Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân ở Thị xã Sơn ...

Tài liệu Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân ở Thị xã Sơn Tây – Thành phố Hà Nội hiện nay

.PDF
129
423
144

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ____________________________ PHẠM THỊ HOA VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG VÀ NHÂN DÂN Ở THỊ XÃ SƠN TÂY- THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC Hà Nội – 2013 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN PHẠM THỊ HOA VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG VÀ NHÂN DÂN Ở THỊ XÃ SƠN TÂY - THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Hồ Chí Minh học Mã số: 60 31 27 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Trọng Tuấn HÀ NỘI – 2013 MỤC LỤC Nội dung STT Trang MỞ ĐẦU…………………………………………………………… 1 1 Lý do chọn đề tài.................................................................. 1 2 Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài……………… 4 3 Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu…………………………... 7 4 Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài………………… 8 5 Cơ sở và phương pháp nghiên cứu………………………... 9 6 Đóng góp của luận văn……………………………………. 10 7 Kết cấu của luận văn……………………………………… 10 Chƣơng 1 NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ 11 MINH VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG VÀ NHÂN DÂN Quan điểm của Hồ Chí Minh về nhân dân 11 1.1.1 Khái niệm “dân”, “nhân dân” trong tư tưởng Hồ Chí Minh 11 1.1.2 Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của nhân dân 15 Quan điểm Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa Đảng và 24 1.1 1.2 nhân dân 1.2.1 Quan hệ “máu thịt” giữa Đảng và nhân dân là bản chất 24 cách mạng, khoa học của Đảng ta 1.2.2 Đảng là lực lượng lãnh đạo, nhân dân là người làm chủ vận 28 mệnh của mình 1.3 Giá trị lý luận, thực tiễn của tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về 36 mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân Chƣơng 2 THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG VÀ NHÂN DÂN THEO TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH Ở THỊ XÃ SƠN TÂY - TP. HÀ NỘI HIỆN NAY 48 2.1 Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội tác động đến mối 48 quan hệ giữa Đảng và nhân dân ở thị xã Sơn Tây 2.1.1 Đặc điểm tự nhiên 48 2.1.2 Đặc điểm kinh tế - xã hội tác động đến mối quan hệ giữa 50 Đảng và nhân dân ở thị xã Sơn Tây 2.2 Thực trạng mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân ở thị 54 xã Sơn Tây thời gian qua 2.2.1 Những kết quả đạt được trong xây dựng mối quan hệ giữa 54 Đảng và nhân dân ở thị xã Sơn Tây thời gian qua 2.2.2 2.3 Một số yếu kém, khuyết điểm và nguyên nhân 70 Phƣơng hƣớng, yêu cầu và một số giải pháp nhằm tăng 80 cƣờng mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh ở thị xã Sơn Tây hiện nay 2.3.1 Đặc điểm tình hình nhiệm vụ và một số vấn đề đặt ra về 80 việc tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân ở thị xã Sơn Tây hiện nay 2.3.2 Một số giải pháp tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và 87 nhân dân ở thị xã Sơn Tây hiện nay KẾT LUẬN 103 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 105 PHỤ LỤC 1 PHỤ LỤC 1: Những lời dặn ân cần của Chủ tịch Hồ Chí 1 Minh trong 10 lần về thăm Sơn Tây PHỤ LỤC 2: Bản đồ hành chính thị xã Sơn Tây - TP. Hà Nội 6 năm 2011 PHỤ LỤC 3: Kết quả thực hiện các chỉ tiêu cơ bản năm 7 2012 và kế hoạch năm 2013 PHỤ LỤC 4: Phiếu điều tra 9 PHỤ LỤC 5: Kết quả điều tra 12 DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa CNH - HĐH Hội đồng nhân dân HĐND Thành phố TP Trong sạch vững mạnh TSVM Trung ương TW Chủ nghĩa xã hội CNXH Ủy ban nhân dân UBND MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người sáng lập và rèn luyện Đảng ta. Người đã kế thừa, phát triển và vận dụng sáng tạo tư tưởng “lấy dân làm gốc” của cha ông ta, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng” vào xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng mác xít. Người đặt nền móng tư tưởng cách mạng về mối quan hệ và sự cần thiết phải gìn giữ mối quan hệ mật thiết giữa Đảng - nhân dân của Đảng ta. Nghiên cứu, vận dụng bài học của Đảng về “lấy dân làm gốc” cũng như mối quan hệ giữa Đảng cầm quyền với nhân dân hiện nay, đang là vấn đề có ý nghĩa quan trọng góp phần thắng lợi trọn vẹn của cách mạng nước ta. Trải qua 83 năm xây dựng và trưởng thành, với bản lĩnh một Đảng cách mạng chân chính, gắn bó máu thịt với nhân dân, Đảng ta đã lãnh đạo, tổ chức và phát huy sức mạnh to lớn của toàn dân tộc đứng lên làm cách mạng lập nên những thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và xây dựng CNXH. Quán triệt sâu sắc tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về mối quan hệ máu thịt giữa Đảng và nhân dân, Đại hội VI của Đảng (tháng 12-1986) đã nêu lên bài học kinh nghiệm hàng đầu “Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc” [13,29]. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng định hướng “Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ XHCN và của Đảng” [18,65]. Vì vậy, giữ gìn mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng và nhân dân là vấn đề sống còn của sự nghiệp cách mạng. Thực tiễn cách mạng những năm qua cho thấy vai trò của Đảng và mối quan hệ máu thịt giữa Đảng - nhân dân được khẳng định, quyền làm chủ của nhân dân được phát huy, dân chủ được mở rộng, nhân dân đã thực sự cống hiến được nhiều tài năng, trí tuệ cho sự nghiệp phát triển đất nước; điều đó góp phần to lớn vào thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng an ninh và xây dựng đời sống văn hóa tinh thần cường thịnh. Song, bên cạnh những thành tựu to lớn đó, mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân còn bộc lộ những tồn tại, hạn chế, bất cập: không ít cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương mất đoàn kết thống nhất; một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên thoái hóa biến chất, lạm dụng quyền lực, hách dịch, nhũng nhiễu, xa rời, thiếu quan tâm đời sống quần chúng nhân dân, làm giảm uy tín Đảng và lòng tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước; đó là những thách thức, trở lực, rào cản lớn đối với sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và nhân dân ta. Trước thực tiễn đó, ngày 16/1/2012, Hội nghị lần thứ tư BCH TW Đảng (khóa XI) đã ban hành Nghị quyết “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Nghị quyết đã lựa chọn đúng vấn đề, đánh giá đúng thực trạng và đề ra đúng các giải pháp để tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn và nguyện vọng của nhân dân. Nghị quyết chỉ rõ “công tác xây dựng Đảng vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém, thậm chí có những yếu kém, khuyết điểm kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ chậm được khắc phục, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng; nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ” [19,1]. Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng cảnh báo trong bối cảnh hiện nay: “nếu Đảng ta không giữ được bản chất cách mạng của mình, không thật vững vàng về chính trị, tư tưởng; không thống nhất cao về ý chí, hành động; không trong sạch về đạo đức, lối sống; không chặt chẽ về tổ chức; không được nhân dân ủng hộ thì không thể đứng vững và đủ sức lãnh đạo đưa đất nước đi lên” [20,11]. Thời gian qua, các thế lực thù địch trong và ngoài nước đang triệt để lợi dụng, khoét sâu những thiếu sót, khuyết điểm của Đảng và Nhà nước để chống phá Đảng, chia rẽ mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân, nhằm phá hoại sự nghiệp cách mạng của Đảng, xóa bỏ chế độ XHCN mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn. Việc nghiên cứu sâu sắc, tìm những giải pháp thuyết phục đầy đủ về lý luận và thực tiễn để tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân là vấn đề trọng yếu, cần thiết trong công tác tư tưởng, lý luận của Đảng ta hiện nay. Sơn Tây là thị xã trực thuộc Thủ đô Hà Nội, trung tâm kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội phía Tây Bắc Thủ đô; nơi được Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh thời giành quan tâm đặc biệt, đã từng về thăm và căn dặn với Đảng bộ và nhân dân nơi đây: “Vào Đảng, vào Đoàn không phải để làm “quan” cách mạng, hay là để nói chính trị suông. Tất cả đảng viên và đoàn viên phải ra sức tăng gia sản xuất, thực hành các chính sách của Đảng và Chính phủ,… làm gương mẫu, làm đầu tàu lôi cuốn quần chúng...” [42, 202-204]. Rõ ràng, vấn đề giáo dục cán bộ, đảng viên nói chung và cán bộ, đảng viên thị xã Sơn Tây nói riêng nhằm xây dựng mối quan hệ gắn bó giữa Đảng và dân luôn được Người chú trọng. Trong bối cảnh hiện nay, hội nhập quốc tế sâu rộng, nhiệm vụ phát triển toàn diện của thị xã ngày càng đòi hỏi cao; đặc biệt là nhiệm vụ thực hiện thắng lợi Nghị quyết TW 4 khóa XI của Đảng “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” ở thị xã đang được đặt lên hàng đầu trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thì việc tăng cường, củng cố xây dựng mối quan hệ máu thịt giữa Đảng và nhân dân thị xã Sơn Tây dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề cấp thiết, có ý nghĩa quan trọng quyết định thắng lợi các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa của thị xã. Vì vậy, trở lại tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh về vai trò của nhân dân, về Đảng cầm quyền, về mối quan hệ giữa Đảng với dân vừa có giá trị lý luận, vừa là chỉ dẫn quý báu cho hoạt động thực tiễn của Đảng ta trong sự nghiệp đổi mới hiện nay nói chung và Đảng bộ thị xã Sơn Tây nói riêng. Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn vấn đề “Vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân ở thị xã Sơn Tây - thành phố Hà Nội hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Hồ Chí Minh học. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Vấn đề xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, xây dựng mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng và nhân dân có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều cuộc hội thảo, bài nói, bài viết của các nhà nghiên cứu lý giải ở các góc độ khác nhau. Các tác giả phân tích, lý giải thực trạng, nguyên nhân của mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời đưa ra những yêu cầu, con đường, biện pháp để tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân. - Về sách gồm có: + Các tác phẩm của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước nói về vai trò của dân, về mối quan hệ giữa Đảng với dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong đó, đặc biệt nhấn mạnh tư tưởng vì dân, gần dân, kính trọng dân, tin tưởng nhân dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Như đồng chí Lê Duẩn viết cuốn “Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” (1976), tập I, Nxb Sự thật, Hà Nội, nhấn mạnh quan điểm “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”; Võ Nguyên Giáp với cuốn sách “Tư tưởng dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh” (1995), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội đã chỉ rõ “Thực chất công tác dân vận là xây dựng mối quan hệ máu thịt giữa Đảng và Dân”... + Lê Văn Lý (ch.b), Mạch Quang Thắng, Đặng Đình Phú viết cuốn “Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội xuất bản năm 2002; Tác giả Trần Đình Huỳnh, Ngô Kim Ngân viết cuốn “Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền”, năm 2004. Các tác giả đã khái quát nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò lãnh đạo của Đảng, phương hướng nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh. + TS. Phạm Ngọc Anh, PGS.TS. Bùi Đình Phong với các cuốn “Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh”, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội xuất bản năm 2005 và cuốn “Vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong thời kỳ đổi mới” của Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội xuất bản năm 2006. Các tác giả đã phân tích, lý giải tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh: Đảng lãnh đạo là nhân tố quyết định thành công của cách mạng, giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân, cốt lõi là tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân. + GS.TS. Nguyễn Văn Huyên viết cuốn “Đảng Cộng sản cầm quyền, nội dung và phương thức cầm quyền của Đảng”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2011. Tác giả đã khái quát quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản cầm quyền, vận dụng phương thức cầm quyền của Đảng trong sự nghiệp đổi mới hiện nay của đất nước. + Có nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học trong thời kỳ đổi mới bàn trực tiếp về mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng và nhân dân ở nước ta. Như tác giả Vũ Oanh với cuốn “Tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân”, Nxb Sự thật, Hà Nội xuất bản năm 1990; tác giả đã phân tích thực trạng mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân, khẳng định cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, chỉ rõ sự cần thiết và đưa ra một số giải pháp nhằm tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân. Tác giả Đàm Văn Thọ, Vũ Hùng với cuốn sách “Mối quan hệ giữa Đảng và dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh” Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, xuất bản năm 1997. Cuốn sách là kết quả trực tiếp của luận án PTS Triết học của hai tác giả, đã trình bày: Khái niệm về dân và những quan điểm, thái độ khác nhau về dân trong lịch sử. Quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng và dân. Nội dung chủ yếu của mối quan hệ Đảng và dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Thực trạng và nguyên nhân tồn tại của mối quan hệ Đảng và dân hiện nay. Tăng cường mối quan hệ Đảng và dân trong thời kỳ mới trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh. Dương Xuân Ngọc (ch.b), Hoàng Chí Bảo, Nguyễn Chí Dũng (1998) viết cuốn “Mối quan hệ giữa Đảng, chính quyền và các đoàn thể nhân dân cấp xã ở nước ta hiện nay”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đặc biệt là cuốn “Mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân trong thời kỳ đổi mới đất nước: Vấn đề và kinh nghiệm” của T.S Nguyễn Văn Sáu, PGS. T.S Trần Xuân Sầm, PGS. T.S Lê Doãn Tá (đồng ch.b). Cuốn sách đã đi sâu nghiên cứu quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng ta về mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng và nhân dân trong sự nghiệp cách mạng, đồng thời nêu một số giải pháp nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. - Về báo, (tạp chí) có các bài: + Nguyễn Thị Mai Anh (2002), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân và dân chủ”, Tạp chí Dân vận, Số 12, tr.14-15. + PGS. TS. Lê Doãn Tá (2004), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ máu thịt giữa Đảng và nhân dân”, http://vietbao.vn/ChinhTri/, Thứ ba, ngày 03/ 2/ 2004. + Tác giả Lê Hữu Nghĩa “Củng cố và tăng cường quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân trong giai đoạn hiện nay”, tạp chí Cộng sản, Số 21-2005. + Đại tá, PGS.TS Bùi Đình Bôn với bài “Nhiệm vụ cấp bách là củng cố mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với dân”, Báo QĐND, số Thứ hai, ngày 30/05/2011... v.v. - Về Luận án tiến sĩ, luận văn có: + Tác giả Đàm Văn Thọ với đề tài: “Mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh”, Luận án PTS khoa học (1996), đã làm sáng tỏ những quan điểm cơ bản và đề xuất những giải pháp cần thiết vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân trong sự nghiệp đổi mới hiện nay... + Vũ Hùng, với đề tài “Dân và mối quan hệ giữa Đảng cầm quyền với dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh”, Luận án PTS triết học (1996). Tác giả đã khái quát quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về dân, về Đảng cầm quyền trong mối quan hệ với dân, vận dụng xây dựng mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa của đất nước. - Hội thảo khoa học: + “Hội thảo khoa học kỷ niệm 70 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam” (3 /2/ 1930 - 3/ 2/ 2000), bao gồm: các báo cáo khoa học đề cập đến cương lĩnh và đường lối chính trị, khẳng định bản chất cách mạng và khoa học của Đảng Cộng sản Việt Nam; các chặng đường lịch sử của Đảng và những thành tựu xây dựng, phát triển của Đảng; những thành tựu của đất nước trên mọi lĩnh vực dưới sự lãnh đạo của Đảng. + Hội thảo về “Mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân” diễn ra ngày 21/10/2009, tại Hà Nội, do Hội đồng Lý luận Trung ương, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức, đã làm rõ quá trình nhận thức và tình hình thực tiễn mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ trong hơn 20 năm đổi mới của đất nước. Với những góc độ, khía cạnh, và mục đích nghiên cứu khác nhau, các công trình nghiên cứu trên đề cập đến mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh khá sâu sắc và toàn diện. Các công trình khoa học trên là nguồn tư liệu giá trị để tác giả tiếp thu, kế thừa nhằm hoàn chỉnh đề tài luận văn thạc sĩ của mình. Song chưa có một công trình nào nghiên cứu, luận giải vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân nhằm tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân ở thị xã Sơn Tây. Vì vậy, đề tài luận văn không trùng với các công trình nghiên cứu đã công bố. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu * Mục đích: - Hệ thống hóa, khẳng định tính đúng đắn và giá trị to lớn tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng cầm quyền với nhân dân. - Làm rõ thực trạng mối quan hệ giữa Đảng bộ và nhân dân thị xã Sơn Tây hiện nay. Đề xuất giải pháp nhằm tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng bộ và nhân dân thị xã Sơn Tây - TP. Hà Nội hiện nay. * Nhiệm vụ: - Nghiên cứu, làm rõ những quan điểm cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về “dân”, “nhân dân” và mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân. - Đánh giá khách quan, khoa học giá trị lý luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân, ý nghĩa với sự nghiệp đổi mới hiện nay. - Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng mối quan hệ giữa Đảng bộ và nhân dân thị xã Sơn Tây; chỉ rõ những nguyên nhân tồn tại, khuyết điểm, yếu kém; đề ra những giải pháp nhằm củng cố, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng bộ và nhân dân thị xã Sơn Tây - TP. Hà Nội dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay. 4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của đề tài * Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân; nghiên cứu đánh giá thực trạng, phương hướng và giải pháp tăng cường mối quan hệ giữa Đảng bộ và nhân dân thị xã Sơn Tây - TP. Hà Nội hiện nay. * Phạm vi nghiên cứu: Luận văn không nghiên cứu toàn bộ tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam, mà chỉ nghiên cứu nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa Đảng cầm quyền và nhân dân. Vận dụng tư tưởng đó vào xây dựng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân trong phạm vi một địa phương cụ thể là thị xã Sơn Tây của thành phố Hà Nội, thời gian từ năm 2000 đến nay. Bởi vì: - Tổng kết sau 15 năm đổi mới, và 10 năm thực hiện Cương lĩnh 1991, cả nước đã giành được những thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, an ninh quốc phòng. Song những mặt trái của nền kinh tế thị trường đã bước đầu thâm nhập vào đời sống xã hội, bộc lộ nhiều tiêu cực, tệ nạn, làm suy giảm niềm tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng. - Ở thị xã Sơn Tây, tháng 11/2000 diễn ra Đại hội đại biểu Đảng bộ thị xã lần thứ XVII (nhiệm kỳ 2000 - 2005), đã đề ra những chủ trương lớn, nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện đô thị hóa gắn liền với xóa đói giảm nghèo... - Từ năm 2000 đến nay, thị xã Sơn Tây có bước chuyển biến rõ rệt và phát triển mạnh mẽ về kinh tế, văn hóa, xã hội. Đời sống nhân dân không ngừng được nâng cao. Song những tệ nạn, tiêu cực diễn ra ở nơi này, nơi khác, làm giảm niềm tin của quần chúng nhân dân. Vì vậy, thực tiễn đặt ra cần phải củng cố, xây dựng Đảng, chính quyền thị xã trong sạch, vững mạnh; tăng cường mối quan hệ bền chặt giữa Đảng bộ và nhân dân thị xã. 5. Cơ sở và phƣơng pháp nghiên cứu * Cơ sở nghiên cứu: - Cơ sở lý luận: + Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân, về chính đảng cách mạng của giai cấp công nhân, về mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân. + Nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân. + Quan điểm của Đảng ta qua các kỳ Đại hội về xây dựng mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân. + Các Nghị quyết của Đảng bộ thị xã Sơn Tây về tình hình thị xã. - Cơ sở thực tiễn: luận văn dựa trên thực trạng mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân trong phạm vi cả nước và ở thị xã Sơn Tây hiện nay. * Phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp luận của luận văn là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin. - Phương pháp cụ thể: luận văn sử dụng phương pháp logic - lịch sử và các phương pháp liên ngành khác như: nghiên cứu tài liệu, phân tích, tổng hợp, đánh giá thực tiễn, điều tra xã hội học (điều tra 300 phiếu, thời gian tháng 8/2013, tại phường Quang Trung, xã Thanh Mỹ, xã Xuân Sơn của thị xã Sơn Tây)... để luận giải một cách khoa học những vấn đề thực tiễn đặt ra được đề cập trong phạm vi nghiên cứu của đề tài. 6. Đóng góp của luận văn - Luận văn góp phần hệ thống hóa lý luận của Hồ Chí Minh về dân, nhân dân và về Đảng cầm quyền trong mối quan hệ với dân. - Chỉ ra những kết quả đạt được, những yếu kém, khuyết điểm và nguyên nhân trong xây dựng mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân ở thị xã Sơn Tây - TP. Hà Nội. - Đưa ra các nhóm giải pháp nhằm củng cố, tăng cường, phát triển mối quan hệ giữa Đảng bộ và nhân dân thị xã Sơn Tây - TP. Hà Nội trong tình hình nhiệm vụ của thị xã hiện nay. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục; đề tài gồm 2 chương, 6 tiết. Chƣơng 1 NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG VÀ NHÂN DÂN 1.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về nhân dân 1.1.1. Khái niệm “dân”, “nhân dân” trong tư tưởng Hồ Chí Minh Tư tưởng về dân, nhân dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một bộ phận quan trọng, chỉnh thể thống nhất trong toàn bộ di sản tư tưởng của Người; có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta; vẫn còn nguyên giá trị trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước ta hiện nay. Tư tưởng về dân của Hồ Chí Minh hình thành rất sớm, được kế thừa từ những tư tưởng nhân ái cao đẹp của truyền thống văn hóa đạo đức dân tộc; của những triết lý văn hóa Đông - Tây và có bước phát triển mới, sáng tạo phù hợp yêu cầu sự nghiệp cách mạng thời đại mới. Điểm nhất quán trong tư tưởng Hồ Chí Minh là “Bất kỳ bao giờ, bất kỳ ở đâu, tôi cũng chỉ đeo đuổi một mục đích, làm cho ích quốc lợi dân” [37, 240]. Đó cũng là một nội dung sâu sắc, toàn diện và phong phú thể hiện trong cả thực tiễn hoạt động cách mạng và trong những trước tác của Người. Nó đã trở thành những di sản tư tưởng vô giá đối với toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Trước tiên, về khái niệm “dân”, xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử, được sử dụng phổ biến trong các thư tịch của Nho giáo Trung Hoa. Khổng Tử, Mạnh Tử nhà triết học lớn thời Xuân Thu - Chiến Quốc, đã có tư tưởng đề cao vai trò của dân, đồng thời nêu rõ trách nhiệm của vua đối với dân. Tuy nhiên, quan niệm của Khổng Tử, Mạnh Tử về dân không bao gồm những người cùng khổ nhất trong dân cư. “Khái niệm “Dân” của Mạnh Tử ở đây chủ yếu là chỉ hạng trí thức, địa chủ và thương nhân, không phải là nông nô” [69, 260]. Theo từ điển Tiếng Việt, năm 2009 của Hoàng Phê chủ biên, khái niệm dân được nêu với ba nghĩa: 1. Người sống trong một khu vực địa lý hoặc hành chính (nói tổng quát): Dân giàu, nước mạnh. Làm dân một nước độc lập. Thành phố đông dân. 2. Người thường thuộc lớp người đông đảo nhất, (trong quan hệ với bộ phận cầm quyền, bộ phận lãnh đạo hoặc quân đội) (nói tổng quát): tình quân dân, lấy dân làm gốc. 3. Người cùng nghề nghiệp, hoàn cảnh v.v… làm thành một lớp người riêng (nói khái quát; hàm ý coi thường): Dân buôn, Dân ngụ cư [52, 330]. Như vậy, hiểu theo nghĩa chung nhất, dân là khái niệm xuất hiện và tồn tại trong xã hội đã có giai cấp, có Nhà nước; đó là khái niệm chỉ những người lao động bình thường, đông đảo, không có chức quyền và đối diện với những người cầm quyền cai trị ở các địa bàn lãnh thổ, các nghề nghiệp khác nhau trong các lĩnh vực sản xuất vật chất và hoạt động tinh thần của một xã hội nhất định. Do đó, khái niệm Dân mang màu sắc và ý nghĩa chính trị khá rõ rệt, phần nào phản ánh mối quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Về khái niệm “nhân dân”, Lênin đã quan niệm “Quần chúng là đa số, hơn thế nữa chẳng những là đa số công nhân, mà đa số tất cả những người bị bóc lột” [67, 38]. Rõ ràng, Lênin đã nhấn mạnh yếu tố giai cấp trong quan điểm về quần chúng nhân dân. Theo từ điển triết học Liên Xô (Rôdentan chủ biên): “Nhân dân - với nghĩa thông thường: dân cư của một quốc gia, một nước; với nghĩa khoa học chặt chẽ: cộng đồng người thay đổi trong lịch sử, bao gồm một bộ phận, những tầng lớp, những giai cấp của dân cư mà theo địa vị khách quan của mình có khả năng cùng nhau tham gia giải quyết những nhiệm vụ phát triển tiến bộ của một nước nhất định trong một thời kỳ nhất định… Nhân dân bao gồm những người sản xuất trực tiếp - những người lao động, các nhóm dân cư không bóc lột…” [55, 401-402]. Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê nêu khái niệm: “Nhân dân là đông đảo những người dân, thuộc mọi tầng lớp, đang sống trong một khu vực nhất định (nói khái quát): quần chúng nhân dân, nhân dân lao động...” [52, 913]. Qua những định nghĩa trên, khái niệm “nhân dân” có thể khái quát ở mấy điểm chung sau: Một là, nhân dân là khái niệm có ý nghĩa chính trị, phản ánh về một xã hội đã phân chia thành giai cấp, thành các tập đoàn người có địa vị kinh tế chính trị khác nhau. Hai là, nhân dân gồm những người thuộc các giai cấp và tầng lớp lao động, trực tiếp sản xuất ra của cải cho xã hội, có khả năng tham gia giải quyết những nhiệm vụ phát triển và tiến bộ xã hội. Nhìn chung, nội hàm cơ bản của khái niệm “dân” và “nhân dân” là giống nhau, nhiều trường hợp có nghĩa đồng nhất, có thể sử dụng thay thế cho nhau. Hồ Chí Minh đã tiếp thu, phát triển những quan điểm tiến bộ về “dân” trong lịch sử tư tưởng dân tộc Việt Nam, tư tưởng chính trị Đông - Tây và đặc biệt phát triển sáng tạo quan điểm quần chúng nhân dân của chủ nghĩa Mác Lênin làm phong phú tư tưởng của mình về dân, nhân dân. Với Hồ Chí Minh, dân là một phạm trù thể hiện sâu sắc tính giai cấp, tính dân tộc và tính nhân loại. Khái niệm “dân” được Người sử dụng đồng nghĩa với các khái niệm “nhân dân”, “quần chúng”, “đồng bào”. Theo Người, dân chính là nhân dân, quần chúng, đồng bào. Năm 1952, trong bài nói chuyện, nhan đề “Thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, chống bệnh quan liêu”, Người chỉ rõ: “Quần chúng tức là toàn thể chiến sĩ trong quân đội, toàn thể công nhân trong xưởng, toàn thể nhân viên trong cơ quan, v.v…, rồi đến toàn thể nhân dân” [39, 495]. Như vậy, nói đến “quần chúng” là nhắc đến mọi người trong xã hội và cũng là toàn thể nhân dân, nhân dân là quần chúng. Còn “đồng bào”, theo Hồ Chí Minh, là “con Rồng cháu Tiên”, ruột thịt, anh em, bởi chúng ta cùng chung một tổ tiên, do mẹ Âu Cơ sinh ra từ một bọc trăm trứng - theo truyền thuyết. Quan niệm của Hồ Chí Minh về “dân”, “nhân dân” có thể khái quát trên các nội dung sau: Dân là những người chung một nước, chung một cộng đồng, chung một lãnh thổ thống nhất, là đồng bào, là "con Rồng cháu Tiên", là "con Hồng cháu Lạc", là anh em ruột thịt, là các tầng lớp, các đoàn thể, là những người cùng giai cấp, là những người yêu nước, là lực lượng cách mạng… Trong nhiều bài nói, bài viết của mình, Người đã nhiều lần nhấn mạnh. Trong bài “Nói chuyện cùng đồng bào trước khi sang Pháp”, Người viết “… Việc nước là việc chung, mỗi một người con Rồng cháu Tiên, bất kỳ già, trẻ, gái, trai, giàu, nghèo, quý tiện đều phải gánh một phần” [37, 240]. Trong “Lời cảm ơn đồng bào”, Người cũng chỉ rõ: “Đồng bào ta bất kỳ già, trẻ, gái, trai, giàu, nghèo, bất kỳ sĩ, nông, công, thương, binh, mọi người đều phải đưa chí sáng suốt, lực lượng và tài năng của mình vào đó, để phụng sự dân tộc, phụng sự Tổ quốc” [38, 437]. Trong bài “Lời kêu gọi thi đua ái quốc”, viết ngày 11/6 /1948 đăng trên báo Cứu quốc số 968, Người nhấn mạnh “Mỗi người dân Việt Nam, bất kỳ già, trẻ, gái, trai, bất kỳ giàu nghèo, lớn nhỏ đều cần phải trở nên một chiến sĩ đấu tranh trên mặt trận: Quân sự, Kinh tế, Chính trị, Văn hóa ” [38, 444]. Hồ Chí Minh mở rộng nội hàm khái niệm “dân” đến tất cả những ai thừa nhận mình là “Con dân đất Việt”. Người thường nói đến “Con Rồng cháu Tiên”, “đồng bào”, gốc tích Việt Nam, “Hồng Bàng là tổ tiên ta”, “người chung một nước”, không phân biệt dân tộc thiểu số với dân tộc đa số, người có tín ngưỡng với người không có tín ngưỡng, không phân biệt “già, trẻ, trai, gái, giàu, nghèo, quý, tiện”. Dân là toàn bộ đồng bào trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, kể cả người Việt Nam ở nước ngoài. Dân ở đây trừ bọn phản bội, Việt gian bán nước, bọn phát xít thực dân, tay sai cho đế quốc thực dân đi ngược lại quyền lợi, nguyện vọng của toàn dân, dân tộc. Nói đến dân cũng là nói đến tuyệt đại đa số nhân dân là công nhân, nông dân, trí thức và những người lao động khác. Với quan niệm đó, Người cho rằng giai cấp tư sản dân tộc - những người có lòng yêu nước, cũng là dân; họ cũng có đóng góp nhất định trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc. Tóm lại, dân, nhân dân, đồng bào… chính là những khái niệm đồng nghĩa, cùng nội hàm, chỉ mọi người Việt Nam yêu nước. Dân là mọi người dân Việt Nam, là mọi “con dân nước Việt”, là “mỗi một người con Rồng cháu Tiên”, không phân biệt “già, trẻ, gái, trai, giàu, nghèo, quí, tiện” trong đó công, nông chiếm tuyệt đại đa số, là gốc của cách mạng. Nhưng Hồ Chí Minh hay dùng chữ Dân vì nó ngắn gọn và quen với cách nói hằng ngày của người Việt Nam. Còn “nhân dân”, Hồ Chí Minh quan niệm, đó là những người dân nói chung “Nhân dân là bốn giai cấp công, nông, tiểu tư sản, tư sản dân tộc và những phần tử khác yêu nước. Đó là nền tảng của quốc dân” [40, 219]. Theo Hồ Chí Minh, nhân dân, mà trước hết là nhân dân lao động, tập trung ở hai giai cấp chủ yếu, đông đảo nhất trong xã hội là công nhân và nông dân, trong đó công nông là gốc cách mạng. Như vậy, “Dân”, “Nhân dân” vừa là tập hợp đông đảo quần chúng, vừa được hiểu là mỗi con người Việt Nam cụ thể, và cả hai đều là chủ thể của khối đại đoàn kết dân tộc. Đây là nét đặc sắc, xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Khái niệm “dân”, “nhân dân” của Người, một mặt thể hiện nhất quán quan điểm giai cấp, quan điểm quần chúng của chủ nghĩa Mác - Lênin; mặt khác thể hiện tính sáng tạo, tính thực tiễn, phù hợp với điều kiện của nước ta. Quan điểm này có giá trị rất lớn trong tập hợp lực lượng, phát huy mọi khả năng của dân tộc, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp cách mạng của đất nước. 1.1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của nhân dân Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của nhân dân luôn nhất quán và sâu sắc, có nội dung rất phong phú, kế thừa những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại mà đỉnh cao là học thuyết Mác Lênin. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của nhân dân có thể khái quát thành những luận điểm lớn chủ yếu sau đây:
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan