Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ đạo đức học của kant qua tác phẩm phê phán lý tính thực hành...

Tài liệu đạo đức học của kant qua tác phẩm phê phán lý tính thực hành

.PDF
72
196
145

Mô tả:

Đề tài phân tích những tiền đề cơ bản cho sự hình thành quan niệm Kant về những vấn đề liên quan đến đạo đức học, phân tích một cách có hệ thống, làm rõ quan niệm của Kant về các phạm trù như phạm trù tự do, mệnh lệnh tuyệt đối, hành vi tự do… Đồng thời, đề tài đưa ra nhận xét và đánh giá về những đóng góp và hạn chế của quan niệm Kant về đạo đức học dưới góc nhìn của triết học Mác-Lênin.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN KHOA TRIẾT HỌC ----------------------- Ngô Đức Thắng TÊN ĐỀ TÀI ĐẠO ĐỨC HỌC CỦA KANT QUA TÁC PHẨM “PHÊ PHÁN LÝ TÍNH THỰC HÀNH” KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH TRIẾT HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2016-X HÀ NỘI, 2020 TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN KHOA TRIẾT HỌC ----------------------- Ngô Đức Thắng ĐẠO ĐỨC HỌC CỦA KANT QUA TÁC PHẨM “PHÊ PHÁN LÝ TÍNH THỰC HÀNH” KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH TRIẾT HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2016-X NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PGS.TS.Nguyễn Quang Hưng HÀ NỘI, 2020 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan kết quả nghiên cứu trong khóa luận tốt nghiệp “Đạo đức học của Kant trong tác phẩm Phê phán lý tinh thực hành là trung thực và không có bất kỳ sự sao chép hay sử dụng để bảo vệ một học vị nào. Tất cả những sự giúp đỡ cho việc xây dựng cơ sở lý luận cho bài luận đều được trích dẫn đầy đủ và ghi rõ nguồn gốc rõ ràng và được phép công bố. Hà Nội, ngày 29 tháng 05 năm 2020 Ngô Đức Thắng LỜI CẢM ƠN Đề có thể hoàn thành khóa luận tốt nghiệp một cách hoàn chỉnh, bên cạnh sự cố gắng nỗ lực của bản thân còn có sự hướng dẫn nhiệt tình của các quý Thầy Cô, cũng như sự động viên ủng hộ của gia đình và bạn bè trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn này. Xin chân thày bày tỏ lòng biết ơn đến PGS.TS Nguyễn Quang Hưng – giảng viên hướng dẫn – đã hết lòng giúp đỡ và tạo mọi điều kiện cho tôi hoàn thành khóa luận này. Xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn đến toàn thể quý thầy cô trong khoa Triết học, trường đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn, Đại học Quốc gia Hà Nội đã tận tình truyền đạt những kiến thức quý báu cũng như tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho tôi trong suốt quá trình học tập nghiên cứu và cho đến khi thực hiện đề tài khóa luận. Hà Nội, ngày 29 tháng 05 năm 2020 Ngô Đức Thắng MỤC LỤC MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1 1.Lý do chọn đề tài .................................................................................................. 1 2.Tình hình nghiên cứu ........................................................................................... 2 3.Phạm vi nghiên cứu.............................................................................................. 5 4.Ý nghĩa của việc nghiên cứu ................................................................................ 5 5.Bố cục................................................................................................................... 5 NỘI DUNG................................................................................................................ 6 CHƢƠNG 1: NHỮNG ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH ĐẠO ĐỨC HỌC KANT ................................................................................................. 6 1.1. Bối cảnh lịch sử............................................................................................. 6 1.2. Tổng quan về tư tưởng đạo đức trước Kant................................................ 10 CHƢƠNG 2: NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA ĐẠO ĐỨC HỌC KANT TRONG TÁC PHẨM PHÊ PHÁN LÝ TÍNH THỰC HÀNH ........................ 36 2.1.Quan niệm của Kant về hành vi đạo đức ..................................................... 36 2.2. Mệnh lệnh tuyệt đối – nguyên tắc cơ bản của đạo đức học Kant ............... 46 2.3. “Tự do” – phạm trù trung tâm trong đạo đức học Kant.............................. 49 2.4. Ý nghĩa đạo đức học Kant .......................................................................... 57 KẾT LUẬN ............................................................................................................. 61 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................. 64 MỞ ĐẦU 1.Lý do chọn đề tài Đã là con người, dù đang tồn tại như một cá thể độc lập hay trong một quần, một tổ chức xã hội thì cũng đều có nhu cầu hạnh phúc, về cả vật chất và tinh thần. Đó là nhu cầu chánh đáng lý tưởng mà không một ai có quyền phản đối hay chối bỏ nó. Nhưng bản chất thật sự của hạnh phúc là gì? Và để đạt được nhu cầu ấy con người phải làm gì? Hay nói khác hơn là dựa trên những phương pháp hành động nào thì con người mới đạt đến mục tiêu đó? Lịch sử loài người đã chứng kiến rất nhiều sự kiện trải nghiệm lộ trình đi tìm hạnh phúc vĩnh cửu. Nhưng con người vẫn hoài khổ đau, vẫn chìm ngập trong nước mắt. Chính vì muốn đạt mục đích này mà một số cá nhân và tổ chức đã tìm đủ mọi thủ đoạn nhằm gieo rắc tang thương cho người khác. Kết quả, họ vẫn không đạt được mục đích. Trái lại, giấc hoè muôn màu đã biến thành nỗi ác mộng muôn đời. Điểm sai lầm ở đây là người ta đã ngộ nhận rằng bản thân mình được hạnh phúc khi và chỉ khi những kẻ khác không còn hạnh phúc. Vì thế, họ đã làm cho bao quốc gia, bao dân tộc, bao cá nhân đã vĩnh biệt đời sống dưới mưa bom bão đạn, dưới những luận điệu đấu tranh vì ý thức hệ mà thực chất là hai chữ danhlợi. Họ dùng tấm vải nhung đạo đức bọc lấy mục đích bẩn thỉu của cá nhân mình để làm mù loà kẻ khác. Đó chính là những kẻ đã đánh đồng giữa hạnh phúc và vật chất, xem vật chất chính là chìa khoá, là điều kiện lý tưởng đưa đến hạnh phúc, họ đã hạ thấp phẩm tính con người ngang đồng với động vật, nhưng họ đã thất bại trong quằn quại đớn đau. Trái lại, một số cá nhân nhìn thấy hình ảnh này nên đã tìm đến hạnh phúc thông qua cuộc sống ẩn mình. Họ bỏ quên tiếng kêu xé lòng của đồng loại để đi tìm hạnh phúc nơi sơn lâm cùng cốc. Đấy phải chăng là hạnh phúc? Đấy phải chăng 1 là đạo đức? Xét cho cùng, đó có thể là hạnh phúc nhưng chỉ trong phạm trù quan niệm cá nhân. Còn về phương diện đạo đức xã hội thì đó là đậm chất ích kỉ, cực đoan và vô đạo đức. Nền kinh tế phát triển hơn theo thời gian nhưng đi cùng với nó nền đạo đức lại ngày một suy đồi.Chính vì vậy,trong lúc này đây,việc nghiên cứu đạo đức học và nhất là đạo đức học của Kant-một trong những nhà triết học vĩ đại nhất lịch sử lại càng cấp thiết. 2.Tình hình nghiên cứu Kant là người đầu tiên đặt nền móng và có ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển chung của dòng chảy triết học nhân loại đó là triết học cổ điển Đức - một trong những tiền đề lý luận ảnh hưởng đến triết học Mác. Ông là nhà đạo đức học tư sản bởi những quan điểm về đạo đức của ông đã phản ánh những giá trị nhân bản nhất của con người. Đã 200 năm kể từ ngày Kant mất, người ta vẫn có thể khai thác từ hệ thống triết học Kant nhiều tư tưởng quý giá về các lĩnh vực khác nhau như nhận thức, đạo đức, pháp quyền, lịch sử. Tuy nhiên, vì những lý do khách quan và chủ quan mà trong một thời gian dài ở Việt Nam, những tư tưởng triết học của Kant nhất là đạo đức học chưa được nghiên cứu đầy đủ và nó vẫn là đề tài sâu sắc, hấp dẫn với một loạt các nhà nghiên cứu tên tuổi lớn.Ở Việt Nam, việc giảng dạy triết học của Kant đã được đưa vào chương trình từ bậc đại học và sau đại học, do đó, có khá nhiều nhà nghiên cứu viết về triết học của ông. Nghiên cứu di sản triết học đồ sộ mà ông để lại cho chúng ta, đòi hỏi một sự kiện kiên nhẫn và thời gian dài lâu. Vì triết học của Kant được trình bày và diễn đạt bằng một ngôn ngữ đặc trưng, nghĩa là rất khó hiểu ngay cả với những người chuyên sâu vào nghiên cứu triết học. Thêm một khó khăn nữa cho công việc nghiên cứu triết học Kant nói chung và nhận thức luận Kant nói riêng là ở Việt Nam còn ít các tác phẩm triết học của ông được dịch ra tiếng Việt và các công trình lớn về Kant không nhiều. 2 Về phương diện lịch sử, người đề cập đến triết học Kant sớm nhất là giáo sư Trần Đức Thảo trong tác phẩm: “Lịch sử tư tưởng trước Mác”. Tuy nhiên sự trình bày còn khá sơ lược và chưa được sâu sắc, song, đó là một quan điểm đánh giá khá đúng đắn, khách quan đối với những tư tưởng triết học của Kant. Năm 1962, nhà xuất bản Sự Thật (Hà Nội) đã cho dịch cuốn “Giáo trình lịch sử triết học – Giai đoạn triết học cổ điển Đức” do Viện triết học thuộc Viện Hàn Lâm khoa học Liên Xô biên soạn. Bản dịch đã đem đến cho người đọc những nét khái quát về triết học cổ điển Đức, trong đó triết học Kant chiếm một vị trí quan trọng. Trần Thái Đỉnh, trong cuốn “Triết học Kant” đã nêu một cách khá toàn diện các vấn đề trong triết học Kant, đây là một tác phẩm được nhiều học giả đánh giá cao về sự chi tiết cũng như cách đánh giá tiếp cận triết học Kant. Tác phẩm đã trình bày toàn bộ hệ thống triết học Kant từ triết học tự nhiên đến triết học đạo đức, giải thích khá rõ ràng các thuật ngữ, các tiền đề rồi từ đó đưa ra những nhận xét, đúc kết khá xác đáng cho triết học Kant. Năm 1996 nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội đã xuất bản cuốn “Triết học Immanuel Kant” của Nguyễn Văn Huyên. Trong tác phẩm này tác giả đã trình bày những nét tổng quát về triết học nhận thức và triết học thực tiễn của Kant. Năm 1997, Viện triết học và nhà xuất bản Khoa học xã hội đã cho xuất bản cuốn sách “I.Kant – người sáng lập triết học cổ điển Đức”, công trình ý nghĩa này đã tập hợp 29 bài viết của 14 tác giả nghiên cứu các lĩnh vực khác nhau của triết học Kant, đặc biệt là về đạo đức học được trình bày khá chi tiết. Hội thảo khoa học “Triết học cổ điển Đức: nhận thức luận và đạo đức học” (do trường Đại học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn thuộc Đại học Quốc Gia Hà Nội tổ chức tháng 12 năm 2004) là một tập hợp rất nhiều các bài viết, những bài nghiên cứu của các học giả về triết học Kant, trong đó đạo đức học là mảng nghiên cứu chiếm đa số các bài tham luận trong hội thảo này. Nổi bật trong hội thảo khoa học này là hàng loạt các bài tham luận về đạo đức học Kant trong đó phải kể đến các bài viết sau đây:Bài tham luận của Nguyễn Trọng Chuẩn “Đạo đức học Kant và 3 ý nghĩa thời đại của nó” với những đánh giá xác đáng về đạo đức học Kant và tác giả bài viết cho rằng triết học Kant thấm đượm tính nhân văn và tính nhân văn đó được biểu hiện sâu sắc nhất trong học thuyết của ông về đạo đức. Bài tham luận của Trần Văn Đoàn “Trả lời như là bổn phận – Suy tư và trách nhiệm” đã có những đánh giá hết sức khách quan và sâu sắc khi nhìn nhận triết học đạo đức của Kant về các phạm trù, quan niệm về bổn phận và trách nhiệm với tư cách là một nghĩa vụ đạo đức. Một số bài tham luận của B.Baudot- Hoa Kỳ, PGS.TS Nguyễn Quang Hưng, TS Vũ Thị Thu Lan.. cũng nhấn mạnh tính thời sự và giá trị nhân đạo trong tư tưởng của Kant hướng tới một nền hòa bình vĩnh cữu, phù hợp với quan điểm về mối quan hệ giữa bản chất con người với tự nhiên và nguồn tri thức tiên nghiệm. Nguyễn Hữu Vui, Nguyễn Quang Hưng với tác phẩm Lịch sử triết học (1998), tập bài giảng Triết học Đức từ I.Kant tới G.W.F.Hegel (2010), Đỗ Minh Hợp với tác phẩm Lịch sử triết học đại cương (2010), Triết học pháp quyền của Hêghen (2002)… đã nghiên cứu sâu về đạo đức học Kant. Ngoài ra còn kể đến hàng loạt các nghiên cứu của Nguyễn Huy Hoàng trong tác phẩm Chân dung triết gia Đức (2000). Lê Công Sự với tác phẩm Triết học cổ điển Đức (2006) của Nxb Thế giới . Hàng loạt các bài viết của các nhà triết học nghiên cứu trong kỷ yếu hội thảo quốc tế về triết học cổ điển Đức đã nhìn nhận sâu sắc về đạo đức học của Kant. Những năm đầu thế kỷ XXI, nhiều tác phẩm về đề tài lịch sử triết học của các tác giả phương Tây cũng gây được sự chú ý nhất định khi bàn về triết học đặc biệt trong đó có vấn đề đạo đức. Chúng ta còn hàng loạt tác phẩm như Nhập môn triết học phương Tây (2004) của Samuel Enoch Stumf và Donald C.Abel, tác phẩm Lịch sử triết học và các luận đề (2002) của Samuel Enoch Stumf , tác phẩm Hành trình cùng triết học (2002) của Ted Honderich, tác phẩm Đạo của vật lý (1999) của Fritjof Capra. Nhìn chung các bài viết trên đã có những nghiên cứu, đánh giá khá toàn diện về triết học cổ điển Đức nói chung và đạo đức học Kant nói riêng, đạo đức học của 4 ông đã khơi dậy nhiều vấn đề đạo đức của đời sống cộng đồng, trong đó có Việt Nam chúng ta. Tiếp thu những giá trị sâu sắc của đạo đức học Kant luận văn muốn góp thêm một vài những khía cạnh nhỏ bé trong hiểu biết về đạo đức học Kant.Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài được lựa chọn nhằm làm rõ những vấn đề đạo đức học của Immanuel Kant trong tác phẩm Phê phán lý tính thực hành. Đó là những nội dung khái niệm về: hành vi đạo đức, mệnh lệnh tuyệt đối, phạm trù tự do. Với mục đích như vậy, luận văn hướng tới việc giải quyết nhiệm vụ cơ bản sau: Một là: phân tích những tiền đề cơ bản cho sự hình thành quan niệm Kant về những vấn đề liên quan đến đạo đức học trong tác phẩm Phê phán lý tính thực hành. Hai là: phân tích một cách có hệ thống, làm rõ quan niệm của Kant về các phạm trù như phạm trù tự do, mệnh lệnh tuyệt đối, hành vi tự do… Ba là: đưa ra nhận xét và đánh giá về những đóng góp và hạn chế của quan niệm Kant về đạo đức học dưới góc nhìn của triết học Mác-Lênin 3.Phạm vi nghiên cứu Đây là một đề tài rộng tuy nhiên, vì điều kiện thời gian không cho phép khóa luận chỉ tập trung nghiên cứu đạo đức học của Kant thông qua tác phẩm “Phê phán lý tính thực hành”. 4.Ý nghĩa của việc nghiên cứu Về mặt lý luận,khóa luận góp phần vào việc tìm hiểu và làm sáng tỏ những quan niệm về đạo đức của Kant.Về mặt thực tiễn,khóa luận có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong việc học tập nghiên cứu của sinh viên. 5.Bố cục Khóa luận chia làm 02 chương và 06 tiết Chương 1: Những điều kiện và tiền đề hình thành đạo đức học I.Kant trong tác phẩm Phê phán lý tính thực hành 5 Chương 2: Những nội dung cơ bản của đạo đức học Kant trong tác phẩm Phê phán lý tính thực hành NỘI DUNG CHƢƠNG 1: NHỮNG ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH ĐẠO ĐỨC HỌC KANT 1.1. Bối cảnh lịch sử Kant sinh ngày 22 tháng 4 năm 1724 trong một gia đình trung lưu gốc Scotland tại Konigsberg là người con thứ tư của Johann Georg Kant (1683–1746), người chuyên nghề chế biến đai da, và bà Anna Regina (1697–1737), thuộc họ Reuter. Ông có tám anh chị em, nhưng chỉ bốn người đạt tuổi thành niên. Gia đình ông rất sùng đạo, với bà mẹ có một cái nhìn phóng khoáng về giáo dục. Thời thơ ấu, cậu bé Kant chiu ảnh hưởng từ mẹ của mình vì bà có một đức tin mãnh liệt và lối sống ngăn nắp nề nếp. Với truyền thống gia đình của mình nên thoạt đầu bố mẹ muốn ông trở thành mục sư nên gửi Kant vào trường trung học Latinh. Ông nhập học tại trường trung học Friedrichskollegium năm 1732, được đào tạo tại đây và năm 1740 đã bắt đầu chương trình cao học tại Albertina, đại học tại Konigsberg. Mặc dù đăng kí bộ môn Thần học nhưng Kant lại quan tâm đến Khoa học tự nhiên. Giáo sư bộ môn Luận lí học và Siêu hình học Martin Knutzen giúp ông làm quen với học thuyết của Leibniz và Newton. Ngay từ những năm học trong trường ông đã rất quan tâm đến các môn học như toán học, vật lý học, cơ học và vũ trụ học. Tại đây, Kant có nhiều dịp làm quen với cơ học, thiên văn học, toán học của Newton, Decac, và tư tưởng chính trị của các nhà khai sáng Pháp. Ông nghiên cứu kỹ các hệ thống triết học của các nhà triết học đi trước và đặc biệt quan tâm đến các nhà triết học Anh như Locke và Hium. Ông tìm hiểu hệ thống triết học Leibniz, và các tác phẩm của Voltaire. Vào mùa thu năm 1740 (lúc 16 tuổi) từ dự định học văn học cổ điển Kant chuyển sang học triết học tại trường đại học Konigsberg. Năm 1745, 6 Kant tốt nghiệp đại học loại xuất sắc với luận văn Những suy nghĩ về sự đánh giá đúng đắn của lực sống, trong đó chàng cử nhân 21 tuổi đã trình bày nguyên tắc sống của mình: “Đối với chúng ta, điều đáng quý nhất không phải là đi theo lối mòn đã có, mà phải biết đi theo con đường mà loài người cần đi” [dẫn theo 32, 16]. Suốt đời Kant đã sống theo nguyên tắc đó và ông đã khá thành công trong sự nghiệp. Sau khi tốt nghiệp đại học, để nuôi sống bản thân mình, giúp đỡ gia đình cũng như chuẩn bị cơ sở vật chất cho việc nghiên cứu khoa học trong tương lai, Kant đã làm gia sư cho các gia đình quý tộc gần 10 năm. Đây cũng là khoảng thời gian rất quý giá để chàng thanh niên tích lũy tri thức cho sự nghiệp sau này. Năm 1754, Kant trở về Konigsberg và tiếp tục chương trình đại học của mình. Chỉ một năm sau đó, 1755, ông công bố tác phẩm quan trọng đầu tiên của mình với nhan đề Thông sử tự nhiên và Thiên thể luận; cũng trong năm đó, ông được bổ nhiệm phó giáo sư tại Konigsberg và bắt đầu dạy nhiều bộ môn. Ông dạy các môn như Luận lí, Siêu hình, Nhân loại, Triết học đạo đức, Thần học tự nhiên, Toán, Vật lí, Lực, Địa lí, Sư phạm, và Luật tự nhiên. Năm 1770, ông được bổ nhiệm làm giáo sư logic và siêu hình học khi đã 46 tuổi ở trường Đại học Tổng Hợp Konigsberg. Ở đây, với bầu nhiệt huyết và sự cần mẫn ông đã giảng dạy nhiều môn khoa học khác nhau và được sinh viên hết sức yêu quý. Ông đã để lại cho nhân loại một hệ thống triết học độc đáo và sâu sắc nhất, chính vì thế ông được giới triết học thừa nhận và đánh giá cao. Đầu tiên là triết học gắn với khoa học tự nhiên, rồi sau đó ông ngày càng quan tâm đến vấn đề con người. Kant biểu thị thái độ kinh ngạc trước bầu trời đầy sao và quyền lực của quy tắc đạo đức đối với con người. Năm 1797, sau cái chết của vua Friedrich Wilhelm II sức khỏe của Kant đã suy giảm , vị giáo sư già yếu cáo từ giảng đường đại học về nghỉ hưu, sống những năm cuối đời ung dung tự tại. Trong sự nghiệp khoa học, Kant là người gặt hái 7 được nhiều thành công: năm 1786 ông được bầu làm Viện sĩ Viện Hàn lâm khoa học Hoàng gia Phổ tại Berlin; năm 1798 cả Viện Hàn lâm khoa học Italia và Paris đều bầu ông làm viện sĩ của viện mình. Kant là người có cách sống giản dị và hài hòa, thích bầu bạn. Những bài giảng của ông đầy uyên bác và lôi cuốn sinh viên. Mặc dù không ra khỏi thành phố quê hương nhưng ông vẫn rât nổi tiếng. Kant trút hơi thở cuối cùng ngày 12 tháng 2 năm 1804 với nụ cười trên môi và nhận xét “thế là tốt rồi”, ông mất khi đang hoàn thành một tác phẩm. Nghe tin ông mất mọi người thuộc các tầng lớp khác nhau đã vội vã đến căn nhà riêng của ông để được nhìn thấy con người vĩ đại ấy lần cuối. Cả thành phố và cả trường đại học tổng hợp đã tổ chức lễ an táng cho ông như một ông hoàng mà thành phố Konigsberg lúc ấy chưa từng được chứng kiến. Trong lời giới thiệu tác phẩm “Phê phán lý tính thực hành” Bùi Văn Nam Sơn đã nhận xét: “Suốt đến cuối đời, Kant là một huyền thoại sống, chiếm lĩnh mọi giảng đường đại học châu Âu và ảnh hưởng của ông kéo dài sâu đậm mãi đến tận ngày nay…đọc Kant là một sự vất vả cần thiết, hiểu biết ít nhiều về Kant là hành trang bắt buộc phải mang theo trong mọi nẻo đường suy tưởng” [32,16]. Lịch sử các nước châu Âu thế kỷ XVII – XVIII đã bước sang một giai đoạn mới, đặc biệt vào nửa cuối thế kỷ XVIII, Tây Âu đã đạt được những thành tựu kinh tế - xã hội mới khẳng định phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, đưa giai cấp tư sản lên địa vị thống trị. Sự phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa đã phá tan dần các quan hệ kinh tế phong kiến làm xuất hiện sản xuất mới với các nhu cầu xã hội và cá nhân mới. Nước Đức trong khoảng thời gian này về trình độ kinh tế và phương diện chính trị là một nước nông nghiệp phân tán. Nếu đem so sánh với các nước như Hà Lan, Anh, Pháp và những nước đã có cách mạng tư sản và quan hệ tư bản phát triển thì nước Đức thời bấy giờ chỉ là một nước nông nghiệp rất lạc hậu và bắt đầu phát triển tư bản chủ nghĩa mà thôi. 8 Trong hoàn cảnh lịch sử có nhiều biến động như thế, nếu nước Anh nhờ cách mạng tư sản và bước ngoặt công nghiệp mà trở thành một quốc gia tư bản lớn mạnh nhất và nước Pháp nhờ cách mạng tư sản Pháp năm 1789 mà tiến nhanh trên con đường tư bản chủ nghĩa. Cả Châu Âu đang phát triển mạnh mẽ thì nước Đức lại ngược lại – là một nước phong kiến lạc hậu với chế độ quân chủ chuyên chế phân quyền, bị phân hóa cả về chính trị và kinh tế. Triết học cổ điển Đức nói chung, cũng như triết học Kant nói riêng ra đời trong hoàn cảnh phức tạp như thế. Xã hội Đức cuối thế kỷ XVIII vẫn còn là một nước nghèo nàn lạc hậu, phát triển trì trệ so với các nước Tây Âu xung quanh với sự thống trị của tập đoàn phong kiến chuyên quyền và độc đoán. Về kinh tế: Phương thức sản xuất phong kiến chiếm vai trò chủ đạo, ruộng đất tập trung trong tay địa chủ, những tàn dư của chế độ nông nô, phường hội, chúa đất và sự phụ thuộc lẫn nhau của nhiều cát cứ nhỏ bé với các thể chế chính trị lạc hậu đã kìm hãm phát triển kinh tế. Đời sống nhân dân Đức nghèo nàn và lạc hậu, đó là nền kinh tế manh mún, phân tán. Về chính trị: Đứng đầu triều đình Phổ là vua Friedrich Wilhem II bảo thủ và độc đoán để tăng cường và duy trì quyền lực và chế độ quân chủ phong kiến nên đã kìm hãm đất nước đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Bên cạnh đó thì giai cấp tư sản Đức còn rất nhỏ bé và yếu ớt chưa đủ tiềm lực kinh tế và chính trị để giành chính quyền, khẳng định quyền của giai cấp tư sản. Về tư tưởng: Dưới chế độ quân chủ chuyên chế thì tư tưởng thần học chiếm địa vị độc tôn là điều dễ hiểu. Khoa học không có chỗ để phát triển, nếu phát triển thì bị sa lầy trong tư tưởng thần học. Chủ nghĩa duy vật mới manh nha phát triển nhờ vào thành tựu của vật lý học, sinh học và y học thì bị thần quyền kìm hãm. Thần học được giảng dạy trong các trường đại học tổng hợp, còn các khoa học khác và triết học chỉ là công cụ biện hộ và bảo vệ cho thần học. Triết học thời kỳ này 9 thỏa hiệp với tôn giáo, thậm chí là nhượng bộ tôn giáo. Có thể khái quát bức tranh toàn cảnh xã hội Đức lúc này u ám và đen tối dưới cái vỏ bọc tôn giáo và thần quyền. Ăng ghen đánh giá thời kỳ này: “mọi thứ đều nát bét, lung lay xem chừng sắp sụp đổ, thậm chí chẳng còn một tia hi vọng chuyển biến tốt lên, vì dân tộc không còn đủ sức vứt bỏ cái thây ma rữa nát của chế độ đã chết rồi” [35, 754]. 1.2. Tổng quan về tƣ tƣởng đạo đức trƣớc Kant Tuy lạc hậu về kinh tế và chính trị, nước Đức thời kỳ này đã đạt được sự phát triển chưa từng có về mặt triết học, văn hóa và nghệ thuật. Đây là quê hương của nhiều nhà tư tưởng, nhà văn, nhà thơ nổi tiếng như Goethe, Schiller v.v họ một mặt tiếp thu những quan điểm của Nicôlai Kuzan, Leibniz, mặt khác được sự cổ vũ to lớn của tư tưởng khai sáng và văn hóa Pháp thế kỷ XVIII. Cách mạng tư sản Pháp năm 1789 đã thức tỉnh giai cấp tư sản Đức đấu tranh vì một trật tự xã hội mới ở Đức. Thể hiện nguyện vọng đó của giai cấp tư sản, các tác phẩm của Goethe, Schiller, Kant, Phíchtơ đều toát lên một tinh thần phẫn nộ chống lại sự trì trệ và bất công của xã hội Đức thời đó. Để giải quyết những vấn đề bất công trong xã hội Kant bàn tới đạo đức học. Chưa có những nghiên cứu nào cho thấy Kant bị ảnh hưởng bởi những học thuyết về đạo đức trước đó, nhưng để nghiên cứu đạo đức học của Kant, chúng ta cũng cần tìm hiểu về những học thuyết đạo đức trước ông. Bắt đầu nền lịch sử Triết học từ thời Hi Lạp cổ đại. Triết học Hy lạp cổ đại đã đưa ra những tư tưởng biện chứng sâu sắc trong toàn bộ triết học cổ đại. Đây là giai đoạn triết học tự nhiên thấm đượm tinh thần của phép biện chứng tự phát, khi mà thế giới và giới tự nhiên được xem như một chỉnh thể dưới cái nhìn và góc độ quan sát trực tiếp của các nhà triết học. 10 Đạo đức thời kỳ tiền Socrates là vấn đề tìm sự quân bình giữa hai bản năng “tinh thần” (spirit) và “dục vọng” (passion) của con người. Cũng giống như một kỵ mã phải điều khiển hai con ngựa chiến, mỗi con muốn kéo cỗ xe ngựa đi theo hướng riêng của nó, thì con người tìm hạnh phúc qua cách điều khiển cả hai đi theo hướng mình muốn. Tinh thần cao quá độ có thể trở thành hiếu thắng làm mất trí khôn, nhưng dục vọng quá nhiều cũng sẽ làm tê liệt khả năng phán đoán của con người. Phái khắc kỷ: Muốn tìm hạnh phúc chúng ta cần kiểm soát những yếu tố nằm trong khả năng của mình (thái độ, phán đoán, niềm tin); và tránh tìm cách thay đổi những điều ngoài tầm tay của chúng ta (đau khổ, cái chết). Hạnh phúc con người chính là sự “khôn ngoan”, là biết cách sống cho phù hợp với những qui luật mà lý trí khám phá ra về vũ trụ và thế giới bên ngoài. Zeno xứ Citium, giống như Epicurus, là một nhà luân lý học. Ông cũng giành cuối đời của mình ở Athen và nghiên cứu bên cạnh những triết gia thuộc phái Cynic như Diogenes thành Sinope. Zeno là cha đẻ của chủ nghĩa khắc kỷ, một trường phái triết học khá nổi tiếng vào cuối thời kỳ Hy Lạp hóa và thời Đế chế La Mã. Trong khi Epicurus tin rằng hạnh phúc, thông qua những khoái lạc nhỏ bé, là mục tiêu của cuộc sống thì Zeno lại đi đến một kết luận trái ngược. Zeno và những triết gia thuộc phái khắc kỷ khác tin rằng vũ trụ được tạo nên bởi một đấng toàn năng, người đưa ra luật lệ một cách công bằng và có lý trí. Vì vậy vũ trụ là nằm ngoài tầm kiểm soát của chúng ta. Điều duy nhất chúng ta có thể làm là kiểm soát tư tưởng và mong muốn của mình. Đây đúng là điểm mà chủ nghĩa khắc kỷ tập trung nghiên cứu. Chúng ta không có năng lực kiểm soát vũ trụ hay thậm chí là kiểm soát những gì xảy ra với 11 chúng ta. Thay vào đó chúng ta nên tập trung vào cách chúng ta phản ứng với vũ trụ. Nỗi buồn hay sự thống khổ là để dành cho chúng ta. Và điều đó thường đến vì chúng ta có những khát khao không thực tế và thất vọng là không thể tránh khỏi. Những người theo chủ nghĩa khắc kỷ dạy rằng chúng ta không nên truy cầu những mong muốn thường nhật của mình, mà thay vào đó nên loại bỏ chúng ngay từ giây phút đầu tiên. Và họ coi điều này là cảnh giới lôgic cao nhất. Những người theo chủ nghĩa khắc kỷ tin rằng lý trí nhất là phủ nhận những khao khát và khoái lạc không thực tế để đổi lại sự tồn tại yên bình hòa hợp với tự nhiên. Phái ngụy biện: Chối bỏ mọi đạo đức truyền thống, con người là thước đo cho chính mình; dùng tài hùng biện để thắng trong những cuộc tranh luận và thuyết phục người khác nhìn nhận “chân lý” của mình. Chân lý thuộc về kẻ thắng. Tương đối và hoài nghi là hai chủ thuyết nền tảng của trường phái ngụy biện. Protagoras đại diện cho phái ngụy biện, cho rằng mọi tri thức mà một con người có thể đạt được đều giới hạn trong khả năng con người của họ. Với câu nói nổi tiếng: "Con người là thước đo của mọi vật, họ coi vật gì là có thì nó có, coi việc gì không có thì không có". Theo Protagoras, tri thức của chúng ta bị giới hạn vào các tri giác khác nhau của chúng ta và những tri giác này ở mỗi người mỗi khác. Không có một tiêu chuẩn chung nào để xác định tri giác của người này là đúng và của người kia là sai. Người ta tri giác được bao nhiêu đặc tính thì vất đó có bấy nhiêu đặc tính, không thể phát hiện được cái gì là bản chất "thực" của bất cứ cái gì. Không có cách gì phân biệt được "biểu hiện bên ngoài" và "thực tại". Chẳng hạn, người ta nói cơn gió ấy lạnh thì quả thực nó là lạnh chứ không chỉ là có vẻ như vậy chỉ vì một ai đó cảm thấy nó ấm. 12 Protagoras kết luận, tri thức thì tương đối tùy theo mỗi người. Do đó, các phán đoán đạo đức cũng chỉ là tương đối. Theo ông, có thể có những nguyên tắc phản ánh một ước muốn chung của mọi nền văn hóa muốn có một trật tự đạo đức giữa mọi người, nhưng không có qui luật tự nhiên đồng nhất cho hành vi con người mà mọi dân tộc ở mọi nơi có thể khám phá ra. Luật pháp và các qui tắc đạo đức là dựa trên qui ước nên không có đúng và sai, ngoại trừ những nhận xét của lương tri về tính "lành mạnh" tương đối của chúng. Tuy vậy, vì lợi ích của một xã hội hòa bình và trật tự, người dân phải tôn trọng và tuân thủ các phong tục, luật lệ, và các qui tắc đạo đức mà truyền thống của họ đã cẩn thận vun trồng. Socrates (470- 399 TCN) một triết gia được coi là bậc thầy về triết học truy vấn, một công dân mẫu mực của thành Athen của Hy Lạp cổ đại. Trước Socrates, các triết gia Hy Lạp cổ đại chủ yếu quan tâm đến những vấn đề về vũ trụ luận, giải thích sự hình thành và phát triển của thế giới dựa trên những kiến thức khoa học tự nhiên như vật lý, toán học, sinh học, v.v.. Không đi theo lối mòn bản thể luận triết học của các bậc tiền bối. Với luận đề nổi tiếng: “Con người, hãy tự nhận thức chính mình”, Socrates quyết định lựa chọn cho mình một con đường riêng, ông chú ý tới vấn đề con người, mà trọng tâm trong bản tính con người là đạo đức. Theo Socrates, triết học không phải là hiện tượng tư biện, chỉ luận bàn những vấn đề không liên quan gì đến cuộc sống thường nhật, trái lại, nó là phương tiện dạy con người cách sống hay cần phải sống như thế nào. Theo nghĩa đó, triết học trước hết phải là tri thức hay sự hiểu biết về con người, tri thức ấy nhất thiết phải là tri thức về cái thiện. Do vậy, nếu đạo đức là hành vi đối nhân xử thế đẹp thì đạo đức đó không là gì khác ngoài tri thức. Phản biện lại nhóm Ngụy Biện, Socrates chủ trương rằng tri thức phải gắng liền với khả năng nhận thức và thực hành điều thiện hảo hầu mang lại hạnh phúc cho chính mình và tha nhân. Khủng hoảng trong xã hội thảnh Athens đến từ sự bại chiến với Persia đặt lại vấn đề về cách sống, đưởng lối huấn luyện và giáo dục giới 13 trẻ, tương quan giữa sự thiện và niềm tin tôn giáo hay thần thánh? Khủng hoảng là thời gian thích hợp để suy tư về nền tảng đạo đức, truy vấn về cách chúng ta suy tư, phán đoán và tìm kiếm chân lý để đạt đến một cuộc sống thiện hảo. Giữa hai quan điểm sự thiện là “bẩm sinh” và là kết quả của “tài tranh cãi” thì Socrates chọn con đường thứ ba. Đó là con người qua đối thoại, phản tỉnh, biện chứng pháp, tiến trình tiệm tiến của nổ lực tìm chân lý chung, sẽ giúp chúng ta gia tăng ý thức về những “giả định” chung về đức hạnh. Trong cuộc đời mình, Socrates luôn tìm cách quảng bá các quan niệm đạo đức của mình bằng cách giao tiếp với đông đảo quần chúng tại rất nhiều các ngõ ngách của Athen. Hoạt động này dần dần thu hút sự quan tâm của nhiều người dân và có sự ảnh hưởng đến đời sống tinh thần của xã hội đương thời và cũng gây ra sự tức tối của những công dân thuộc đẳng cấp giàu có. Và đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến cái chết bi kịch của ông. Nhiều nhà triết học Cổ đại Hy Lạp quan niệm rằng, con người là một vũ trụ thu nhỏ. Socrates đã tích cực tiếp nối tư tưởng trên, bằng cách nhận thức chính bản thân con người thông qua sự giao tiếp. Ông là người rất thích tranh luận với bất kỳ ai nhằm tìm kiếm chân lý. Nhiều khi, do đuối lý, những kẻ tranh luận đã nhục mạ ông, thậm chí đánh đập ông. Song ông vẫn chấp nhận tất cả mà không chống lại. Bởi vì, theo ông, nếu cố chấp thì chẳng khác gì, khi "con lừa húc tôi, lẽ nào tôi lại đưa nó ra toà?". Ông coi việc nhận thức con người thông qua giao tiếp là rất quan trọng. Tiến trình giao tiếp có sự tác động qua lại về mặt tinh thần giữa những người đối thoại. Vì thế, cần tổ chức quá trình nhận thức thông qua sự giao tiếp một cách khéo léo để không dẫn đến sự đổ vỡ. Tranh luận như thế, không phải là cãi nhau mà mục đích của nó là để tìm ra chân lý đúng như nguyên nghĩa từ phép biện chứng ở thời Cổ 14 đại. Một sự đối thoại như vậy không thể tự diễn ra một cách ngẫu nhiên mà phải có sự nỗ lực để xây dựng phương pháp nhằm bảo đảm cho sự giao tiếp diễn ra phù hợp cho mục đích của cuộc đối thoại. Trong giao tiếp - theo Socrates - nhất thiết không được giáo huấn người khác (một dạng thức kiêu ngạo được che đậy như là sự lễ độ). Vì khi cảm nhận được thái độ kiêu ngạo của đối phương, người đối thoại sẽ co mình lại, phòng thủ khiến cho quá trình giao tiếp và nhận thức tiếp theo sẽ diễn ra rất khó khăn và có nguy cơ thất bại. Thông qua giao tiếp con người cũng tự nhận thức ra bản thân mình và người đối thoại như là cái gương đặc biệt giúp chỉnh lý những suy nghĩ của mình. Quan niệm như vậy về quá trình giao tiếp - nhận thức đã tiến sát đến phương pháp đối thoại nổi tiếng, được coi như một phần quan trọng trong phép biện chứng của Socrates. Là người không đề cao vật chất. Đồng thời ông cũng không coi sự bần cùng là cơ sở của đạo đức, hơn thế ông cũng không phải là người sống khắc kỷ. Coi sự kiềm chế là đức hạnh quan trọng nhất, đó chính là sự kế tục thái độ ôn hoà mà các nhà thông thái Hy Lạp trước đó từng ca ngợi. Không màng danh vọng hay của cải vật chất, khi nhìn thấy hàng hóa ở chợ, ông nói: "Có biết bao thứ mà có thể sống thiếu chúng". Vì không quan tâm đến những kẻ ngạo mạn, ngu dốt nhưng hay chế nhạo người khác nên ông được người đương thời coi là kẻ thông thái hơn người khác. Theo ông, việc làm chủ sự thông thái tự thân nó cho phép dễ dàng làm chủ sự thông thái trong các lĩnh vực khác. Đó cũng là cách tiếp cận của ông với các khái niệm chung như: cái thiện và cái ác, cái xấu và cái đẹp v.v. Con người là một 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan