trường.
- Thông tư số 2891/KCM-TM ngày 19/12/1996 của Bộ Khoa học Công
nghệ và Môi trường về quy định tạm thời việc nhập phế liệu.
- Quyết định 23/2006/ QĐ-BTNMT về việc ban hành danh mục chất
thải nguy hại.
- Thông tư số 12/2006/TT-BTNMT: Hướng dẫn điều kiện hành nghề
và lập thủ tục hồ sơ, đăng ký, cấp phép hành nghề, mã số quản lý chất thải
nguy hại.
- Chỉ thị số 36-CT/TW của Ban chấp hành Trung ương về việc tăng
cường BVMT trong giai đoạn công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
- Quy chế quản lý chất thải nguy hại ban hành kèm theo Quyết định số
155/1999/QĐ-TTg ngày 16/7/1999 của Thủ tướng Chính phủ.
9
- TCVN 6696 - 2000 Chất thải rắn - Bãi chôn lấp hợp vệ sinh - yêu cầu
chung về Bảo vệ Môi trường.
- Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-BKHCNMT-BXD hướng dẫn
các quy định về BVMT đối với việc lựa chọn địa điểm xây dựng và vận hành
bãi chôn lấp chất thải rắn.
- Quyết định số 13/2007/QĐ-BXD ngày 23/4/2007 của Bộ xây dựng về
ban hành” Định mức dự toán thu gom, vận chuyển và xử lý chôn lấp rác thải
đô thị”.
2.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài
2.2.1. Hiện trạng quản lý rác thải trên thế giới
2.2.1.1. Tình hình phát sinh, thu gom và phân loại rác thải trên thế giới
Trong vài thập kỷ vừa qua, do sự phát triển của khoa học kỹ thuật dẫn
đến sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế, do sự bùng nổ tăng nhanh dân số, vấn
đề chất thải gây ô nhiễm môi trường sống đã trở thành vấn đề lớn của hầu hết
các nước trên thế giới. (PGS. TS Hoàng Kim Cơ và cs, 1999).
Hiện nay, chất thải rắn đang là một trong những nguyên nhân gây ô
nhiễm môi trường. Chính sự mất vệ sinh, đặc biệt là mùi hôi thối, góp phần
làm ô nhiễm không khí và là nguyên nhân gây ô nhiễm nước mặt cũng như
nước ngầm, gây nguy hại đến sức khoẻ cộng đồng.
Theo Nguyễn Thị Anh Hoa (2006) mức độ đô thị hoá cao thì lượng
chất thải tăng lên theo đầu người, ví dụ ở một số quốc gia hiện nay:
- Canada: 1,7 kg/người/ngày
- Australia: 1,6 kg/người/ngày
- Thụy Sĩ: 1,3 kg/người/ngày
- Thụy Điển: 1,3 kg/người/ngày
- Trung Quốc: 1,3 kg/người/ngày
Nếu tính bình quân một người mỗi ngày đưa vào môi trường xung
quanh 0,5 kg chất thải thì mỗi ngày trên thế giới 6 tỷ người sẽ thải ra khoảng
3 triệu tấn và mỗi năm sẽ có khoảng 1 tỷ tấn rác thải.
