BỘ CÔNG THƯƠNG
TRƯỜNG ĐH CÔNG NGHIỆP Tp. HCM
Khoa Quản trị kinh doanh
----------
BÀI TIỂU LUẬN
Đề tài: “Tình hình phát triển và phân bố ngành nônglâm-ngư nghiệp ở Việt Nam”
Giảng viên hướng dẫn:
Ths. Nguyễn Việt Lâm
Nhóm thực hiện: Hội Ngộ
Lớp HP: 210700217
Năm học: 2011- 2012
2012
NHÓM HỘI NGỘ
TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN VÀ PHÂN BỐ NGÀNH NÔNG – LÂM – NGƯ NGHIỆP Ở VIỆT
2
Mở đầu
•
Nội dung đề tài:
Nghiên cứu về nền nông nghiệp Việt Nam cụ thể về tổ chức LT-KT-XH nônglâm-ngư nghiệp. Mục tiêu trình bày rõ các nội dung:
+ Tình hình phân bố và phát triển của từng ngành nông-lâm-ngư nghiệp
+ Các giải pháp phát triển ngành nông nghiệp Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
•
Lý do chọn đề tài:
Nông nghiệp là xương sống của nền kinh tế Việt Nam. Từ xưa đến nay nhờ vị
trí địa lí thuận lợi và các yếu tố về thổ nhưỡng,… giúp chúng ta phát triển một nền
nông nghiệp nhiệt đới phát triển. Hơn nữa tìm hiểu về nông nghiệp giúp chúng ta có
những kiến thức và kĩ năng trong quá trình lập nghiệp sau này. Vì những lí do như
vậy, Nhóm Hội Ngộ quyết định chọn đề tài này.
•
Phương pháp nghiên cứu đề tài:
+ Xác định đề tài
+ Tham khảo sách vở, báo chí và các tài liệu liên quan trên cơ sở bám sát giáo
trình của khoa
+ Lập đề cương mẫu
+ Nhóm tiến hành họp nhóm trao đổi, phân tích, nhận xét, đánh giá,… tìm thêm
tư liệu kênh chữ và kênh hình cho đề tài
+ Hoàn thiện tiểu luận
•
Giới hạn phạm vi nghiên cứu:
Do khuôn khổ có hạn của giáo trình “Địa lí kinh tế Việt Nam” và thời gian thực
hiện nên nhóm chưa thể đào sâu thêm. Nội dung được giới hạn theo mẫu của giáo
trình. Tuy nhiên có bổ sung thêm một số đề mục để làm rõ thêm đề tài.
* Vì còn thiếu sót nhiều kinh nghiệm, có thể nhầm lẫn hoặc còn nhiều sai sót
khó tránh khỏi. Mong được giảng viên châm chước.
Cuối cùng xin cảm ơn thầy đã giúp đỡ nhóm em thực hiện đề tài!
•
Tài liệu tham khảo
Giáo trình những Địa lí kinh tế Việt Nam, khoa Quản trị kinh doanh,
trường đại học Công Nghiệp Tp. Hồ Chí Minh, 9 – 2010.
1.
Nhiều sách và tài liệu liên quan khác hoặc tìm kiếm trên mạng internet.
2.
3
Danh sách nhóm Hội Ngộ:
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
10.
11.
12.
4
Tên
Hoàng Nguyễn Ngọc Hưng
Nguyễn Thanh Vương
Đoàn Tuấn Ngĩa
Đặng Thị Ngọc
Phạm Thị Ngoan
Võ Thị Kim Quý
Trần Thị Ơn
Bùi Huy Toàn
Nguyễn Thị Phương
Võ Văn Huy
Võ Văn Dũng
Đinh Phú Quý
MSSV
11065151
11075791
11073261
11068181
11232561
11049881
11067851
11250111
08092641
MỤC LỤC
5
TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN VÀ PHÂN BỐ NÔNG – LÂM – NGƯ NGHIỆP
I.
TÌNH HÌNH CHUNG
Sau 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, khu vực nông thôn việt nam đã có sự
thay đổi rõ nét. Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch tích cực, hoạt động dịch vụ phát triển
mạnh, hình thành và phát triển các mô hình kinh tế mới (khu công nghiệp, trang trại,
doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp tư nhân) hoạt động có hiệu quả thu hút nhiều
lao động nông thôn, tạo ra nhiều sản phẩm cho nền kinh tế. Kết cấu kinh tế - xã hội
ở nông thôn có nhiều thay đổi, hệ thống điện, đường trường trạm, cơ sở y tế, nước
sạch, môi trường được quan tâm và đẩy mạnh. Công tác xóa đói giảm nghèo đạt thành
tựu đáng kể, tỷ lệ hộ nghèo giảm. Mặc dù việc xây dựng và thực hiện các chương trình
phát triển đối với một số ngành nông nghiệp mới được tiến hành trong thời gian chưa
lâu nhưng kết quả đã cho thấy tốc độ phát triển nhanh, đạt hiệu quả cao và cùng lúc đạt
được nhiều mục tiêu như cải thiện đời sống nông thôn, tạo nguồn thu ngoại tệ, góp
phần phủ xanh đất trống đồi trọc v.v…
Ngành nông nghiệp tiếp tục phát triển khá với nhiều thành điểm đáng chú ý
như:
- Mức tăng trưởng sản xuất duy trì ở mức 4,8% liên tục trong 10 năm. Nhiều lĩnh
vực sản xuất được mở rộng về diện tích cũng như tăng trưởng về sản lượng như gạo,
cà phê, chế biến thủy hải sản, tạo ra một khối lượng hàng hóa lớn phục vụ cả tiêu dùng
trong nước và xuất khẩu. Ví dụ như ngành lúa gạo, từ một nước nhập khẩu gạo Việt
Nam đã trở thành quốc gia hàng đầu thế giới về xuất khẩu gạo. Sản lượng gạo tăng
liên tục từ mức 16 triệu tấn/năm (1986) lên mức 19,2 triệu tấn/năm (1990) và 38,9
triệu tấn/năm (2009), tăng gấp 2,4 lần sau hơn 20 năm đổi mới. Tính riêng trong các
năm 2008 và 2009, sản lượng và giá trị các loại cây trồng, đặc biệt là những cây tạo
nguồn nguyên liệu cho xuất khẩu như: cà phê tăng 40,4%, cao su tăng 37%, chè tăng
33,3% điều tăng 28,3% so với năm 2005. Tỷ trọng của ngành nông, lâm nghiệp và
thủy sản trong GDP luôn chiếm trên 30% trong giai đoạn 1986 – 1990 và giảm dần
trong các giai đoạn tiếp sau theo xu hướng tích cực, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh
tế.
