Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Bài tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa...

Tài liệu Bài tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống dân tộc

.DOC
30
407
101

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG CƠ SỞ II TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ---------***------- BÀI TIỂU LUẬN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG DÂN TỘC Nhóm 14_ lớp K54E 1) Phạm Huỳnh Kim Ngân 2) Nguyễn Thành Lộc 3) Nguyễn Hồng Tâm 4) Huỳnh Thị Thúy Ngân 5) Bùi Ngọc Thành 6) Nguyễn Văn Thành 7) Trần Thị Kim Ngân 8) Lê Hà My MSSV 1501015342 1501015283 1501015480 1501015334 1501015491 1501015494 1501015344 1501015312 MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU...................................................................................................................1 I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA VÀ VẤN ĐỀ GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC.............................................................2 1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa....................................................................2 1.1. II. Khái niệm về văn hóa theo quan điểm của Hồ Chí Minh................................2 1.1.1. Định nghĩa văn hóa của Hồ Chí Minh......................................................2 1.1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về các vấn đề chung của văn hóa..............2 1.1.3. Quan điểm của Hồ Chi1 Minh về một số lĩnh vực chính của văn hóa.....4 1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ...........................................................................................................................5 1.2.1. Khái niệm về bản sắc văn hóa dân tộc......................................................5 1.2.2. Tầm quan trọng của việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc...6 TÌNH HÌNH THỰC TIỄN VỀ VẤN ĐỀ GIỮ GÌN BẢN SẮC VĂN HOÁ DÂN TỘC HIỆN NAY....................................................................................................9 1. Thực trạng việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá truyền thống dân tộc.....9 2. Các yếu tố tác động...........................................................................................15 2.1. Truyền thống giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc trong quá khứ.......................15 2.2. Lòng tự tôn dân tộc.........................................................................................17 2.3. Toàn cầu hoá...................................................................................................18 3. Giải pháp đề xuất..............................................................................................21 3.1. Củng cố và tiếp tục xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, phong phú, đa dạng .........................................................................................................................22 III. 3.2. Đẩy mạnh giáo dục chính trị tư tưởng và xây dựng lối sống văn hóa..........22 3.3. Không ngừng phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật................................23 3.4. Phát triển hệ thống thông tin đại chúng.........................................................23 Ý NGHĨA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ THỰC TIỄN..................................................................................................24 TỔNG KẾT....................................................................................................................27 TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................................28 LỜI MỞ ĐẦU Là một người con của nước Việt, hẳn ai cũng biết và tự hào về chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, vị cha già kính yêu với tấm lòng nhân hậu, độ lượng, khoan dung, yêu thương đồng bào. Đất nước ta hoà bình, độc lập, từng bước đi lên hội nhập với thế giời như ngày hôm nay là nhờ vào sự lãnh đạo của Người. Trong tác phẩm “dưới lá cờ vẻ vang”, đồng chí Lê Duẫn từng viết “Mỗi bước đi của nhân dân ta và của Đảng ta trong 40 năm qua đếu gắn liền với cuộc đời cách mạng vô cùng sôi nỏi đẹp đẽ của Hồ Chủ Tịch. Giờ đây, tuy Bác đã đi xa, nhưng Người đã để lại cho dân tộc Việt Nam một tài sản vô giá, đó là di sản văn hoá vô cùng phong phú và cao đẹp. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm của Hồ Chí Minh trong sự nghiệp cách mạng của ông được Đảng Cộng sản Việt Nam tổng kết, hệ thống hóa. Hệ thống tư tưởng này bao gồm những quan điểm về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; vận dụng và phát triển Chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Theo Hồ Chí Minh: Văn hóa là một kiến trúc thượng tầng; những cơ sở hạ tầng của xã hội có kiến thiết rồi, văn hóa mới kiến thiết được và đủ điều kiện phát triển được; văn hóa cũng là động lực của xã hội và nền kinh tế nước nhà; văn hóa soi đường cho quốc dân đi. Trên thực tế, văn hóa bao gồm toàn bộ những giá trị vật chất và những giá trị tinh thần mà loài người đã sáng tạo ra, nhằm đáp ứng sự sinh tồn và cũng là mục đích cuộc sống của loài người. Văn hoá là nhân tố đảm bảo cho sự phát triển bền vững của một quốc gia. Với tầm quan trọng của nền văn hóa dân tộc, nhóm chúng tôi xin cung cấp thêm cho người đọc nhứng giá trị thực sự của nền văn hóa trong hệ tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như vấn đề giữ gìn và phát triển bản sắc dân tộc trong thời đại công nghệ phát triển hiện nay thông qua đề tài này. 1 I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA VÀ VẤN ĐỀ GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC 1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa 1.1. Khái niệm về văn hóa theo quan điểm của Hồ Chí Minh 1.1.1. Định nghĩa văn hóa của Hồ Chí Minh “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn mặc ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sang tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn.” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.3, NXN Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 2000). Cùng với định nghĩa về văn hóa, Hồ Chí Minh còn nêu ra 5 điểm lớn định hướng cho việc xây dựng nền văn hóa dân tộc: “1. Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường 2. Xây dựng luân lý: biết hi sinh, làm lợi cho quần chúng 3. Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong xã hội 4. Xây dựng chính trị: dân quyền 5. Xây dựng kinh tế.” (Hồ Chí Minh toàn tập, t.3) 1.1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về các vấn đề chung của văn hóa 1.1.2.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vị trí và vai trò của văn hóa trong đời sống xã hội a) Văn hóa là đời sống tinh thần của xã hội, thuộc kiến trúc thượng tầng Văn hóa ngang hàng với chính trị, kinh tế, xã hội, tạo thành 4 vấn đề chủ yếu của đời sống xã hội và các vấn đề này có quan hệ mật thiết với nhau, được coi trọng như nhau. 2 Trong quan hệ với chính trị - xã hội: Chính trị, xã hội được giải phóng thì văn hóa mới được giải phóng. Chính trị mở đường cho văn hóa phát triển. Trong quan hệ với kinh tế: Kinh tế thuộc về cơ sở hạ tầng, là nền tảng của việc xây dựng văn hóa. Phải chú trọng xây dựng kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng để có điều kiện xây dựng và phát triển văn hóa. b) Văn hóa không thể đứng ngoài mà phải ở trong kinh tế và chính trị, phải phục vụ nhiệm vụ chính trị và thúc đẩy sự phát triển của kinh tế c) Văn hóa có tính tích cực, chủ động, đóng vai trò to lớn như một động lực, thúc đẩy sự phát triển của kinh tế và chính trị. Văn hóa phải ở trong kinh tế và chính trị, nghĩa là:  Văn hóa phải tham gia thực hiện những nhiệm vụ chính trị, thúc đẩy xây dựng và phát triển kinh tế. Quan điểm này định hướng cho việc xây dựng một nền văn hóa mới ở Việt Nam, định hướng cho mọi hoạt động của văn hóa.  Kinh tế và chính trị cũng phải có văn hóa. Vận dụng sang tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta chủ trương gắn văn hóa với phát triển, chủ trương đưa các giá trị văn hóa thâm sâu vào inh tế và chính trị, làm cho văn hóa thực sự vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. 1.1.2.2. Quan điểm về tính chất của nền văn hóa Tính chất dân tộc: Cốt cách dân tộc, tinh túy bên trong, đặc trưng của văn học. Tính khoa học: Thuận theo trào lưu tiến hóa của tư tưởng hiện đại: Hòa bình, độc lập, dân chủ, tiến bộ xã hội. Đấu tranh với những gì trái với khoa học, phản tiến bộ, duy tâm, thần bí, mê tín dị đoạn, biết gạn đục khơi trong, kế thừa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Tính chất đại chúng: phục vụ nhân dân, hợp với nguyện vọng, đâm đà tính nhân văn, là nền văn hóa do quần chúng xây dựng. 1.1.2.3. Quan điểm về chức năng của văn hóa: Gồm 3 chức năng chủ yếu: 3 Bồi dưỡng lý tưởng, tư tưởng đúng đắn, tình cảm cao đẹp: Lý tưởng lớn: Độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, Tình cảm lớn: Yêu nước thương dân, yêu con người,… Mở rộng hiểu biết, nâng cao dân trí: Bắt đầu từ chỗ biết đọc biết viết để có thể hiểu biết các lĩnh vực khác của đời sống xã hội, để nhân dân có thể tham gia sáng tạo và hưởng thụ văn hóa. Bồi dưỡng những phẩm chất, phong cách và lối sống tốt đẹp, lành mạnh; hướng con người tới chân, thiện, mỹ để hoàn thiện bản thân: Làm sao cho văn hóa thấm sâu vào tâm lý quốc dân, nghĩa là văn hóa phải sửa đổi được những tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ; văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi. 1.1.3. Quan điểm của Hồ Chi1 Minh về một số lĩnh vực chính của văn hóa 1.1.3.1. Văn hóa giáo dục Phê phán nền văn hóa phong kiến (tầm chương, kinh viện, xa rời thực tế, bất bình đẳng, trọng nam khinh nữ) và nền văn hóa thực dân (ngu muội, đồi bại, xảo trá). Mục tiêu: Thực hiện 3 chức năng của văn hóa thông qua việc dạy và học. Nội dung: Phù hợp với thực tiễn Việt Nam, giáo dục phải toàn diện, tức là bao gồm cả văn hóa, chính trị, khoa học – kỹ thuật, chuyên môn nghề nghiệp, lao động. Phương châm: Học đi đôi với hành, học ở mọi nơi, mọi lúc, mọi người, học suốt đời, coi trọng việc tự học, tự đào tạo và đào tạo lại. Phương pháp: Phù hợp với trình độ, mục tiêu,… Về đội ngũ giáo viên: quan tâm xây dựng, bồi dưỡng có đức, có tài, yêu nghề. 1.1.3.2. Văn hóa văn nghệ: Văn hóa – văn nghệ là một mặt trận, nghệ sĩ là chiến sĩ, tác phẩm văn nghệ là vũ khí sắc bén trong đấu tranh cách mạng, trong xây dựng xã hội mới, con người mới. Văn nghệ gắn liền với thực tiễn của đời sống nhân dân. 4 Phải có những tác phẩm văn nghệ xứng đáng với thời đại mới của đất nước và dân tộc. 1.1.3.3. Văn hóa đời sống: Đạo đức mới: Thực hành “cần, kiệm, liêm, chính”. Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định: “Nếu không giữ đúng Cần, Kiệm, Liêm, Chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân”, “Nêu cao và thực hành Cần, Kiệm, Liêm, Chính tức là nhen lửa cho đời sống mới” (Hồ Chí Minh toàn tập, t.5). Lối sống mới: Sống có lý tưởng, đạo đức, văn minh, tiên tiến, kết hợp hài hòa truyền thống dân tộc với tinh hoa văn hóa nhân loại. Phải làm sao cho mỗi hoạt động của con người đều mang tính văn hóa. Nếp sống mới: Nếp sống văn minh, là quá trình làm cho lối sống mới dần dần trở thành thói quen, phong tục tập quan tốt đẹp, kế thừa và phát triển những thuần phong mỹ tục lâu đời của dân tộc. Đời sống mới không phải cái gì gì cũ cũng bỏ hết, không phải cái gì cũng làm mới.Cái gì cũ mà xấu thì phải bỏ, cái gì cũ mà không xấu, nhưng phiền phức thì sửa đổi. Cái gì cũ mà tốt thì phải phát triển thêm, cái gì mới mà hay thì phải làm, phải bổ sung. 1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc 1.2.1. Khái niệm về bản sắc văn hóa dân tộc “Bản sắc văn hóa dân tộc là hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần được dân tộc sáng tạo ra trong lịch sử, là những nét độc đáo rất riêng của dân tộc này so với dân tộc khác.” (Một số vấn đề lý luận về bản sắc văn hóa dân tộc, ThS. Hoàng Thị Hương) 1.2.2. Tầm quan trọng của việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc 1.2.2.1. Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là giữ gìn cốt cách dân tộc trong quá trình phát triển của dân tộc. Nói tới cốt cách của một dân tộc thì không chỉ nói tới những nét đặc sắc, đậm đà được biểu hiện qua tính cách mà còn thông qua toàn bộ đời sống vật chất và tinh thần của dân tộc. Cốt cách dân tộc là cái tương đối ổn định, bền vững bởi nó 5 được hình thành, tạo dựng và khẳng định trong lịch sử tồn tại và phát triển của dân tộc. Giữ được cốt cách dân tộc sẽ giúp dân tộc thích ứng được với những cái mới và "dân tộc hóa" cái mới để biến nó thành tài sản của dân tộc, mang hồn của dân tộc. Thực tế, sự thiếu thốn, nghèo nàn về bản sắc văn hóa, sự mất mát về cốt cách dân tộc nhiều khi còn đáng sợ hơn sự thiếu thốn, nghèo nàn về vật chất. Sự mất mát về bản sắc văn hóa dân tộc làm mất đi cốt cách dân tộc, có thể làm mất đi ý nghĩa tồn tại của một dân tộc. Như vậy, sự phát triển kinh tế có thể mang lại sự đầy đủ về vật chất và tiện nghi sinh hoạt nhưng không đồng nhất với sự phồn vinh, thịnh vượng nếu ở đó thiếu vắng những giá trị văn hóa dân tộc. 1.2.2.2. Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là cơ sở củng cố ý thức tự tôn dân tộc và là nền tảng cho sự phát triển kinh tế bền vững. Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc không chỉ nhấn mạnh những nét đặc sắc của dân tộc mà còn là giữ gìn những giá trị thuộc về dân tộc đó. Đồng thời việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở ý thức tự giác của cả cộng đồng dân tộc. Ý thức tự tôn dân tộc được củng cố thông qua việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc không chỉ có ý nghĩa trong việc phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc mà cả đối với quá trình phát triển nói chung, phát triển kinh tế nói riêng. ý thức đó có thể trở thành sức mạnh giúp dân tộc vượt qua những khó khăn, thử thách trong quá trình phát triển. Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình phát triển kinh tế thời kỳ hội nhập quốc gia sẽ góp phần phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của nền kinh tế thị trường trong hoàn cảnh hội nhập quốc tế, bảo đảm cho sự phát triển của dân tộc giữ vững được độc lập, tự chủ trên mọi phương diện. Đảng ta khẳng định: trong điều kiện kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế, phải đặc biệt quan tâm giữ gìn và nâng cao văn hóa dân tộc, kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức, tập quán tốt đẹp và lòng tự hào dân tộc. 1.2.2.3. Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là tiếp tục phát huy tính sáng tạo của dân tộc trong quá trình hội nhập quốc tế. 6 Ngày nay, hội nhập quốc tế, một mặt, tạo điều kiện để các nền văn hóa dân tộc được giao lưu, hợp tác và phát triển; mặt khác, cũng tạo ra xu hướng toàn cầu hóa về ngôn ngữ, về văn hóa, về lối sống và quan niệm giá trị. Quá trình đó đặt các dân tộc trước nguy cơ đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc, đồng thời còn ẩn chứa nguy cơ làm suy giảm tính sáng tạo của các dân tộc trong quá trình phát triển. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, một mặt, phải gắn liền với chống lạc hậu, lỗi thời "trong phong tục, tập quán, lề thói cũ"; mặt khác, giữ gìn phải biết lọc bỏ - bổ sung - phát triển một cách sáng tạo, phù hợp với đời sống hiện đại. 1.2.2.4. Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là kế thừa và phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Trải dài theo năm tháng của lịch sử, mỗi dân tộc hun đúc cho mình rất nhiều giá trị văn hóa trở thành truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Những truyền thống đó được lưu giữ, bổ sung, phát triển phù hợp với điều kiện mới và đáp ứng những yêu cầu phát triển của lịch sử. Những tinh thần đó tiếp tục được bổ sung những nhân tố mới, cách thức biểu hiện mới để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế thời kỳ hội nhập quốc tế. Ngày nay yêu nước không chỉ để chiến thắng kẻ thù xâm lược mà còn là để xây dựng một dân tộc phát triển về mọi mặt để có thể "sánh vai" cùng các dân tộc khác trên trường quốc tế. 1.2.2.5. Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc gắn với bảo vệ mối quan hệ hòa hợp giữa con người với tự nhiên và xã hội. Ngày nay, trước sự tác động của biến đổi khí hậu và sự bất ổn tàn khốc của chiến tranh, khủng bố đang hằng ngày hằng giờ cảnh báo cho loài người phải biết quan tâm đến việc sống hòa hợp với tự nhiên và xã hội như một nhân tố không thể thiếu để phát triển, trong đó có phát triển kinh tế. Môi trường tự nhiên và môi trường xã hội không chỉ là môi trường sống mà còn là môi trường văn hóa, nơi những giá trị văn hóa hay bản sắc văn hóa dân tộc hình thành, tồn tại và phát triển. Để giữ gìn văn hóa nói chung, bản sắc văn hóa nói riêng, tất yếu phải bảo vệ môi trường tự nhiên và xã hội. 7 Tóm lại, với Hồ Chí Minh, việc giữ gìn, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là rất cần thiết, là việc phải làm, nên làm, nhưng quan trọng hơn lại là việc biết vận dụng và phát triển những bản sắc ấy vào cuộc sống. Đó chính là cách tốt nhất để bảo vệ, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Ở Hồ Chí Minh luôn có sự gắn bó chặt chẽ giữa truyền thống và hiện đại. Theo Người, mọi hiện đại, tiên tiến đều bắt nguồn từ truyền thống tốt đẹp. Từ tầm nhìn của một nhà văn hóa lớn, Người luôn nhắc nhở mọi nhân dân, nhất là với cán bộ, Đảng viên phải biết quý trọng vốn cổ dân tộc, “dân ta phải biết sử ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”. 8 II. TÌNH HÌNH THỰC TIỄN VỀ VẤN ĐỀ GIỮ GÌN BẢN SẮC VĂN HOÁ DÂN TỘC HIỆN NAY 1. Thực trạng việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá truyền thống dân tộc hiện nay Hiện nay, việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá truyền thống dân tộc đang là một vấn đề đau đầu đối với các nhà lãnh đạo cũng như những nhà nghiên cứu văn hoá. Thực tế, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá truyền thống dân tộc là trách nhiệm của mỗi cá nhân và xã hội bởi lẽ bản sắc văn hoá cũng như truyền thống dân tộc là phạm trù đã được hình thành từ rất lâu đời và dần được tích luỹ theo thời gian. Thế nhưng tại sao vấn đề này lại tạo nên tiếng còi báo động đối với không chỉ là mỗi dân tộc mà còn là cả đất nước Việt Nam? Muốn hiểu rõ, ta hãy nhìn vào thực trạng của việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá truyền thống dân tộc hiện nay. Một trong những thực trạng hiện nay đó là mối quan hệ song song giữa phát triển kinh tế và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình phát triển chưa thực sự được nhận thức đúng đắn. Kinh tế đạt được tốc độ tăng trưởng liên tục, tỷ lệ đói nghèo không ngừng giảm góp phần nâng cao vị thế của dân tộc trên trường quốc tế, tuy nhiên sự phát triển đó vẫn chưa thật sự bền vững khi dựa trên nền tảng tinh thần còn thiếu vững