Tuỳ theo điều kiện sống, số rác thải bình quân theo đầu người ở mỗi
nước có khác nhau. Ví dụ, Cộng hoà Liên bang Nga là 300 kg/người/năm như
vậy mỗi năm ở CHLB Nga có khoảng 50 triệu tấn rác, Matxcơva mỗi năm
10
thải ra khoảng 3 triệu tấn rác thải sinh hoạt. Ở Pháp điều kiện sống khác hơn,
lượng rác thải bình quân 1 tấn/người/năm và mỗi năm nước Pháp có khoảng
35 triệu tấn rác thải. Ở đây chúng ta mới đề cập đến lượng rác thải ra trong
quá trình sinh hoạt bình thường của con người, chứ chưa nói đến lượng chất
thải rắn trong quá trình sản xuất của các nhà máy chế biến đồ hộp, các loại
nông hải sản, các nhà máy bia, bánh kẹo, hoá chất…
Với sự gia tăng của chất thải rắn thì việc phân loại, thu gom xử lý
chúng là điều đầu tiên mà bất cứ một xã hội nào cũng phải quan tâm tới. Cũng
giống như ở Việt Nam, ở các nước nghèo và các nước đang phát triển thì việc
đầu tư vào việc thu gom đạt hiệu suất chưa cao, chỉ đạt 60 - 70%, thậm chí có
nơi còn thấp hơn. Còn ở các nước phát triển thì việc thu gom đạt hiệu suất
cao, một số quốc gia hầu như lượng chất thải rắn phát thải được thu gom toàn
bộ như ở Mỹ, Thụy Điển,… Quản lý chất thải đô thị là điều quan trọng đầu
tiên và có thể xem xét mức độ quan trọng của nó chẳng hạn như ở Hy Lạp
dành 50% ngân sách để thu gom và xử lý chúng. Ở các nước phát triển việc
phân loại rác thải được tiến hành ngay ở các hộ gia đình, các khu chung cư và
các nơi công cộng theo đặc điểm lý hoá và kích thước của chúng. Ví dụ như
túi đựng riêng thực phẩm, túi đựng riêng cho giấy báo, túi đựng riêng cho
nilon, túi đựng thuỷ tinh,… Ở các nước phát triển kích thước cũng như chất
liệu, màu sắc của thùng rác được chuẩn hoá. Thùng đựng rác gia đình thường
có kích thước nhỏ từ 10 - 20 lít. Hiện nay, các gia đình sử dụng thùng nhựa
bên trong có bao plastic và có nắp đậy chống ruồi nhặng và bốc mùi hôi thối.
Các túi plastic được chuẩn hoá và bán ở các siêu thị rất thuận tiện, thống nhất
trong việc thu gom và phân loại rác. Ví dụ túi màu đen để đựng rác thực
phẩm, túi màu trắng để đựng kim loại, thuỷ tinh,…
Với lượng chất thải hàng ngày lớn như vậy, việc xử lý chất thải sinh hoạt
đã trở thành một ngành công nghiệp thu hút nhiều công ty lớn mà phạm vi hoạt
động của các công ty này có tầm cỡ đa quốc gia. Vấn đề này vừa mang ý nghĩa
vệ sinh, vừa mang ý nghĩa kinh tế: “Kinh nghiệm ở một số nước cho thấy có
trên 90% chai và trên 90% cần được đưa vào sử dụng trung bình từ 15 - 20 lần
và trong quá trình xử lý rác người ta có thể tái chế ra các loại nhiên liệu rắn và
than cốc”. Ví dụ: ở Mỹ có công ty Waste Management Inc đã chiếm lĩnh thị
11
trường Trung Cận Đông, công ty Browning - Feris Inc có cơ sở hoạt động ở rất
nhiều nước trên thế giới. Ở Anh có công ty Attwood PLC, Biffa (BETPLC); ở
Pháp có công ty Cielyonaise des Eaxux,Ciegeneral des Eaux; ở Đức hiện nay
có 500 công ty và rút xuống còn 20 - 30 công ty xử lý rác. Các công ty này
hàng năm có những thu nhập tới hàng trăm triệu đô la Mỹ.
Từ chất thải công nghiệp có thể tạo ra được cồn etilic, các loại vật liệu
xây dựng. “Ở Thụy Sĩ, từ chất thải sinh hoạt và chất thải công nghiệp giấy
người ta đã làm ra ván ép phục vụ xây dựng. Ở Mỹ đã nghiên cứu và ứng
dụng các thiết bị mới phân loại rác và chất thải công nghiệp. Hàng năm trong
134 triệu tấn rác thải của nước này chứa tới 11,3 triệu tấn sắt, 680 ngàn tấn
nhôm, 430 ngàn tấn các loại khác, trên 60 triệu tấn giấy và 13 triệu tấn thuỷ
tinh. Khối lượng rác này đốt thu được lượng nhiệt tương ứng với đốt 20 triệu
tấn dầu mỏ. (PGS. TS. Nguyễn Xuân Nguyên, 2004).
Như vậy, việc sử dụng lại chất thải rắn sinh hoạt là một vấn đề thuộc
chiến lược công nghệ sạch tạo điều kiện cho phát triển bền vững. Vấn đề này
mang ý nghĩa không chỉ vì lợi ích làm sạch bảo vệ môi trường mà còn mang ý
nghĩa về mặt kinh tế rất đáng được lưu tâm và đầu tư cho việc thu gom, phân
loại và xử lý đạt hiệu quả cao hơn.
2.2.1.2 Tình hình xử lý rác thải trên thế giới
- Xã hội càng phát triển thì rác thải càng nhiều và việc xử lý rác càng
trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Xử lý rác thải là một vấn đề tổng hợp cả
về kỹ thuật lẫn kinh tế. Vì vậy, việc nghiên cứu và áp dụng các biện pháp kỹ
thuật công nghệ xử lý chất thải rắn sinh hoạt đang trở thành vấn đề quan tâm
hàng đầu của nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các nước công nghiệp
phát triển.
- Hiện nay, nhiều nước đã nghiên cứu ra nhiều biện pháp tái sử dụng lại
chất thải rắn. Kinh nghiệm ở một số nước cho thấy có trên 90% chai và trên
90% cần được đưa vào sử dụng trung bình từ 15 - 20 lần và trong qua trình xử
lý rác người ta có thể tái chế ra các loại nhiên liệu rắn và than cốc.
- Tuỳ theo điều kiện thực tế mỗi nước mà phương pháp và trình độ
công nghệ xử lý chất thải cũng khác nhau:
12
+ Ở Mỹ: Hàng năm có 15% chất thải rắn được tái chế, khoảng 16%
được thiêu đốt, 67% còn lại được chôn lấp ở 2900 bãi rác. Mỹ đang thực hiện
phương pháp xử lý chất thải rắn thành năng lượng (113 nhà máy đang thực
hiện). Với phương pháp này có thể giảm 70-90% tổng lượng chất thải rắn và
thu hồi nhiệt lượng chuyển thành điện năng.
+ Ở Thụy Điển: Thực hiện chiến lược giảm thiểu lượng chất thải rắn và
tăng cường thu hồi phế liệu cho tái chế (chiếm 25% tổng số chất thải rắn phát
sinh năm 1997), áp dụng công nghệ tiên tiến để phân loại, thu gom, vận
chuyển và xử lý chất thải rắn (phương pháp hút chân không tự động để thu
gom chất thải rắn). Thụy Điển hiện có 282 bãi chôn lấp với tổng số 4,75 triệu
tấn chất thải được chôn lấp. Thụy Điển là một trong số những nước thực hiện
phân loại rác tại nguồn có hiệu quả với sự tham gia tích cực của người dân,
đồng thời xử lý chất thải rắn có hiệu quả.
+ Ở Singapore: Chất thải rắn được thu gom bằng túi nilon đặc biệt và
được phân loại tại nguồn. Đến năm 2011 cả nước có 5 nhà máy đốt rác với
công suất 9.000 tấn/ngày (khoảng 97%, còn 3% chôn lấp đặc biệt ở biển).
Năm 2004, ở Singapore đã xây dựng nhà máy đốt rác thứ 6. Trong quá trình
tiêu huỷ chất thải rắn, nhiệt được thu hồi để chạy máy phát điện.
+ Ở Nhật Bản: Hiện nay Nhật Bản đang sử dụng phương pháp thiêu đốt
chất thải rắn với việc thu hồi năng lượng là chủ yếu (chiếm 72% tổng lượng
chất thải với 1919 xí nghiệp đốt rác hoạt động). Công suất của các xí nghiệp
lớn nhất lên tới 1980 tấn/ngày đêm.
+ Ở Đức: Rất chú trọng đến biện pháp tái sinh chất thải rắn, lượng chất
thải rắn chôn lấp có xu hướng giảm dần (70% năm 1990 chỉ còn lại 46% ở
những năm cuối thế kỷ 20) nguyên nhân chính là do chính phủ quy định công
nghệ chôn lấp phải tiên tiến, bãi chôn lấp chỉ tiếp nhận rác đã qua thiêu huỷ
hoặc xử lý sơ bộ.
- Trong khi đó ở các nước đang phát triển còn phải đối mặt với nhiều
khó khăn về xử lý chất thải. Chủ yếu là thiếu kinh phí, thiếu kinh nghiệm,
thường chỉ chôn lấp chưa đạt tiêu chuẩn. Điều đó đòi hỏi sự nỗ lực của các
chính quyền đô thị và sự quan tâm của nhà nước.
13
Bảng 2.1: Các phương pháp xử lý CTR đô thị ở một số nước
Đơn vị: %
Các phương pháp xử lý (%)
Đốt
Chế biến
Các
TT Tên nước
Không Thu hồi
Chôn lấp
phân
phương
thu năng
năng
Compost
pháp khác
lượng
lượng
1
Đức
46
2
0
36
16 tái chế
2
Đan Mạch
29
4
0
48
19 tái chế
3
Canada
80
2
0
8
10 tái chế
4
Pháp
40
22
0
38
0
5
Ý
74
3
20
0
3 tái chế
6
Hà Lan
45
5
0
51
0
7
Anh
88
1
0
11
0
8
Thụy Điển
35
10
0
55
0
9
Nhật Bản
23
4,2
0
72,8
0
10
Mỹ
67
2
0
16
15 tái chế
(Nguồn: Tạp chí bảo vệ môi trường, 2003 (Nguyễn Đình Hương 2006)
2.2.2. Hiện trạng quản lý rác thải ở Việt Nam
2.2.2.1. Tình hình phát sinh, thu gom và phân loại rác thải Việt Nam
Khoảng hơn chục năm trước đây vấn đề xử lý rác ở nước ta chưa trở
nên bức xúc.
Rác thải thường được đem san lấp ở hồ, ao, nhưng dân số ở các thành
phố ngày một tăng, lượng rác thải ngày càng nhiều. Các hệ thống ao, hồ,
sông, ngòi thoát nước do bị đổ rác san lấp nhiều nên gây úng lụt trong thành
phố. Các bãi chôn lấp phế thải của Hà Nội đều chưa đạt tiêu chuẩn của các bãi
chôn lấp hợp vệ sinh (bãi rác Vạn Phúc, Thủ Lệ, Vạn Điểm, Mễ Trì…). (PGS
TS. Hoàng Kim Cơ, 1999).
Theo Báo cáo diễn biến môi trường ở Việt Nam (2004), hàng năm, Việt
Nam có trên 15 triệu tấn chất thải rắn được phát sinh trong cả nước và theo dự
14
báo thì tổng lượng chất thải rắn phát sinh vẫn tiếp tục tăng nhanh chóng trong
thập kỷ tới đây. Phần lớn lượng rác thải này không được tiêu huỷ an toàn, đó
là một mối nguy cơ đe doạ sức khoẻ cộng đồng và môi trường.
Hiện trạng về chất thải rắn ở đô thị Việt Nam (bao gồm chất thải sinh
hoạt, chất thải công nghiệp và chất thải y tế) giống như tình trạng chất thải rắn
ở đô thị của các nước phát triển trong thời kỳ đầu công nghiệp hoá. Nghĩa là
tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, tốc độ đô thị hoá nhanh tỷ lệ thuận với lượng
chất thải phát sinh từ các hộ gia đình, các cơ sở công nghiệp - thương mại và
các bệnh viện.
Theo Th.S. Phùng Văn Vui (2004), hiện nay trên phạm vi toàn quốc
lượng chất thải sản sinh hàng ngày ước tính 49.314 tấn/ngày, trong đó chất
thải công nghiệp 26.887 tấn/ngày (chiếm 55,5%), chất thải sinh hoạt 21.828
tấn/ngày (chiếm 44,3%), chất thải y tế 609 tấn/ngày (chiếm 1,2%). Ở TP. Hồ
Chí Minh mỗi ngày thải ra 4000 tấn rác sinh hoạt, Hà Nội mỗi ngày thải ra
khoảng 2500m3 rác/ngày. So với các nước trong khu vực và trên thế giới, tổng
lượng CTR của Việt Nam nói trên là không lớn. Vấn đề đáng quan tâm ở đây
là lượng chất thải này, nhất là CTR sinh hoạt và CTR y tế ở hầu hết các địa
phương và thành phố chưa được xử lý hợp vệ sinh trước khi thải ra môi
trường. Tương lai những năm tới lượng rác thải sẽ lớn hơn nhiều trong khi đó
tại Hà Nội có 1 xí nghiệp chế biến rác thải chỉ có thể xử lý được 1/10 lượng
rác thải hàng ngày hiện nay. Các xí nghiệp xử lý rác tại Vũng Tàu, Bà Rịa,
TP. Hồ Chí Minh, Biên Hoà cũng chưa phát huy được tác dụng.
Hiện tại chất thải rắn sinh hoạt chiếm một tỷ lệ lớn trong tổng lượng
chất thải phát sinh, đặc biệt ở các đô thị nó lại đứng đầu, chiếm tỷ trọng lớn
nhất. Xu hướng hiện nay chất thải rắn sinh hoạt phát sinh gia tăng từ 10 - 16%
trong đó lượng chất thải rắn phát sinh trung bình theo đầu người ở các đô thị
nhỏ vào khoảng 0,6 - 0,65 kg/người/ngày đêm, tại các đô thị lớn thì lượng
phát sinh còn lớn hơn nhiều, vào khoảng 0,9 - 1,2 kg/người/ngày đêm.
15
Bảng 2.2: Lượng CTRSH phát sinh ở các đô thị Việt Nam năm 2008
Lượng CTRSH đô thị
Lượng CTRSH bình
phát sinh
STT Loại đô thị
quân trên đầu người
Tấn/ngày
Tấn/năm
(kg/người/ngày)
1
2
3
4
5
Đặc biệt
Loại I
Loại II
Loại III
Loại IV
Tổng
0,84
8.000
2.920.000
0,96
1.885
688.025
0,72
3.433
1.253.045
0,73
3.738
1.364.370
0,65
626
228.490
3.9
17.682
6.453.930
(Nguồn Tổng cục môi trường 2008).
Rác thải sinh hoạt chứa nhiều chất hữu cơ, khi chưa phân huỷ tự nhiên
bốc mùi xú uế gây ô nhiễm môi trường sống. Các bãi tập trung rác không
những là những nơi gây ô nhiễm mà còn là các ổ dịch bệnh, nơi ruồi, muỗi và
các vi sinh vật gây bệnh đồng thời chúng phát triển với tốc độ nhanh chóng,
chính điều này đã ảnh hưởng lớn tới sức khoẻ người dân.
Hiện trạng chất thải rắn công nghiệp cũng đang là vấn đề nhức nhối
trong thời điểm phát triển đất nước hiện nay. Chiếm trên 50% tổng lượng chất
thải rắn phát sinh hàng năm mà hầu như đều không được xử lý an toàn chúng
đang là một nguy cơ đe doạ cuộc sống cộng đồng. Hiện nay, khoảng 80%
trong số 2,6 triệu tấn chất thải công nghiệp phát sinh mỗi năm là từ các trung
tâm công nghiệp lớn ở miền Bắc và miền Nam. Trong đó, 50% lượng chất
thải công nghiệp của Việt Nam phát sinh ở thành phố Hồ Chí Minh và các
tỉnh lân cận, 30% còn lại phát sinh ở vùng đồng bằng sông Hồng và Bắc
Trung Bộ. Thêm vào đó, gần 1500 làng nghề tập trung chủ yếu ở các vùng
nông thôn miền Bắc mỗi năm phát sinh cỡ 774.000 tấn chất thải công nghiệp.
Trong các loại chất thải, chất thải nguy hại (chất thải công nghiệp nguy
hại và chất thải y tế) là mối hiểm hoạ đặc biệt. Nguồn phát sinh chất thải nguy
hại lớn nhất là các cơ sở công nghiệp (với 130.000 tấn/năm) và các bệnh viện
(21.000 tấn/năm). Theo thống kê, lượng chất thải công nghiệp nguy hại phát
sinh từ vùng kinh tế trọng điểm phía Nam chiếm tới 75% tổng lượng chất thải
công nghiệp nguy hại của cả nước. Trong khi đó, lượng chất thải y tế nguy hại
16
phát sinh từ thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Thanh Hoá chiếm 27% tổng
lượng chất thải y tế của cả nước.
Hiệu quả thu gom chất thải rắn ở nước ta còn thấp một phần cũng do
hầu hết các đô thị đều chưa có hệ thống thu gom hoàn thiện. Mặt khác, chất
thải rắn sau khi được thu gom sử dụng vào hoạt động tái chế, tái sử dụng còn
thấp mới chỉ góp phần làm giảm 10 - 12%, lượng phát sinh còn lại là mang đi
chôn lấp hoặc đốt (Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2006). Từ trước đến nay,
phần lớn chất thải của Việt Nam không được tiêu huỷ một cách an toàn. Hình
thức tiêu huỷ chất thải phổ biến vẫn là đổ ở bãi rác lộ thiên và trong số này có
49 bãi rác bị xếp vào số những địa chỉ gây ô nhiễm nghiêm trọng nhất, có khả
năng gây ra những rủi ro đối với môi trường và sức khoẻ con người. Trong số
91 điểm tiêu huỷ chất thải trong cả nước, chỉ có 17 điểm hợp vệ sinh mà chủ
yếu được xây dựng bằng nguồn vốn ODA. Các bãi chôn lấp được vận hành
không đúng kỹ thuật và bãi rác lộ thiên đã gây ra nhiều vấn đề môi trường cho
dân cư quanh vùng như nước rác làm ô nhiễm nguồn nước mặt, nước ngầm,
gây ô nhiễm không khí, là ổ phát sinh ruồi, muỗi, chuột, bọ,… đã làm tăng tỷ
lệ người mắc bệnh về da, hoặc đường tiêu hoá, hô hấp.
Bảng 2.3. Thành phần rác thải sinh hoạt ở Hà Nội, Hải Phòng và TP. Hồ
Chí Minh, Đồng Nai
Hải
Tp.Hồ Chí
Thành phần
Hà Nội
Đồng Nai
STT
Dương
Minh
rác thải
(%)
(%)
(%)
(%)
1
Chất hữu cơ
49,5
46,6
60,1
71,4
2
Chất trơ
19
27,7
17,1
5,7
3
Giấy
1,9
5,8
5,4
6,2
4
Nhựa
14,9
3,4
3,1
8,6
5
Kim loại
6,38
4,9
1,24
1,2
6
Thuỷ tinh
6,9
1,2
4,1
6,2
7
Cao su, da
0,6
5,8
3,2
3,2
8
Các chất độc hại
0,5
1,4
1,3
0,1
9
Các loại khác
0,4
3,2
4,4
2,3
(Nguồn: Báo cáo của các nhà tài trợ hàng năm và viện phát triển bền vững, 2007).
17
Bảng số liệu trên cho thấy, trong rác thải sinh hoạt thì rác thải hữu cơ dễ
phân huỷ chiếm một tỷ lệ lớn. Nếu lượng rác thải hữu cơ này được tận dụng sẽ
đem lại những hiệu quả thiết thực phục vụ cuộc sống con người. Để khắc phục
tình trạng thu gom chất thải rắn như hiện nay, tiến tới mục tiêu thu gom và xử
lý triệt để lượng chất thải rắn phát sinh hàng ngày, giữ gìn môi trường đô thị và
khu công nghiệp, góp phần bảo vệ sức khoẻ cộng đồng, đẩy mạnh phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước; ngày 3/4/1997 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành
Chỉ thị số 199/TTg về các biện pháp cấp bách trong quản lý chất thải rắn tại
những khu đô thị và công nghiệp. Tại chỉ thị này, Thủ tướng đã yêu cầu các
Bộ, Ngành và các địa phương quán triệt sâu sắc, việc thải bỏ chất thải bừa bãi
và không hợp vệ sinh ở các đô thị và các khu công nghiệp là nguồn gốc chính
gây ô nhiễm môi trường, làm nảy sinh các loại dịch bệnh truyền nhiễm nguy
hiểm, ảnh hưởng đến sức khoẻ và cuộc sống cộng đồng và còn ảnh hưởng lâu
dài tới những thế hệ mai sau. Mỗi ngành, mỗi địa phương phải kiểm điểm trách
nhiệm của mình, đề ra các chương trình và các biện pháp thiết thực, chỉ đạo sát
sao công tác quản lý chất thải rắn, giữ gìn vệ sinh môi trường trong sạch. Ngày
16/7/1999, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số 155/1999QĐ-TTg
về quy chế quản lý chất thải nguy hại. Quy chế quản lý chất thải nguy hại được
áp dụng đối với các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài có các hoạt
động trên lãnh thổ Việt Nam liên quan tới các việc phát sinh, thu gom, vận
chuyển, quá cảnh, lưu giữ, xử lý và tiêu huỷ chất thải nguy hại, trừ trường hợp
điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc
tham gia có quy định khác.
Để đạt được một hiệu quả tối ưu trong công tác Bảo vệ Môi trường cần
có sự thống nhất từ các cấp, các địa phương. Đồng nhất trong công tác quản
lý, các văn bản pháp quy cũng như đầu tư kinh phí cho công tác quản lý chất
thải rắn phải đầy đủ, đáp ứng yêu cầu thiết yếu cho công tác BVMT.
2.2.2.2. Tình hình xử lý rác ở Việt Nam
+ Chôn lấp: Chôn lấp đơn thuần không qua xử lý, đây là phương pháp
phổ biến nhất. Theo thống kê, nước ta có khoảng 149 bãi rác cũ không hợp vệ
sinh, trong đó có 21 bãi rác thuộc cấp tỉnh - thành phố, 128 bãi rác cấp huyện -
18
thị trấn. Được sự giúp đỡ của nước ngoài, đã xây dựng các bãi chôn lấp hợp vệ
sinh ở các thành phố lớn như: Hà Nội, Hải Phòng, Huế, TP. Hồ Chí Minh.
+ Chế biến phân vi sinh: Phương pháp làm phân Compost có ưu điểm làm
giảm lượng rác thải hữu cơ cần chôn lấp, cung cấp phân bón phục vụ nông
nghiệp, xây dựng các công trình mới. Thành phần của rác thải xây dựng chủ
yếu là: đất, gạch, sắt, thép, bê tông… Khối lượng chất thải xây dựng ngày một
tăng do nhu cầu cải tạo, xây dựng các công trình ngày một nhiều. Một số nhà
máy chế biến như Cầu Diễn (Hà Nội) có công suất 50.000 tấn/năm, nhà máy
xử lý rác thải Nam Định 250 tấn/ngày, công nghệ Dano- Đan Mạch tại Hóc
Môn- TP. HCM công suất 240 tấn/ngày...
Bảng 2.4. Tình hình áp dụng các công nghệ xử lý CTR tại Việt Nam so
với các nước
Tỷ lệ áp dụng các công nghệ (%)
STT
Quốc gia
Chôn lấp HVS Ủ sinh học
Đốt
Khác
1 Nhật Bản
18
44
38
2 Đan Mạch
21
70
9
3 Thụy Điển
30
54
9
4 Pháp
32
18
50
5 Singapore
100
6 Thái Lan
84
14
2
7 Hàn Quốc
70
30
8 Việt Nam
20
10
1
69
(PGS. TS. Nguyễn Thị Kim Thái, 2007)
+ Thiêu đốt: Được áp dụng để xử lý rác thải bệnh viện. Các bệnh viện
Lao, Viện 108 mới xây dựng lò đốt chất thải. Tại Hà Nội có lò đốt chất thải
bệnh viện công suất 3,2 tấn/ngày đặt tại Tây Mỗ. Tại TP. Hồ Chí Minh có lò
đốt chất thải bệnh viện công suất 7,5 tấn/ngày. Phương pháp đốt chất thải còn
được dùng để xử lý chất thải công nghiệp như lò đốt chất thải giày da tại Hải
Phòng, lò đốt cao su 2,5 tấn/ngày tại Đồng Nai. Việc đốt chất thải công
nghiệp này đều không đạt tiêu chuẩn môi trường.
+ Các công nghệ khác: - Bộ quốc phòng và công ty TNHH Xuân Kiên
nghiên cứu chế tạo lò đốt CTR y tế với công suất nhỏ.
19
- Công ty cổ phần PTCN môi trường xanh nghiên cứu thử nghiệm mô
hình xử lý CTR theo công nghệ Seraphin tại nhà máy xử lý CTR Đông Vinh
(TP. Nghệ An) và nhà máy xử lý rác thải sinh hoạt tại Sơn Tây.
2.2.3. Tình hình quản lý rác thải tại Thái Nguyên
- Thị xã Sông Công: Thành lập ban quản lý đô thị với gần 30 công
nhân, 10 xe thu gom rác. Mỗi ngày thu được 21 tấn rác.
- Huyện Đồng Hỷ: Thành lập hợp tác xã môi trường của Chùa Hang.
Theo phòng Tài nguyên và Môi trường huyện thì rác sau khi thu gom sẽ mang
đi đổ ở bãi rác Đá Mài.
- Huyện Võ Nhai: Thành lập hợp tác xã vệ sinh môi trường thị trấn
Đình Cả từ năm 2003 với 4 xe đẩy rác và bãi chôn lấp riêng.
- Huyện Phú Bình: Đã có đội thu gom rác, quy hoạch khu vực xử lý rác
tập trung và đang tiến hành xây dựng bãi chôn lấp hợp vệ sinh.
- Huyện Đại Từ: Đã có đội ngũ thu gom rác, đã có bãi rác xử lý rác
thải. Tuy nhiên bãi xử lý rác này chưa có quy hoạch tổng thể, chỉ phơi khô
rồi đốt.
- Tại TP.Thái Nguyên: Những năm trước đây, làm nhiệm vụ vệ sinh
môi trường trên địa bàn thành phố chỉ có một đơn vị là công ty quản lý đô thị
làm công tác thu gom và vận chuyển rác thải từ các điểm tập kết và vận
chuyển vào bãi rác của thành phố. Trong các năm từ 1999 đến năm 2001 với
số lượng công nhân trực tiếp làm nhiệm vụ là 72 người, hàng ngày công ty
quản lý đô thị quét rác duy trì trên diện tích khoảng 269.000m2 (chiếm 41%
diện tích cần quét) và thu gom, xử lý khoảng 27 tấn rác thải sinh hoạt đáp ứng
được 40% nhu cầu người dân.
Để khắc phục tình trạng trên, năm 2001 chính quyền thành phố đã tổ
chức thăm quan học tập các đô thị bạn và chính thức đưa vào áp dụng mô
hình xã hội hoá thu gom rác thải sinh hoạt bằng việc mỗi phường, xã thành
lập một đội vệ sinh môi trường. Kinh phí để trả cho công tác thu gom rác sử
dụng từ nguồn phí vệ sinh môi trường thu của các hộ dân.
Bước đầu khi thành lập thành phố đã đầu tư những trang thiết bị như
dụng cụ lao động, xe đẩy chứa rác và các trang thiết bị khác để các đội vệ
sinh này hoạt động. Kinh phí thu từ các hộ gia đình theo mức phí vệ sinh do
UBND tỉnh quy định và do đội vệ sinh môi trường phường, xã thu. Trước đây
20
khoản thu phí này do công ty môi trường đô thị đảm nhiệm, thường chỉ thu
được 50%. Nhiều người dân hoàn toàn chưa có thói quen đóng phí VSMT. Từ
khi giao cho đội vệ sinh môi trường phường, xã thì kinh phí này được thu khá
triệt để đạt trên 90%, việc làm này đã góp phần tiết kiệm cho ngân sách nhà
nước, giảm từ 7-9 tỷ/năm.
Cho đến nay đã có 22/28 đội vệ sinh phường, xã được thành lập và đi
vào hoạt động có hiệu quả. Cách thức quản lý đội vệ sinh môi trường như sau:
mỗi đội chia thành 2- 4 tổ, mỗi tổ có 1 tổ trưởng và 5-7 công nhân. Hiện nay
phần lớn các phường, xã giao trách nhiệm thu phí vệ sinh môi trường cho tổ
trưởng dân phố, đồng thời trong các cuộc bình bầu phố văn hoá đã đưa tiêu
chí việc tham gia đóng đầy đủ phí môi trường là một tiêu chí bắt buộc. Việc
hình thành các đội vệ sinh đã tạo việc làm và thu nhập cho gần 400 lao động,
phần lớn là người dân thuộc các hộ nghèo không có việc làm ổn định qua đó
làm ổn định xã hội.
Cho đến nay thành phố Thái Nguyên đã có 20 nhà để xe rác được xây
dựng và đi vào hoạt động đảm bảo tính hữu ích và vệ sinh môi trường.
Cùng với sự theo dõi, giám sát và chỉ đạo của thành phố kết hợp với
việc đẩy mạnh tuyên truyền, vận động nhân dân nên hiện nay tình hình vệ
sinh môi trường dần đi vào ổn định. Công ty TNHH một thành viên môi
trường và công trình đô thị và các đội vệ sinh phường, xã đã duy trì thực hiện
các quy định về giờ thu gom rác, địa điểm tập kết rác nhằm đảm bảo việc phối
hợp nhịp nhàng, khoa học. Toàn bộ lượng rác thải được thu gom sẽ được vận
chuyển xử lý chôn lấp hợp vệ sinh tại bãi rác Đá Mài xã Tân Cương thành
phố Thái Nguyên.
- Để có được kết quả đó không thể không kể đến sự quan tâm đầu tư
của thành phố trong công tác thu gom và xử lý rác thải. Hàng năm tỉnh và
thành phố đã chi ngân sách cho công tác môi trường lên tới 18 tỷ đồng (2009)
ngoài ra còn phải kể đến sự hỗ trợ, phối hợp giữa các cơ quan, ban ngành có
liên quan đã góp phần nâng cao hiệu quả công tác này.
2.2.4. Các phương pháp xử lý rác thải tại Thái Nguyên hiện nay
* Với tốc độ đô thị hoá diễn ra rất nhanh cùng với đó là sự phát triển
của các ngành công nghiệp, dịch vụ đã làm nảy sinh rất nhiều vấn đề liên
quan đến môi trường, đặc biệt là rác thải trong đó có rác thải sinh hoạt. Mỗi
- Xem thêm -