- Nông nghiệp đã góp phần không nhỏ vào kim ngạch xuất khẩu với giá trị xuất
khẩu tăng bình quân trên 10% năm. Nếu như năm 1995, kim ngạch xuất khẩu hàng
hóa nông lâm thủy sản của khu vực nông nghiệp chỉ đạt 2,5 tỷ USD thì đến cuối năm
2009, ước đạt 13,2 tỷ USD, cao gấp 5 lần so với năm 1995. Trong 24 mặt hàng xuất
khẩu chủ lực của cả nước thì nông lâm thủy sản đã đóng góp tới 11 mặt hàng, chiếm
gần ½ số mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam trong đó có những mặt hàng được xem là
hàng chủ lực như gạo, cà phê, cao su, gỗ, với kim ngạch trên 1 tỷ USD. Cùng với việc
mở rộng thị trường xuất khẩu, nhiều mặt hàng nông sản gia tăng thị phần và chiếm vị
thế cao trên thị trường thế giới, như hạt điều, hạt tiêu chiếm vị trí thứ nhất, lúa gạo, cà
phê đứng thứ hai, cao su đứng thứ tư, chè đứng thứ năm và thủy sản đứng thứ bảy
trong nhóm các nước sản xuất mặt hàng này.
- Khu vực nông nghiệp đã góp phần giải quyết công ăn việc làm cho hàng triệu
lao động, tiếp tục là ngành chính tạo ra thu nhập cho người nghèo. Tính đến cuối năm
2009, khu vực nông nghiệp, nông thôn có 15,57 triệu hộ gia đình (chiếm 69,37% tổng
số hộ gia đình của cả nước) và dân số là 60,41 triệu người (chiếm 70,37% tổng số dân
6
cả nước), có trên 24 triệu lao động đang làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, chiếm tỷ
trọng gần 60% tổng số lao động đang làm việc trong các khu vực kinh tế của cả nước.
- Một nền nông nghiệp hướng vào sản xuất hàng hóa đã bước đầu hình thành.
Diện tích gieo trồng các loại cây trồng mà sản phẩm tạo ra dành nhiều cho xuất khẩu
hoặc phục vụ trực tiếp cho người tiêu dùng trong nước đã tăng lên như diện tích các
loại cây rau, quả, cây công nghiệp ngắn ngày có hướng tăng nhẹ khoảng 2-4%/năm.
Diện tích các cây lâu năm tăng gần 80 nghìn ha riêng trong năm 2009 do giá xuất khẩu
một số nông sản này tăng. Những dịch chuyển này đã tạo ra sự hình thành các vùng
chuyên canh, đặc biệt là vùng sản xuất các loại cây rau, quả xuất khẩu như vải, bưởi,
sầu riêng, na, xoài, thanh long,… cùng với sự hình thành các mô hình sản xuât hàng
hóa nông sản lớn. Bên cạnh đó thì những cây trồng có định hướng phục vụ cho các
ngành công nghiệp chế biến các sản phẩm chỉ tiêu dùng nội địa thể hiện sự khó khăn,
không có năng lực phát triển như cây mía đường, bông, cây thức ăn gia súc,…
- Một nét mới trong phát triển nông nghiệp là đã xuất hiện một số mô hình tổ
chức sản xuất kiểu mới như kinh tế trang trại, cao su tiểu điền, cà phê nhân dân, tổ hợp
tác tự nguyện, hợp tác xã kiểu mới làm dịch vụ cho kinh tế hộ. Tính đến năm 2009, cả
nước đã có 135.437 trang trại, trong đó có 39.769 trang trại trồng cây hàng năm,
23.880 trang trại trông cây lâu năm, 20.809 trang trại chăn nuôi và 35.489 trang trại
nuôi trồng thủy sản, tập trung nhiều nhất ở khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long. Kinh
tế hợp tác và hợp tác xã dịch vụ trong nông nghiệp cũng là một nét mới đáng ghi nhận
trong tổ chức sản xuất nông nghiệp hiện nay.
Trong điều kiện toàn cầu hóa, biến đổi khí hậu, khủng hoảng lương thực và
năng lượng đã trở thành các vấn đề nghiêm trọng như hiện nay, khu vực nông nghiệp
nông thôn nhất là tại các quốc gia có số dân sống dựa nhiều vào nông nghiệp như Việt
Nam tiếp tục được xác định là có vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống kinh tế xã
hội. Trên cơ sở những thành tựu đã đạt được trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn,
Đảng ta vẫn xác định: “Hiện nay và trong nhiều năm tới, vấn đề nông nghiệp, nông
dân và nông thôn vẫn có tầm chiến lược đặc biệt quan trọng. Phải luôn coi trọng đẩy
mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, hướng tới xây dựng một
nền nông nghiệp hàng hóa lớn, đa dạng, phát triển nhanh và bền vững có năng suất,
chất lượng và khả năng cạnh tranh cao; bảo đảm vững chắc an ninh lương thực và tạo
điều kiện từng bước hình thành nền nông nghiệp sạch…; Gắn phát triển kinh tế với
xây dựng nông thôn mới, giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa nông thôn và thành thị,
giữa các vùng miền, góp phần giữ vững ổn định chính trị xã hộ
Việt Nam đã có nhiều chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông- lâm- ngư nhiệp theo
hướng phát triển toàn diện, đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh mở đường trong quá
trình đổi mới, tạo điều kiện để đất nước vươn lên.
Trong tổng diện tích tự nhiên của việt nam thì, tổng diện tích đất nông nghiệp
của cả nước đã tăng gần 1,28 triệu ha so với năm 2005 thì diện tích đất lúa lại giảm
mạnh. Tính đến hết năm 2010, tổng diện tích các loại đất kiểm kê của cả nước là
33.093.857 ha, bao gồm 26.100.160 ha đất nông nghiệp, 3.670.186 ha đất phi nông
nghiệp và 3.323.512 ha đất chưa sử dụng. Ngoài ra, c cn có 47.254 ha đất có mặt nước
ven biển sử dụng cho nuôi trồng thủy sản, rừng ngập mặn.
Số liệu về tình hình biến động diện tích đất thấy, tổng diện tích đất nông nghiệp
của cả nước đã tăng gần 1,28 triệu ha so với năm 2005, trong đó tăng chủ yếu ở loại
7
đất sản xuất nông nghiệp, đất lâm nghiệp. Tuy nhiên, diện tích đất trồng lúa lại giảm
đến 37.546 ha, trung bình mỗi năm giảm hơn 7.000 ha. Riêng đồng bằng sông Hồng
đất nông nghiệp cũng đã giảm 32.000 ha, chủ yếu do chuyển sang mục đích phi nông
nghiệp.
Đất lâm nghiệp so với năm 2005 cả nước tăng 571.616 ha, trong đó có 38 tỉnh
tăng và 23 tỉnh giảm diện tích. Các tỉnh giảm chủ yếu do việc xây dựng các công trình
hoặc do chuyển sang sản xuất nông nghiệp .
Đất nuôi trồng thủy sản của cả nước so với năm 2005 giảm 9.843 ha do một số
địa phương ở đồng bằng sông Cửu Long chuyển sang trồng lúa.
BIỂU 01: GIÁ TRỊ SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP
(Giá hiện hành)
Gross output of agriculture ( At current price )
Chia ra - Of which
Năm - Year
Tổng số
Total
Trồng trọt
Cultivation
Chăn nuôi
Livestock
Dịch vụ
Service
Triệu đồng - Mill.dongs
8
2004
6,896,052
5,585,870
706,962
603,220
2005
8,501,222
7,005,616
851,542
644,064
2006
9,284,791
7,421,534
1,076,452
786,805
2007
11,904,604
9,859,699
1,229,035
815,870
2008
17,010,083
14,024,638
2,113,575
871,870
2009
18,095,456
14,927,194
2,195,272
972,990
Cơ cấu - Structure (%)
2004
100.00
81.00
10.25
8.75
2005
100.00
82.41
10.02
7.57
2006
100.00
79.93
11.59
8.48
2007
100.00
82.82
10.33
6.85
2008
100.00
82.45
12.43
5.13
2009
100.00
82.49
12.13
5.38
Những năm qua, ngành nông nghiệp nước ta đã có bước phát triển vượt bậc, giá
trị và giá trị sản lượng nông nghiệp liên tục tăng cụ thể là ngành trồng trọt từ 2004 đến
2009 tăng từ 5,585,870 đến 14,927,194 triệu đồng là cho cơ cấu ngành cũng tăng theo
từ 81% đến 82,94%,chăn nuôi cũng tăng không kém cụ thể từ năm 2004 đến 2009 tăng
từ 706,692 triệu đồng lên 2,195,272 triệu đồng làm cho cơ cấu ngành cũng tăng theo
từ 10,25% lên 12,13% chủng loại cây trồng, vật nuôi đa dạng hơn, cơ cấu nông nghiệp
chuyển dịch theo hướng gia tăng sản phẩm đã qua chế biến, giảm cung cấp sản phẩm
thô, từ đó an ninh lương thực trong nước được đảm bảo, nhiều sản phẩm nông nghiệp
trở thành những hàng hóa xuất khẩu chủ đạo, có khả năng cạnh tranh cao trên thị
trường quốc tế như gạo, thủy hải sản, cà phê, cao su. Đời sống vật chất và tinh thần
của đại bộ phận nông dân được cải thiện, công bằng hơn trong tiếp cận các cơ hội phát
triển. Bộ mặt nông thôn có nhiều khởi sắc theo hướng văn minh, hiện đại, hệ thống kết
cấu hạ tầng cũng như mạng lưới các tổ chức kinh tế hoạt động nông thôn ngày càng
phát triển
II. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN VÀ PHÂN BỐ TỪNG NGÀNH NÔNG –
LÂM – NGƯ NGIỆP Ở VIỆT NAM
1.
Ngành nông nghiệp
a . Ngành trồng trọt
Cây lương thực
Những cây được xếp vào loại cây lương thực ở Việt Nam là: lúa, ngô, khoai
lang, sắn, khoai tây, khoai sọ, khoai nước, dong, riềng, kê, mì, mạch, cao lương.
Sản xuất lương thực là ngành cơ bản, quan trọng trong nông nghiệp. sản xuất
lương thực trước hết bảo đảm nguồn thức ăn tinh bột cho toàn bộ dân cư trong nước và
cung cấp thức ăn cho gia súc để chuyển hóa thành thịt, trứng sửa và các sản phẩm của
sữa là những chất dinh dưỡng cần thiết cho cơ thể, cây lương thực còn cung cấp
nguyên liệu cho ngành công nghiệp. Sản xuất lương thực còn có tác dụng thúc đẩy
việc chăn nuôi lên thành sản xuất chính, hình thành các ngành chuyên canh cây công
nghiệp , góp phần quan trọng để ổn định kinh tế quốc phòng và xuất khẩu
Bảng 1 – Tình hình ngành sản xuất lúa gạo
Các yếu tố
Diện tích
9
Năm 2006
7,32 triệu ha
Năm 2007
7,2 triệu ha
Ghi chú
Diện tích gieo trồng lúa gạo thường
gieo trồng
(chiếm 54%
xuyên chiếm trên 50% tổng diện
tổng diện tích tích gieo trồng nông nghiệp)
gieo trồng nông
nghiệp)
35,87 triệu tấn
Sản lượng 35,8 triệu tấn
thóc
Khả năng XK gần 4,7 triệu tấn XK 4,5 triệu
cạnh tranh (kim ngạch gần 1,3 tấn gạo (kim
triệu USD)
ngạch gần 1,5
tỷ USD)
Việt Nam đứng thứ 2 trên thị
trường thế giới về khối lượng gạo
xuất khẩu (sau Thái Lan).
Có lợi thế cạnh tranh đối với các
loại gạo có phẩm cấp trung bình và
thấp (so với Thái lan) do năng suất
lúa cao, giá thành sản xuất thấp.
Đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng
trong nước (dân số 84 triệu người,
với mức tăng khoảng 1,1 triệu
người mỗi năm)
Cây hoa màu
Bảng 2 – Tình hình ngành sản xuất ngô
Các yếu tố
Diện tích
trồng
Năm 2006
1,03 triệu ha
Năm 2007
1,07 triệu ha
Ghi chú
Mức tăng trưởng bình quân giai
đoạn 2001-2005: 13,4%/năm; năm
2007 tăng 4% so với 2006
Sản lượng 3,8 triệu tấn
4,1 triệu tấn
Năm 2007 tăng 8% so với năm
ngô hạt
2006
Khả năng Quy mô sản xuất nhỏ, giá thành cao, công nghệ bảo quản chậm phát
cạnh tranh triển; sản xuất ngô chưa đủ đáp ứng nhu cầu thức ăn chăn nuôi trong
nước (ngành chăn nuôi phát triển với tốc độ 6-7%/năm);
Tỷ lệ nguyên liệu ngô nhập khẩu phục vụ chăn nuôi tăng hàng năm (kim
ngạch nhập khẩu ngô 2006: 94 triệu USD)
Chính sách Áp thuế nhập khẩu ngô thấp (5%) để tạo điều kiện cho chăn nuôi
đối với
ngành
Bảng 3 – Tình hình ngành sản xuất khoai lang
Các yếu tố
Diện tích
trồng
Sản lượng
khoai
Khả năng
cạnh tranh
Năm 2006
181.000 ha
Năm 2007
178.000 ha
1,4 triệu tấn
1,46 triệu tấn
Ghi chú
Năm 2007 giảm 2% so với năm
2006
Sản phẩm chủ yếu phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng trong nước; vài năm
gần đây, có một số vùng đã xuất khẩu được khoai lang (chủ yếu sang
Nhật bản, Hàn quốc) nhưng khối lượng không đáng kể.
Chính sách Do mức độ phụ thuộc vào cây lương thực dạng củ giảm nên mức độ bảo
10
đối với
ngành
hộ ở mức thấp (thuế nhập khẩu 10%); không có chính sách riêng biệt
nhằm khuyến khích phát triển sản xuất
Bảng 4 – Tình hình ngành sản xuất sắn
Các yếu tố
Diện tích
trồng
Sản lượng
củ sắn tươi
Khả năng
cạnh tranh
Năm 2006
474.000 ha
Năm 2007
497.000 ha
7,7 triệu tấn
8 triệu tấn
Ghi chú
Sản phẩm đảm bảo phục vụ đủ nhu cầu trong nước và là mặt hàng nông
nghiệp xuất khẩu quan trọng (chủ yếu dưới dạng sắn lát khô, bột sắn,
tinh bột sắn sang các thị trường Trung Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Hồng
Kông với kim ngạch tăng rất nhanh)
Chính sách Do mức độ phụ thuộc vào cây lương thực dạng củ trong nước giảm nên
đối với
mức độ bảo hộ ở mức thấp (thuế nhập khẩu 10%);
ngành
Nhà nước không có chính sách riêng biệt nhằm khuyến khích phát triển
sản xuất.
b . Ngành trồng cây công nghiệp và cây ăn quả
Cây công nghiệp là một nhóm cây nhiều chủng loại, cung cấp những nông
phẩm có giá trị như đường, dầu thực vật, nguyên liệu kỹ thuật (tơ sợi, nhựa, dầu kỹ
thuật), các chất hương vị và dược liệu. cây công nghiệp ở Việt Nam còn cung cấp
nhiều sản phẩm xuất khẩu có giá trị cao trên thế giới. Các vùng chuyên canh cây công
nghiệp lớn cũng ảnh hưởng tới sự phân bố các xí nghiệp công nghiệp chế biến và tới
sự hình thành cơ cấu cây trồng và vật nuôi trong vùng
Cây công nghiệp hàng năm ở Việt Nam:
Có các cây chủ yếu như: bong, đai, gai, cói, thầu dầu, dâu tằm, mía, lạc, đậu
tương, vừng, thuốc lá, thuốc lào). Trong số các cây này thì lạc, mía và đậu tương là
những cây dẫn đầu về diện tích cây công nghiệp hàng năm hiện nay
Đỗ tương: là cây trồng truyền thống có mặt từ lâu đời ở Việt Nam. Ngoài việc
lấy hạt, cây đậu tương còn có tác dụng cố định đạm làm tăng dinh dưỡng cho đất, nên
thường được nông dân trồng xen với các cây trồng khác với mục đích cải tạo đất, được
trồng khá phổ biến ở miền Bắc, đặc biệt là ở vùng Đồng bằng sông Hồng (trồng luân
canh với lúa) và vùng Đông Bắc. Ở miền Nam, cây đậu tương được trồng chủ yếu ở
vùng Tây Nguyên và một số ít ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Tuy có diện tích
trồng đậu tương khá lớn (26.235 ha), chiếm 14,4% tổng diện tích đậu tương của cả
nước nhưng Tây Nguyên lại là vùng có năng suất đậu tương ở mức thấp nhất cả nước
(1 tấn/ha). Cây đậu tương cho năng suất rất cao tại vùng Đồng bằng sông Hồng (8,7
tấn/ha), do vậy chỉ với diện tích trồng đậu tương chiếm 29,2% nhưng vùng Đồng bằng
sông Hồng đã đóng góp 75,4% vào tổng sản lượng đậu tương của cả nước.
Mía
Đạt gần 16 triệu tấn, tăng 338,5 nghìn tấn (Năng suất tăng 11,2 tạ/ha); Cây mía
được trồng chủ yếu ở vùng Bắc Trung Bộ, Duyên hải Nam Trung Bộ, Đông Nam Bộ
11
và Đồng bằng sông Cửu Long. Đây cũng là những vùng đóng góp nhiều nhất cho tổng
sản lượng mía của cả nước. Với điều kiện tự nhiên thuận lợi, vùng Đồng bằng sông
Cửu Long có diện tích trồng mía lớn nhất cả nước, chiếm 23% tổng diện tích mía của
Việt Nam. Đồng bằng sông Cửu Long cũng là vùng có năng suất mía cao nhất cả nước
(trung bình 68,6 tấn/ha) nên mức đóng góp cho tổng sản lượng mía cũng lớn nhất
(29,5%). Vùng Đồng bằng sông Hồng và Đông Bắc có năng suất mía ở mức thấp hơn
nhiều so với mức bình quân cả nước do trồng mía quy mô nhỏ và vẫn sử dụng các
giống mía cũ, năng suất thấp.
Cây lạc :
Tăng 3,6% (Diện tích tăng 1,4%; năng suất tăng 2,1%). Nhờ đưa vào gieo
trồng các giống lạc mới năng suất cao, nhưng sản lượng lạc hàng năm tăng ở mức
khá cao, trung bình 7,2%/năm trong giai đoạn
Lạc là loại Thích hợp với đất nhẹ tơi xốp và không cần nhiều dinh dưỡng, lạc
được trồng phổ biến ở các vùng Đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ, Duyên hải
Nam Trung Bộ và Tây Nguyên, trong đó tập trung nhiều nhất ở vùng Bắc Trung Bộ
(chiếm 31% diện tích lạc cả nước). Bắc Trung Bộ cũng là vùng đóng góp lớn nhất
cho tổng sản lượng lạc của cả nước (28,6%). Vùng có năng suất trồng lạc cao nhất
lại là Đồng bằng sông Hồng, Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long, trong đó
cao nhất là vùng Đồng bằng sông Hồng với năng suất 3 tấn/ha (so với mức trung
bình 1,9 tấn/ha của cả nước). Tuy được trồng khá phổ biến ở khu vực Tây Nguyên
với tổng diện tích lên tới hơn 22 nghìn ha (chiếm 9,7% tổng diện tích lạc cả nước),
nhưng đây lại là vùng có năng suất lạc thấp nhất cả nước (0,7 tấn/ha).
Cây thuốc lá
Cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, thay thế nguồn nguyên liệu
nhập khẩu. Việt Nam đã có tới 39.925 ha trồng thuốc lá và tổng sản lượng thuốc lá
nguyên liệu là 25.230 tấn. Hiện nay mỗi năm Việt Nam vẫn phải nhập khẩu khoảng
100 triệu USD nguyên liệu cho ngành công nghiệp chế biến thuốc lá, cho nên việc
mở rộng diện tích trồng cây thuốc lá, đặc biệt dưới hình thức hợp đồng cung cấp
nguyên liệu cho các nhà máy là cần thiết.
Cây thuốc lá được trồng nhiều nhất ở vùng Đông Bắc, chiếm tới chiếm tới
69,4% tổng diện tích thuốc lá của cả nước. Tuy nhiên, do năng suất không cao nên
vùng Đông Bắc chỉ đóng góp 23,8% vào tổng sản lượng thuốc lá của cả nước.
Thuốc lá cũng được trồng khá phổ biến ở vùng Đông Nam Bộ và Tây Nguyên. Tuy
diện tích trồng thuốc lá ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long không nhiều, nhưng đây
lại là vùng trồng thuốc lá cho năng suất cao nhất cả nước. Vùng Tây Bắc hầu như
không trồng thuốc lá. Tại các vùng Đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ và Duyên
hải Nam Trung Bộ, diện tích trồng thuốc lá cũng không nhiều.
Cây công nghiệp lâu năm ở nước ta hiện nay:
Các loại cây chủ yếu như cao su, cà phê và điều, dừa, chè, hồ tiêu. Trong số
các cây này thì cao su, cà phê và điều chiếm diện tích cao nhất cây công nghiệp lâu
năm của cả nước
12
Cây cà phê
Trong những năm qua, diện tích cà phê của Việt Nam tăng nhanh từ vài chục
ngàn ha lên tới 500 ngàn ha. Sản lượng cà phê tăng mạnh, đạt tốc độ tăng trưởng
khoảng 26%/năm trong giai đoạn 1995 - 1999. Trong 5 năm gần đây, tốc độ tăng
trưởng diện tích cà phê giảm mạnh do biến động trên thị trường thế giới và chính sách
của chính phủ khuyến khích giảm diện tích trồng cà phê ở những vùng không thuận
lợi. Giai đoạn 2000 - 2004, tốc độ tăng trưởng diện tích cà phê và sản lượng cà phê chỉ
đạt lần lượt -3,1%/năm và 1%/năm. Cà phê chiếm khoảng 8% giá trị sản lượng nông
nghiệp và khoảng 25% giá trị xuất khẩu nông nghiệp.
Cà phê
Cà phê của Việt Nam chủ yếu được dùng để xuất khẩu cho các tập đoàn rang
xay và thương mại lớn trên thế giới, với lượng xuất khẩu chiếm tới hơn 90% tổng sản
lượng và là nước xuất khẩu cà phê vối lớn nhất thế giới. Nghề trồng cà phê ở Việt
Nam tạo nguồn thu nhập lớn cho một nhóm đông dân cư ở nông thôn, trung du và
miền núi, tạo việc làm cho hơn 600 nghìn nông dân.
Cà phê chủ yếu được trồng ở các vùng đồi núi phía Bắc và Tây Nguyên có độ
cao từ khoảng 800m trở lên. Diện tích cà phê tập trung nhiều nhất ở vùng Tây Nguyên,
tại các tỉnh như Đắk Lắk, Đắk Nông, Gia Lai, Kon Tum, Lâm Đồng và chủ yếu là cà
phê vối. Diện tích cà phê của vùng này chiếm tới 72% tổng diện tích cả nước và sản
lượng cũng chiếm khoảng 92% tổng sản lượng cả nước. Cà phê chè trồng với diện tích
và sản lượng rất khiêm tốn chủ yếu ở vùng núi phía Bắc, tập trung nhiều ở tỉnh Sơn La
và Điện Biên.
13
Cây cao su
Đất đai và khí hậu ở nhiều vùng sinh thái của nước ta, đặc biệt là vùng Đông
Nam Bộ và Tây Nguyên rất phù hợp với việc sinh trưởng và phát triển cây cao su.
Năm 2004, diện tích cao su của vùng Đông Nam Bộ và Tây Nguyên chiếm tới 94%
tổng diện tích cả nước (trong đó, riêng vùng Đông Nam Bộ chiếm gần 70%). Nhờ vậy,
sản lượng cao su của hai vùng này cũng chiếm tới 98% tổng sản lượng của cả nước.
Ngoài ra, cao su cũng được trồng ở một số tỉnh miền Trung như Quảng Bình, Quảng
Trị nhưng sản lượng không đáng kể.
Cây hồ tiêu
Cây tiêu được trồng ở các vùng đất bazan (từ Quảng Trị trở vào đến các tỉnh
vùng Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và một số nơi khác của Nam Bộ như tỉnh Kiên
Giang và An Giang). Nhìn chung tiêu phát triển tốt ở độ cao đến 900m so với mặt
biển, trên đất đỏ bazan, đất phù sa, đất xám.
Những năm giữa thập niên 1990 trở
lại đây cây tiêu phát triển mạnh ở Việt Nam, sản lượng tăng nhanh và chiếm vị trí thứ
3 thế giới (chỉ sau Ấn Độ và Indonesia). Tiêu Việt Nam có ưu thế về chất lượng. Năm
2004, kim ngạch xuất khẩu hồ tiêu đạt trên 150 triệu đô la Mỹ, chiếm 2,8% tổng kim
ngạch xuất khẩu hàng hoá nông lâm thuỷ sản cả nước. Tổng diện tích trồng tiêu tại
Việt Nam năm 2004 khoảng 47.667ha, sản lượng đạt 66.423 tấn. So với năm 1990
diện tích tiêu năm 2004 đã tăng gấp gần 5,5 lần và sản lượng tăng 7,9 lần.
Diện tích trồng tiêu tập trung ở vùng Đông Nam bộ (27.479ha, chiếm 57,6% diện
tích cả nước), Tây Nguyên (15.809ha, chiếm 33,2 %) và Bắc Trung Bộ (3.356ha,
chiếm 7%). Năng suất tiêu không chênh lệch nhiều giữa các vùng. Tương ứng với tỷ lệ
diện tích trên, sản lượng tiêu năm 2004 của vùng Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và Bắc
Trung Bộ là 39.410, 22.906 và 2.314 tấn tương đương với 59,3%, 34,5% và 3.5% tổng
sản lượng tiêu cả nước.
Cây điều
Cây điều không kén đất, dễ trồng và chịu được thời tiết khó khăn khắc nghiệt, vì
thế rất thích hợp với đất đai và khí hậu tại vùng Duyên hải Nam Trung Bộ, Tây
Nguyên và Đông Nam Bộ. Đây cũng là cây trồng mang lại lợi ích kinh tế cao. Cây
điều luôn đứng trong nhóm những mặt hàng nông sản có giá trị xuất khẩu lớn của Việt
14
Nam. Chỉ tính riêng trong năm 2004, kim ngạch xuất khẩu điều đạt 430 triệu đô la Mỹ,
chiếm 8% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu nông lâm thuỷ sản. Do sản phẩm hạt điều
chủ yếu phục vụ xuất khẩu nên từ những năm 1990, khi giá điều trên thị trường thế
giới tăng cao thì diện tích trồng điều cũng phát triển mạnh. Đặc biệt trong giai đoạn
2000 - 2004 khi giá xuất khẩu cao, giá thu mua trong nước vượt mức 15.000 đồng/kg
thì diện tích điều tăng bình quân 10,9%/năm, đẩy sản lượng tăng lên mức kỷ lục là
31,9 %/năm.
Năm 2004, tổng diện tích điều của Việt Nam là 250.960ha, tập trung chủ yếu ở
vùng Đông Nam Bộ (179.970ha, chiếm 71,7%). Sản lượng điều của vùng này cũng
đứng đầu trên cả nước với tổng sản lượng năm 2004 là 142.361 tấn, chiếm 78,4% tổng
sản lượng điều Việt Nam (181.568 tấn). Vùng Duyên hải Nam Trung Bộ tuy diện tích
trồng không nhiều (20.499ha, tương ứng 8,2%) nhưng do hầu hết diện tích trồng đang
ở giai đoạn cho sản phẩm nên cũng đứng thứ hai của cả nước về sản lượng điều
(21.826 tấn, chiếm 12%). Trong khi đó, vùng Tây Nguyên với diện tích trồng điều
rộng lớn, chỉ đứng sau Đông Nam Bộ với tổng diện tích 49.69âh (tương đương
19,8%) lại chỉ đạt mức sản lượng là 16.956 tấn, chiếm 9,3% tổng sản lượng. Do bị
cạnh tranh với các cây trồng khác nên vùng Đồng bằng sông Cửu Long chỉ trồng một
diện tích nhỏ là 779ha, khoảng 0,3% tổng diện tích điều trên cả nước. Điều không
được trồng tại miền Bắc và Bắc Trung Bộ.
Cây chè
Từ năm 1990 đến nay, diện tích chè Việt Nam tăng nhanh (trung bình
5,1%/năm). Đặc biệt, trong giai đoan 1995 - 1999 giá chè lên cao, tốc độ tăng trưởng
diện tích bình quân lên tới 8,3%/năm. Năm 2004, tổng diện tích trồng chè ở Việt nam
là 87.494ha. Song song với mở rộng diện tích, sản lượng chè cũng tăng, thậm chí còn
nhanh hơn tốc độ tăng diện tích, đạt mức bình quân là 9,5%/năm trong giai đoạn 1990
- 2004. Do chất lượng chè Việt Nam thấp nên kim ngạch xuất khẩu chưa cao. Năm
2004, kim ngạch xuất khẩu chè mới đạt 91,5 triệu đô la Mỹ, chiếm khoảng 1,7% tổng
kim ngạch xuất khẩu nông lâm thuỷ sản.
Chè tập trung chủ yếu ở các vùng Đông Bắc, Tây Bắc và Tây Nguyên. Riêng các
tỉnh trung du miền núi phía Bắc thuộc vùng Đông Bắc đã có 52.452ha, chiếm 59,9%
tổng diện tích chè cả nước; tiếp theo là vùng Tây Nguyên với diện tích 26.952ha,
chiếm 30,8%. Trong khi đó, tại vùng Tây Bắc, do điều kiện địa hình và thời tiết không
thuận lợi, diện tích chè chỉ là 8.654ha tương đương với 9,2% tổng diện tích chè trên cả
nước.
Vùng Tây Nguyên (nơi có độ cao trung bình) có điều kiện sinh thái phát triển các
giống chè tốt, năng suất cao. Tuy diện tích chè vùng này chỉ chiếm 30,8% diện tích
chè cả nước nhưng trong năm 2004 sản lượng đạt tới 155.668 tấn, chiếm 39,8% tổng
sản lượng cả nước. Chè vùng Đông Bắc (vùng thấp) có khả năng phát triển khá tốt,
thời kỳ sinh trưởng dài trong năm nên cũng đạt được mức sản lượng là 201.834 tấn,
chiếm 51,5%. Vùng Tây Bắc có địa hình phức tạp, phân cắt mạnh, cơ sở hạ tầng kém,
tập quán canh tác lạc hậu nên sản lượng chè sản xuất tại khu vực này chỉ tương đương
8,7% sản lượng cả nước, đạt 34.097 tấn. Tuy nhiên, đây lại là vùng có điều kiện sinh
thái đặc biệt thích hợp cho phát triển các giống chè Shan cho sản phẩm chất lượng cao.
Cây ăn quả
15
Việt Nam có điều kiện tự nhiên và khí hậu phù hợp để phát triển đa dạng các loại
cây ăn quả, từ quả ôn đới như mận, đào, đến quả cận nhiệt đới như vải thiều, nhãn,
cam hay quả nhiệt đới như măng cụt, soài, sầu riêng, dứa, chuối... Trung bình trong
giai đoạn 1995 - 1999, diện tích trồng cây ăn quả tăng 10,3%/năm, cao hơn nhiều so
với tốc độ tăng bình quân 3,3%/năm trong giai đoạn 1990 - 1994.
Năm 2004, tổng
diện tích cây ăn quả Việt Nam vào khoảng 747.803ha, trong đó tập trung chủ yếu tại
vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam Bộ và Đông Bắc với diện tích tương ứng
là 260.253ha, 132.937ha và 136.262ha. Một số cây ăn quả chính có năng suất và sản
lượng tăng nhanh như xoài, dứa, cây có múi với mức tăng bình quân sản lượng trong
giai đoạn 2000 - 2004 lần lượt là 15,4%/năm, 9,7%/năm và 6%/năm. Trong khi đó,
diện tích trồng nhãn giảm tới 7,7%/năm và sản lượng giảm 1,3%/năm trong cùng giai
đoạn.
Trước đây, hầu hết các loại cây ăn quả được trồng hoặc xung quanh nhà với một
vài cây hoặc tại các vườn cây ăn quả tập trung với qui mô nhỏ từ 0,5ha đến 2ha. Trong
những năm gần đây cùng với chính sách khuyến khích phát triển kinh tế trang trại của
Nhà nước đã hình thành và phát triển nhiều vườn cây ăn quả có diện tích rất lớn đến
vài chục ha, tập trung ở vùng Đông Bắc, Tây Bắc, Tây Nguyên, Đồng bằng sông Cửu
Long, và Đông Nam Bộ.
c . Chăn nuôi:
Chăn nuôi là một nghành quan trọng của nông nghiệp hiện đại, nuôi lớn vật nuôi
để sản xuất những sản phẩm như: thực phẩm, lông, và sức lao động. Sản phẩm từ chăn
nuôi nhằm cung cấp lợi nhuận và phục vụ cho đời sống sinh hoạt của con người. Chăn
nuôi xuất hiện lâu đời trong nhiều nền văn hóa kể từ khi loài người chuyển đổi từ lối
sống săn bắn hái lượm sang định canh định cư.
Trâu, bò
Bảng 1 – Tình hình ngành chăn nuôi trâu bò
Các yếu tố
Số lượng
Sản lượng thịt
Sản lượng sữa
16
Năm 2006
9,4 triệu con
(bò 6,5 triệu, trâu
2,9 triệu)
223.000 tấn
216.000 tấn
Năm 2007
9,7 triệu con
(bò 6,7 triệu, trâu
gần 3 triệu)
273.000 tấn
234.000 tấn
Ghi chú
Đàn bò sữa giảm từ
113.000 con năm 2006
xuống còn 110.000 con
năm 2007
tươi
Trong giai đoạn 2000 - 2004, tăng trưởng bình quân của tổng đàn bò cả nước đạt
4,4%/năm. Số đầu con đàn bò năm 2004 là 5,004,000 con. Sản lượng thịt bò chiếm
khoảng 5% lượng thịt hơi của các loại gia súc gia cầm. Chăn nuôi bò khá phát triển ở
miền Trung. Hai vùng có số lượng bò nhiều nhất nước là vùng Bắc Trung Bộ và
Duyên hải Nam Trung Bộ, chiếm 22% và 23% tổng đàn bò cả nước. Chăn nuôi bò ở
vùng Tây Nguyên và Đồng bằng sông Hồng cũng phát triển mạnh mẽ. Những vùng có
sản lượng thịt bò cao của cả nước là Duyên hải Nam Trung Bộ, Đông Nam Bộ, Đông
Bắc và Bắc Trung Bộ.
Tốc độ tăng trưởng của tổng đàn trâu trên cả nước những năm gần đây giảm dần
do quá trình cơ giới hóa nông nghiệp nông thôn. Số đầu trâu năm 2000 là 2,900,000
con, năm 2004 còn lại 2,870,000 con trên cả nước. Sản lượng thịt trâu của Việt Nam
cũng giảm bình quân 2,7%/năm từ 1996 - 2000. Đàn trâu ở vùng Đồng bằng sông
Hồng, Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long giảm xuống nhanh chóng trong
thời gian gần đây. Giai đoạn 1990 - 2000, số trâu ở Đồng bằng sông Cửu Long giảm
bình quân 14%/năm. Tuy nhiên ở miền núi con trâu vẫn đóng vai trò quan trọng trong
việc cung cấp sức kéo. Số lượng trâu ở vùng Tây Bắc tăng 4%/năm, ở Tây Nguyên
tăng 5,6%/năm. Vùng Tây Nguyên và Tây Bắc, sản lượng thịt trâu tăng bình quân
13,4%/năm và 6%/năm.
Tác ðộng của WTO ðối với ngành chãn nuôi bò sữa
Chăn nuôi bò sữa sẽ chịu tác động nhiều nhất do sản xuất trong nước ít, phải phụ
thuộc phần lớn vào nhập khẩu. Các đối thủ mạnh về xuất khẩu sữa là Úc, New
Zealand, Mỹ, EU. Người nông dân chăn nuôi bò sữa sẽ là đối tượng chịu tác động
nhiều hơn so với các nhà máy chế biến sữa.
Nhập khẩu thịt bò từ Úc, New Zealand, Mỹ có khả năng sẽ tăng trong thời gian
tới. Nguyên nhân chính một phần do giảm thuế, nhưng phần lớn là do chất lượng cao
và đảm bảo VSATTP của các sản phẩm nhập ngoại sẽ làm tăng nhu cầu tiêu
Lợn
Chăn nuôi lợn ở Việt Nam phát triển chủ yếu ở vùng Đồng bằng sông Hồng và
Đồng bằng sông Cửu Long. Trong 10 năm qua, tốc độ tăng trưởng đàn lợn bình quân
vùng Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long đạt tương ứng là 7,5%/năm
và 5,7%/năm. Năm 2000, số đầu lợn của vùng Đồng bằng sông Hồng chiếm 27% tổng
đàn cả nước và Đồng bằng sông Cửu Long chiếm 15%.
Những năm gần đây chăn nuôi lợn quy mô lớn, theo kiểu công nghiệp và thương
mại hóa cao phát triển mạnh ở vùng Đông Bắc và Đông Nam Bộ. Chăn nuôi lợn ở
vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Nam Trung Bộ phát triển chậm và có xu hướng
giảm; tốc độ tăng bình quân đầu con trong 5 năm gần đây chỉ đạt 2,3%/năm và
2,8%/năm.
Từ năm 1990 đến năm 2000, sản lượng thịt lợn của Việt Nam tăng gần 2 lần, đạt
trên 1,4 triệu tấn năm 2000. Từ năm 2000 đến nay, sản lượng thịt lợn chiếm trung bình
76% tổng sản lượng thịt hơi các loại. Vùng sản xuất nhiều thịt lợn nhất là Đồng bằng
sông Hồng. Năm 2000, sản lựợng thịt lợn hơi của vùng Đồng bằng sông Hồng chiếm
17
26% tổng sản lượng thịt lợn cả nước, Đồng bằng sông Cửu Long chiếm 21%, Đông
Nam Bộ chiếm 12,4%.
Bảng 2 – Tình hình ngành chăn nuôi lợn
Các yếu tố
Năm 2006
Số lượng
26,8 triệu con
Sản lượng thịt hơi 2,5 triệu tấn
Năm 2007
26,6 triệu con
2,55 triệu tấn
Ghi chú
Thịt lợn chiếm trên
70% sản lượng thịt hơi
các loại
Chăn nuôi lợn đóng vai trò quan trọng nhất cho sự phát triển của ngành chăn
nuôi Việt Nam. Thu nhập từ chăn nuôi lợn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu nhập của
rất nhiều hộ gia đình nông thôn. Giai đoạn 2006- 2007 tỷ lệ tăng trưởng của số lượng
lợn đạt là70%, 2006-2007, tổng đàn lợn trên cả nước đạt 26,8 triệu con giảm còn 26,6
triệu con. Tuy số lượng giảm nhưng sản lượng thịt tăng từ 2,5 triệu tấn lên 2,55 triệu
tấn nguyên nhân là do nguồn thức ăn ngày càng đa dạng bên cạnh đó vấn đề phòng
ngừa dịch bệnh cao nhiều giống mới ra đời cho năng xuất cao….
Gia cầm
Trong chăn nuôi gia cầm, gà là vật nuôi chiếm tỷ trong chính cả về đầu con và
sản lượng thịt (76%). Phần còn lại chủ yếu là chăn nuôi vịt, rất phát triển ở vùng Đồng
bằng sông Cửu Long. Sản lượng của vùng Đồng bằng sông Cửu Long chiếm 5
Giai đoạn cuối năm 2003 từ Dịch cúm gia cầm bùng phát tại Việt Nam đã gây
thiệt hại nặng nề đến ngành chăn nuôi gia cầm. Có khoảng 44.000.000 gia cầm đã bị
tiêu huỷ trong giai đoạn cuối năm 2003 và đầu năm 2004, ước tính tổng thiệt hại
khoảng 1,3 nghìn tỷ đồng. Năm 2004 tổng đàn gia cầm của cả nước là 218.200.000
con.
Chăn nuôi gia cầm phát triển mạnh nhất ở vùng Đồng bằng sông Hồng và Đồng
bằng sông Cửu Long. Riêng năm 2000 số gia cầm của vùng Đồng bằng sông Hồng và
Đồng bằng sông Cửu Long chiếm 50% tổng đàn gia cầm toàn quốc. Ngoài ra, vùng
Đông Bắc và Đông Nam Bộ cũng phát triển chăn nuôi gia cầm trong những năm qua.
Bảng 3 – Tình hình ngành sản xuất gia cầm
Các yếu tố
Số lượng
Sản lượng thịt hơi
Sản lượng trứng
Năm 2006
214 triệu con
770.000 tấn
3,97 tỷ quả
Năm 2007
226 triệu con
372.000 tấn
4,4 tỷ quả
Chăn nuôi gia cầm phát triển mạnh mẽ ở hộ gia đình. Mô hình chăn nuôi gà thả
vườn trong hộ gia đình được áp dụng khá rộng rãi và đạt hiệu quả cao trên cả nước, kể
cả vùng núi và cao nguyên. Tốc độ tăng trưởng trung bình giai đoạn 20006- 2007 tăng
số lượng từ 214 triệu con lên 266 triệu con.
Hộp 2 - Tác ðộng của WTO ðối với ngành gia cầm
Tuy không phải cắt giảm thuế theo cam kết WTO, nhưng với tình hình giá gà
trong nước cao, tình trạng dịch cúm gia cầm chưa khống chế được triệt để, mức độ
18
nghi ngại về vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm đối với gia cầm trong nước, khả năng
nhập khẩu gia cầm từ nước ngoài được dự báo sẽ tăng.
Ngành chăn nuôi gia cầm vì thế sẽ khó khăn hơn trong cạnh tranh để giữ thị
phần nội địa.
6% sản lượng thịt vịt hơi trên toàn quốc.
2.
Ngành lâm nghiệp:
các hoạt động lâm nghiệp chủ yếu của việt nam hiện nay bao gồm, trồng và
nuôi rừng,khai thác gỗ và lâm sản các loại, bảo vệ rừng đầu nguồn, rừng nguyên sinh,
công viên quốc gia
Nước ta nằm trong khu vực nhiệt đới bắc bán cầu thuộc khu vực gió mùa Đông
Nam Á nên phổ biến là rừng nhiệt đới với hệ sinh thái nhiều tầng, có sinh khối cao và
có giá trị kinh tế cao với nhiều loài gỗ quý nhiệt đới, bên cạnh đó pha tạp them rừng
cận nhiệt đới và ôn đới trên đỉnh núi cao và các khu rừng ven biển
BIỂU 53: GIÁ TRỊ SẢN XUẤT LÂM NGHIỆP
( Giá hiện hành )
Triệu đồng mill.dongs
2004
Tổng số 1. Trồng và nuôi
rừng
- Trồng rừng tập
trung
- Trồng cây phân
tán
2005
269,620 345,050
2006
357,000
2007
2008
390,110 423,430
2009
450,530
12,348
19,294
20,128
20,549
20,247
20,275
453
1,363
612
1,153
1,203
1,174
2,145
5,449
5,882
6,084
6,760
6,867
- Chăm sóc rừng
9,750
12,482
13,634
13,312
12,040
11,970
- Tu bổ rừng
2. Khai thác lâm
sản
-
244
264
238,734 277,633
276,122
299,960 332,192
354,231
- Gỗ các loại
117,975 136,261
133,976
149,592 160,851
194,407
- Củi các loại
- Tre, luồng, cừ
tràm
3. Các hoạt động
DV lâm nghiệp
khác
-
-
41,478
59,892
62,516
67,300
75,062
82,890
79,281
81,480
79,630
83,068
96,279
76,934
18,538
48,123
60,750
69,601
70,991
76,024
Từ số liệu trên ta thẩy trong 6 năm từ năm 2004 đến 2009 tổng số trồng và nuôi
rừng tăng qua các năm cụ thể là năm 2004:12,348 triệu đồng, năm 2005: 19,294 triệu
19
đồng, đến năm 2009: 20,275 triệu đồng bên cạnh đó việc khai thác các loại gỗ cũng
tăng cụ thể là năm 2004: 238,734 triệu đồng, năm 2009: 354,231 triệu đồng
Trong hai mươi năm qua Diện tích rừng của Việt Nam đã tăng hơn 12%, chính
phủ Việt Nam quan tâm rất nhiều đến việc bảo vệ rừng và phát triển, nhờ đó “độ che
phủ rừng tăng từ 27% năm 1990 đến 39,5% năm 2010, Việt Nam hiện có khoảng 13,4
triệu ha rừng, trong đó, gần 11 triệu ha là rừng tự nhiên, hơn 2 triệu ha rừng trồng.
Trong đó Tây nguyên là vùng lâm nghiệp lớn nhất nước diện tích tự nhiên là
5.612 nghìn ha, hiện còn 3.140 nghìn ha rừng các loại, trữ lượng 238,9 triệu m3, chiếm
tới 31,9% diện tích và 36,3% trữ lượng rừng toàn quốc (trong đó rừng giàu chiếm
41,2%; rừng trung bình chiếm 51,2% so với tổng trữ lượng rừng cùng loại của cả
nước). ở Bắc Trung Bộ và Đông Bắc diên tích rừng và trữ lượng gỗ có nhiều nhưng
không nhiều bằng Tây Nguyên. ở đồng bằng sông Hồng chủ yếu là rừng trồng phân
tán nên trữ lượng không lớn.đồng bằng song Cửu Long thì chủ yếu là rừng sú, vẹt,
tràm…trong 5 năm qua (2006 - 2010), diện tích rừng các tỉnh Tây nguyên - Đông Nam
Bộ liên tục bị suy giảm với tổng diện tích 158.000ha, chiếm 31,6%
Trong số những diện tích rừng bị suy giảm của khu vực Tây nguyên - Đông
Nam Bộ, rừng bị mất chủ yếu do chuyển đổi mục đích để trồng cao su. Trong 5 năm
qua, khu vực này đã chuyển đổi mục đích sử dụng 95.497ha rừng, chiếm 60,1% diện
tích rừng bị suy giảm. Trong đó, các tỉnh Tây nguyên chuyển đổi mục đích sử dụng
79.194ha (bằng 45,8% của cả nước) và Đông Nam Bộ chuyển đổi 16.303ha. Mục đích
chuyển đổi rừng trồng cao su của khu vực là 74.500ha và mục đích sử dụng khác (thủy
điện, thủy lợi, trồng nương rẫy, khu công nghiệp…) là 20.500ha. Theo quy định, việc
chuyển đổi rừng sang mục đích sử dụng khác phải trồng rừng thay thế. Nhưng trên
thực tế, hầu hết các dự án không thực hiện điều này. Sau khi giao dự án, nhiều địa
phương buông lỏng quản lý để chủ rừng mặc sức chuyển đổi rừng tràn lan và không
phục hồi lại rừng.
Trong khi đó, tình trạng khai thác rừng trái phép ở khu vực này trong 5 năm qua
đã làm mất 9.700ha rừng (chiếm 6,1% diện tích rừng bị suy giảm), bình quân mỗi năm
mất 2.000ha. Mặc dù không chiếm tỷ trọng lớn trong những nguyên nhân suy giảm
rừng nhưng cũng gây thiệt hại cho tài nguyên thiên nhiên và tạo ra sự bức xúc trong xã
hội. Tính riêng trong 9 tháng đầu năm nay, các tỉnh Tây nguyên - Đông Nam Bộ phát
hiện 1.710 vụ phá rừng trái phép (chiếm 68,6% toàn quốc), làm thiệt hại 1.047ha rừng.
Đối tượng phá rừng chủ yếu là do đồng bào dân tộc tại chỗ, dân di cư tự do và một số
bộ phận người dân khác. Mục đích họ phá rừng để lấy đất sản xuất, mua bán kiếm lời,
đòi các dự án đền bù… Địa bàn bị phá rừng chủ yếu ở khu vực các doanh nghiệp được
tỉnh giao, cho thuê đầu tư sản xuất nông, lâm nghiệp. Trọng điểm xảy ra ở các huyện
Tuy Đức, Đắc Song (Đắc Nông), Đạ Huoai, Lạc Dương (Lâm Đồng), Krông Năng, Ea
Súp, Ea H’leo (Đắc Lắc), Mang Yang, K’bang (Gia Lai)…
20
- Xem thêm -