chắc. Việc đầu tư cho phát triển tập trung nhiều ở phát triển kinh tế mà chưa có điều kiện đầu tư cho phát triển văn hóa nói chung và giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc nói riêng. Bên cạnh đó, phát triển kinh tế đâu đó vẫn có biểu hiện coi trọng lợi ích trước mắt; giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc tồn tại xu hướng chạy theo phong trào, khuôn mẫu khiến cho bản sắc văn hóa vốn có của các dân tộc kém đa dạng, phong phú. Từ đó dẫn đến trong đời sống xã hội, kinh tế có bước phát triển nhưng bản sắc văn hóa dân tộc lại bị mai một, mất dần hoặc lai căng một cách tự phát. Một trong những biểu hiện điển hình là cùng với phát triển kinh tế thương mại và du lịch là sự “thương mại hóa”, “hàng hóa hóa” những sắc thái văn hóa dân tộc dẫn đến giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc tự phát, phiến diện. Mặt khác, trong quá trình phát triển kinh tế chúng ta vẫn còn tư duy phát triển những ngành công nghiệp dựa trên khai thác tiềm năng thiên 9 nhiên mà chưa chú trọng thích đáng đến phát triển ngành công nghiệp văn hóa. Sự trì trệ của công nghiệp văn hóa dẫn đến hệ quả “kép”cả về hiệu quả kinh tế và việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Tất yếu sẽ hình thành thứ văn hóa “ăn theo”, “bắt chước” phương Tây một cách thiếu chọn lọc, tạo điều kiện cho “văn hoá xấu” thâm nhập vào đời sống của ta. Đó là một nguy cơ làm nghèo kiệt đi bản sắc văn hóa dân tộc, mất đi sức sáng tạo của một dân tộc thời hiện đại. Một thực tế điển hình là ở Việt Nam hiện nay thường có 3 dạng thức văn hóa tồn tại, phát triển bên cạnh nhau, chồng lấn nhau là: văn hóa truyền thống, văn hóa hàn lâm và văn hóa “chạy” theo thị trường. Trong đó, văn hóa “chạy” theo thị trường – rất được phương Tây ưa chuộng mang ảnh hưởng lớn nhất. Bản chất của văn hóa “chạy” theo thị trường là vì lợi nhuận và biểu hiện ở “tính hiện đại” gắn liền với văn hóa phẩm theo kiểu “đám đông”. Có nghĩa là những sản phẩm mang tính chất giải trí nhằm quảng bá để thu hút sự chú ý của người tiêu dùng Việt có chứa các yếu tố không phù hợp với thuần phong mỹ tục của người dân nơi đây. Một khi các sản phẩm này được người ta chấp nhận rộng rãi, nhất là khi người Việt mang căn bệnh sính ngoại và bệnh đám đông, nó sẽ gây nên thói quen xấu cũng như việc hình thành những “tư tưởng lạ” trong tâm trí người Việt rằng họ thích những điều “mới mẻ”, “hiện đại”, “giống Tây”. Thông qua đó, nó tước đi sự nhạy cảm, cảm xúc văn hóa chân chính của công chúng, thậm chí làm cho một bộ phận người dân coi các hành động bạo lực là hoạt động bình thường và có thể chấp nhận được. Hậu quả lớn nhất của văn hóa “chạy” theo thị trường là làm suy giảm tình thương đồng loại ở con người, chứ không chỉ dừng lại ở sự vô cảm văn hóa. Một hiện thực khác ta có thể thấy là nghệ thuật văn hóa Việt Nam truyền thống với nhiều thể loại, loại hình hiện đang bị mai một. Văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số đang đứng trước những thách thức lớn khi hàng nghìn buôn, bản, làng truyền thống với giá trị văn hóa lâu đời đặc trưng cho các dân tộc, đang có nguy cơ biến mất, hoặc bị cải tổ đến biến dạng, rất cần được hướng dẫn, hỗ trợ để bảo tồn, phát huy trong cuộc sống đương đại. Trang phục, kiến trúc, phong tục tập quán, lễ hội, thậm chí là ngôn ngữ đang đứng trước nguy cơ biến mất vì đã bị mai một nghiêm trọng. Những loại hình nghệ thuật dân gian truyền thống ngày xưa nay không còn được giới trẻ ưa chuộng 10 nữa. Sở dĩ những thể loại, loại hình đó tồn tại lâu đời và có sức hấp dẫn mạnh mẽ vì nó là văn hóa được xây dựng trên nền tảng của nền nông nghiệp lúa nước. Ngày nay khi công nghiệp tác động mạnh mẽ vào đời sống nhân dân, các thể loại đó không còn khả năng hấp dẫn và cuốn hút mạnh mẽ. Thanh niên ngày nay và cả tầng lớp trung lưu không thích xem tuồng, chèo, hát ca trù vì diễn tiến nghệ thuật lúc nghệ sĩ biểu diễn thường diễn ra chậm trong khi diễn tiến của cuộc sống đã có nhiều ảnh hưởng của nền kinh tế công nghiệp hiện đại. Đảng, Nhà nước, Bộ Văn hóa và những nghệ sĩ, những nhà nghiên cứu mang tâm huyết với các loại hình văn hóa truyền thống đang hết sức quan tâm, ra sức bảo lưu, giữ gìn và cố gắng phát triển nhưng nếu chỉ có nỗ lực từ một phía, không được sự quan tâm của đông đảo các ngành, các cấp và nhân dân thì mong muốn ấy khó có thể thực hiện được. Thứ hai,“sức khỏe” của nền văn hóa dân tộc chưa thực sự được quan tâm đúng mức do công tác giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc không thể hiện rõ nét mục đích và nhiệm vụ cụ thể trong quá trình xây dựng và phát triển. Khi “sức khỏe” đời sống tinh thần của dân tộc chưa được chăm chút, ý thức trong việc giữ gìn văn hoá chưa được hình thành thì những cái mới lạ từ bên ngoài sẽ có cơ hội xâm lấn và len lỏi vào giữa những cái được gọi là văn hoá truyền thống của nhân dân. Đây là nguy cơ “hòa tan”, tự đánh mất mình, mất bản sắc dân tộc trong phát triển kinh tế cũng như xây dựng nền văn hóa dân tộc. Có thể nói, lòng tự tôn dân tộc và ý thức giữ gìn cốt cách dân tộc chưa thật sự có chỗ đứng vững chắc trong đời sống tinh thần của cộng đồng và xã hội. Đó là phải xem xét rằng các công tác giáo dục, tuyên truyền và nhiều biện pháp giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc chỉ mới là những giải pháp tình thế trước mắt,chưa thật sự đi vào chiều sâu một cách có hệ thống vậy thì làm sao có thể tạo dựng trong lòng người nhận một giá trị thật sự? Bên cạnh đó, bảo tồn những giá trị thuộc về bản sắc văn hóa dân tộc còn thiếu tính toàn diện hoặc không kịp thời. Thực tế là việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc xuất phát từ nhận thức chưa thấu đáo về những giá trị văn hóa dân tộc dẫn đến việc xuất hiện những sản phẩm văn hóa "không giống ai", không rõ bản sắc văn hóa dân tộc. Có nghĩa là những sản phẩm văn hoá đó, ta không phải ta mà tây cũng không phải tây. Chính vì những kết quả trên 11 ta nhận thấy được thực trạng rằng “sức khoẻ” của nền văn hoá dân tộc đang thật sự có chiều hướng xuống dốc, nếu chúng ta kịp thời đưa những bản sắc văn hoá truyền thống này trở lại quỹ đạo của nó thì may thay ta còn giữ gìn được mai sau; ngược lại, nếu chúng ta vẫn kiên trì một thái độ bàng quang đối với thực tế xảy ra trước mắt, việc đánh mất bản sắc truyền thống dân tộc chỉ còn là vấn đề sớm hay muộn mà thôi. Ngày nay, khi mà toàn cầu hoá đang là xu hướng đối với thế giới, quốc gia cần phải thay đổi và tiếp thu những nét đẹp, cái hay từ những nước bạn thì tồn tại một số thành phần lạm dụng điều đó để “bắt chước” văn hoá nước ngoài và cho rằng họ đang tiến bộ so với mọi người quanh họ. Điển hình là việc ăn mặc quá sức gợi cảm, hở hang đi ra đường, ở đây xin nhấn mạnh việc tiếp thu cái đẹp văn hoá từ bên ngoài là cần thiết thế nhưng ta vẫn phải giữ được những nét truyền thống nhất của người Việt từ ngàn xưa đến nay, do đó khi một người ăn mặc phản cảm và cho đây là “giống Tây”, “sành điệu” thì đó không phải là sự tiếp nhận có chọn lọc, phù hợp văn hoá người Việt. Trái lại, hành động này gây ảnh hưởng xấu đến bản sắc văn hoá truyền thống dân tộc Việt Nam. Thực trạng thứ ba, việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc còn mang tính “bao cấp”, dựa trên sự hỗ trợ của Nhà nước là chính. Tính chủ động, tích cực của các chủ thể văn hóa dân tộc chưa được khơi dậy, hầu hết sự tự giác vẫn chưa được đánh thức. Trong khi đó, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc luôn gắn với vai trò của các chủ thể sinh ra và lưu giữ chúng. Do vậy, khi chủ thể vẫn còn “ngủ say” thì nhiệm vụ bảo tồn văn hoá chắc chắn không thể đi vào hiện thực. Công ước UNESCO năm 2003 cũng đã khẳng định: "Những di sản văn hóa phải được chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác, được các cộng đồng và các nhóm người không ngừng tái tạo và hình thành trong họ một ý thức về bản sắc và sự kế tục". Thực tế, ngày nay, những bản sắc văn hoá mang đậm nét truyền thống của dân tộc chưa hẳn đã được chuyển giao từ thế hệ trước sang thế hệ sau bởi lẽ những lớp người trẻ ngày nay trở nên bận rộn và cấp tiến hơn bao giờ hết. Thật vậy, họ đã dần lãng quên những giá trị tinh hoa vốn có của dân tộc hoặc lạ thay, họ mang nặng một quan niệm khác về cái đẹp, một cái đẹp hoàn toàn hiện đại, bon chen chứ không phải một cái đẹp truyền 12 thống, văn hoá. Hệ quả là, chỉ có người truyền đạt mà không có người kế tục bởi những người tiếp nhận không có ý thức và tự giác giữ gìn; di sản văn hoá, bản sắc dân tộc sẽ dễ dàng bị mai một và đến một ngày nào đó, nó sẽ biến mất vĩnh viễn. Chiếc áo dài tân thời – sản phẩm văn hóa mặc kết hợp cả văn hóa mặc Đông – Tây đã và đang là vẻ đẹp văn hóa mặc mang bản sắc Việt Nam cũng cần phải được nhận thức và giữ gìn. Do điều kiện sinh hoạt vật chất ngày nay đã được cải tiến đầy đủ hơn nên nhiều người phụ nữ không được mảnh mai và vì vậy không thích mặc áo dài ngay cả những ngày lễ, tết. Tương tự, một số các nhạc cụ rất độc đáo của người Việt Nam đangít được chú ý bảo tồn và phát huy nhưđàn đá Tây Nguyên – nhạc cụ một thời tạo được ấn tượng sâu đậm cho khán giả trong và ngoài nước, hiện nay chỉ có ít người biết sử dụng. Các nhạc cụ độc đáo của đồng bào các dân tộc miền núi cũng có nguy cơ mai một trong bối cảnh nhạc hiện đại tràn lan của đời sống âm nhạc ngày nay. Đô thị hóa nông thôn là một sự tiến bộ nhưng cũng kéo theo nhiều yếu tố làm mai một những giá trị truyền thống của văn hóa Việt Nam. Mối quan hệ làng xã truyền thống với tình làng nghĩa xóm cũng không còn mặn nồng như trước.Đó là thực tế ngày nay khi các thế hệ tiếp sau không dành những nỗ lực thích đáng trong việc bảo tồn và phát huy truyền thống quý báu của dân tộc bởi lẽ họ còn chưa thật sự hiểu hết ý nghĩa và cảm hết cái đẹp sâu sắc phía sau vẻ bề ngoài thô sơ đó. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt hạn chế trong việc giữ gìn bản sắc văn hoá truyền thống dân tộc như xu hướng sính ngoại, nhận thức chưa thực sự sâu sắc và các động lực dành cho việc phát triển văn hoá còn mờ nhạt, ta không thể đánh đồng tất cả các lớp thanh niên hiện nay đều “say mê” trong thực trạng tồi tệ đó. “Kết quả điều tra tình hình thanh niên năm 2010 của Viện Nghiên cứu thanh niên cho thấy, nhìn chung thanh niên đô thị hiện nay có thái độ tích cực đối với cuộc sống, thể hiện ý thức trách nhiệm đối với xã hội. Điều này được nhìn nhận qua sự quan tâm của thanh niên đô thị tới các vấn đề xã hội, kinh tế, hay các sự kiện chính trị, văn hóa nổi bật ,đặc biệt là các vấn đề tác động trực tiếp đến cuộc sống thực tế hằng ngày 13 của thanh niên đô thị.” (ThS TRẦN KIM CÚC - Viện Văn hóa và phát triển, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh) Thực tế vẫn có rất nhiều thành phần trong giới trẻ hiện nay vẫn tiếp tục giữ gìn, kế thừa và phát huy những giá trị tốt đẹp của truyền thống dân tộc Việt Nam. Họ biết cách tiếp thu một cách có chọn lọc các tinh hoa nhân loại, kết hợp với bản sắc lâu đời của người Việt tạo nên sản phẩm văn hoá đẹp, chiếm được thiện cảm của nhiều người cả trong và ngoài nước. Ngày nay, ta vẫn nhận thấy rằng, thanh niên vẫn sắc son với truyền thống nhân văn, nhân ái như: “Uống nước nhớ nguồn”, “Lá lành đùm lá rách”, “Tôn sư trọng đạo”,… Các hội sinh viên, hội thanh niên cũng như các tổ chức dành cho lớp trẻ hiện nay giữ vững tinh thần tuyên truyền và phát triền nhận thức cũng như ý thức về văn hoá dân tộc, về Đảng và tư tưởng của Hồ chủ tịch. Một số các loại nhạc cụ truyền thống và các loại hình nghệ thuật không chỉ sân khấu mà còn nhân dân vẫn còn được kế thừa. Nói như thế không có nghĩa là mâu thuẫn với thực trạng báo động ở trên, việc duy trì truyền thống vẫn còn được duy trì và kế tục song nó không còn mạnh mẽ như trước bởi số lượng người bị tác động ngoại lai xâm lấn còn nhiều hơn so với số lượng người giữ được nét văn hoá dân tộc. Ta thấy rằng, các giá trị truyền thống dân tộc đang thực sự bị mất dần do sự thờ ơ của người kế tục, do nhận thức sai về giá trị văn hoá, do nhịp sống hối hả hiện đại, tất cả tạo nên ý thức bàng quang đối với nền văn hoá dân tộc. Bản sắc văn hoá truyền thống dân tộc sẽ không thể được bảo tồn và phát triển nếu chỉ do sự cố gắng từ một phía; đó cần là sự kết hợp, chung tay của cả những nhà lãnh đạo, nhà nghiên cứu văn hoá và tầng lớp người dân, các thế hệ già trẻ, đó là lực lượng của toàn dân tộc. 2. Các yếu tố tác động đến việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá truyền thống dân tộc hiện nay 2.1. Truyền thống giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc trong quá khứ Từ trước đến nay, nước ta được biết đến như là một quốc gia có nền văn hiến lâu đời. Một dân tộc có kỉ cương, văn hóa, phong tục độc lập, khác biệt với 14 nước láng giềng phương Bắc. Mặc dù chúng ta đã từng dùng chung một thứ chữ vuông với họ nhưng văn chương của chúng ta vẫn là văn chương của người dân Đại Việt, thấm đẫm tinh thần dân tộc và bản sắc văn hóa rất riêng. Việc sáng chế ra chữ Nôm, sáng tác văn học bằng chữ Nôm (song song với chữ Hán) thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ về việc giữ gìn bản sắc văn hoá Việt. Theo các công trình nghiên cứu, văn hóa Việt Nam có nguồn gốc khu vực Đông Nam Á, hơn nữa nhiều hình tượng trong văn hóa Trung Hoa có nguồn gốc vay mượn từ người Việt. Văn hóa Trung Quốc giống như Ấn Độ, phương Tây chỉ là sự giao thoa của các luồng văn hóa, khi gặp nhau ở Việt Nam đã bồi tụ phù sa, nhưng chất đất bản địa ngàn năm vẫn không bị biến đổi. Có nhiều ý kiến cho rằng Việt Nam không có bản sắc văn hóa, văn hóa Việt Nam chỉ là một nhánh nhỏ của nền văn hóa Trung Hoa, điểm khác nhau là ở trình độ. Thêm vào đó văn hóa Việt Nam không có tính ổn định bền vững mà liên tục biến đổi. Vì thế, trong khi rất nhiều cái mới du nhập, chắc chắn việc giữ vững bản sắc sẽ xảy ra sự lung lay không ít. Ví dụ khi văn hoá các nước phương Tây tràn qua những năm giữa thế kỉ 19. Lúc ấy, nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã tổng kết trong sách “Thi nhân Việt Nam”: “Chúng ta ở nhà tây, đội mũ tây, đi giày tây, mặc áo tây. Chúng ta dùng đèn điện, đồng hồ, ô tô, xe lửa, xe đạp… còn gì nữa! Nói làm sao cho xiết những điều thay đổi về vật chất phương Tây đã đưa tới giữa chúng ta! Cho đến những nơi hang cùng ngõ hẻm, cuộc sống cũng không còn giữ nguyên hình ngày trước. Nào dầu tây, diêm tây, nào vải tây, chỉ tây, kim tây, đinh tây” (Thi nhân Việt Nam, NXB Văn học, Hà Nội, 1988, tr.10). Lịch sử hình thành và phát triển truyền thống văn hoá của dân tộc Việt Nam cũng là lịch sử hình thành và phát triển lối sống của người Việt Nam. Nó được xây dựng qua một thời gian dài, phải nói là một thời kỳ lịch sử về sản xuất, học tập, lao động và chiến đấu, đồng thời là sự sáng tạo trong giao lưu văn hoá. 15 Trải qua quá trình tiếp nhận, tiếp biến giữa các nền văn hoá mà văn hoá Việt Nam nói chung, lối sống người Việt Nam nói riêng được phát triển và ngày càng phong phú, đa dạng, đậm đà. Song, bản sắc truyền thống của dân tộc ta vẫn là lối nhẹ nhàng, tế nhị, kín đáo, giản đơn hoà nhập với thiên nhiên. Bên cạnh đó, trải qua quá trình tiếp biến các lối sống văn hoá phương Đông, phương Tây và văn hoá xã hội chủ nghĩa, những nét đặc sắc của lối sống dân tộc Việt Nam được tổng hợp và phát huy hết sức mạnh mẽ đi cùng với thời thế. Tồn tại trong các lĩnh vực của đời sống tinh thần, lối sống người Việt được làm giàu với tinh hoa văn hoá và lối sống của nhiều dân tộc, chính xác là 54 dân tộc anh em. Tất cả hội đủ các đặc điểm về phẩm chất cũng như phong thái văn hoá, văn minh độc đáo của thế giới, tạo thành một lối sống vừa có tính nhân loại, vừa đậm đà bản sắc Việt Nam. Chính những giá trị văn hoá lịch sử và truyền thống lâu đời về việc giữ gìn đã không ngừng thôi thúc người Việt ngày nay hãy kế tục những bản sắc tươi đẹp vốn có. Lời kêu gọi, ngày nay, trong một xã hội hiện đại, đã dần bị thờ ơ nhiều hơn do con người thờ ơ hơn với những bản sắc của chính dân tộc mình. Những truyền thống cũng không còn được nguyên vẹn bởi sự biến dạng, bóp méo trong thế giới cấp tiến hiện nay. Quan niệm về cái đẹp trong con người dần thay đổi để kịp “chạy đua”, “sành điệu” với mọi người xung quanh. Truyền thống giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc trong quá khứ giờ đây chỉ là một ký ức trong tâm trí của mỗi con người 2.2. Lòng tự tôn dân tộc Tự tôn dân tộc là việc đề cao vai trò và tầm vóc của quê hương đất nước, cũng như dân tộc của chính quốc gia chúng ta. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc đề cập đến lòng tự hào và ý thức tự tôn dân tộc. Điều này không chỉ làm nổi bật những nét đặc sắc của nền văn hiến nhân dân mà còn là hành động giữ gìn những giá trị thuộc về 16 người dân khu vực đó. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói, văn hóa phải "đi sâu vào tâm lý quốc dân" để từ đó "văn hóa soi đường cho quốc dân đi". Ý thức tự tôn dân tộc không chỉ thể hiện ở việc giữ gìn những giá trị văn hoá và truyền thống hào hùng từ ngàn đời xưa mà còn là những hành động cụ thể mang tính chất đoàn kết "lá lành đùm lá rách" trong những tình thế đất nước đang gặp khó khăn. Hành động tự nguyện quyên góp tiền vàng cho Chính phủ thời kỳ khủng hoảng kinh tế hay tự hào sử dụng những sản phẩm nội địa góp phần phát triển đất nước chính là minh chứng khẳng định giá trị của ý thức tự tôn dân tộc. Lại thực tế khác, khi tranh chấp vùng biển Đông giữa ta và Trung Quốc, một lần nữa tinh thần yêu nước ấy lại sục sôi quyết liệt trong từng con người Việt Nam. Chúng ta, kết tinh lại như một làm sóng dâng trào, đã phản đối hành động sai trái của Trung Quốc, khiến cho cả thế giới phải thấy rằng, đất nước, con người Việt Nam, dù chỉ là một quốc gia nhỏ nhưng vẫn có chủ quyền và lãnh thổ riêng, không thể nào xâm phạm được. Bản sắc văn hóa dân tộc được biểu hiện ở lòng yêu nước nồng nàn, ý trí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc, tất cả đều được Hồ chủ tịch lột tả đầy đủ trong tác phẩm "Lòng yêu nước của nhân dân ta": Lòng nhân ái, "trong cái lý có cái tình" , đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động, sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống. Đề cập đến đây ta cần xem xét về xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, sự ảnh hưởng của hiện tượng này đến việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là tất yếu khách quan; đồng thời sự tác động này tạo điều kiện cho nước ta mở rộng giao lưu giữa các nền văn hóa, từ đó nâng cao tầm thế của đất nước Việt Nam đến với bạn bè thế giới. Nhưng, lòng tự tôn đó chỉ như ngọn đèn chập chờn lúc mờ lúc tỏ. Người dân Việt Nam với tinh thần “sính ngoại” cao độ trong quá trình hội nhập thế giới đã dần đánh mất đi lòng tự hào đối với dân tộc mình. Nhiều người quan niệm rằng, tiến bộ và điều tất yếu, họ đúng, nhưng thiếu rằng điều đó phải có giới hạn. Thực tế, nhiều người cuốn theo lối sống “hiện đại hoá” tức “bắt chước” thế giới, đặc biệt là phương Tây. Họ 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng