Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nhận diện lễ hội truyền thống việt nam thông qua lễ hội chọi trâu ở đồ sơn hải p...

Tài liệu Nhận diện lễ hội truyền thống việt nam thông qua lễ hội chọi trâu ở đồ sơn hải phòng

.PDF
86
94
125

Mô tả:

Tóm tắt Trong những năm gần đây, hòa mình vào quá trình đổi mới của đất nước, Hải Phòng đang có những bước chuyển mình mạnh mẽ. Đây vừa là cơ hội, vừa là thách thức đối với các lễ hội truyền thống, trong đó có lễ hội chọi trâu ở Đồ Sơn bởi những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp có thể có cơ hội được lan tỏa.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN KHOA TRIẾT HỌC ----------------------- PHẠM THỊ NGỌC HOA NHẬN DIỆN LỄ HỘI VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG CỦA NGƢỜI VIỆT THÔNG QUA LỄ HỘI CHỌI TRÂU Ở ĐỒ SƠN- HẢI PHÕNG KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH TRIẾT HỌC CHẤT LƢỢNG CAO Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2016-X HÀ NỘI, 2020 TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN KHOA TRIẾT HỌC ----------------------- PHẠM THỊ NGỌC HOA NHẬN DIỆN LỄ HỘI VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG CỦA NGƢỜI VIỆT THÔNG QUA LỄ HỘI CHỌI TRÂU Ở ĐỒ SƠN- HẢI PHÕNG KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH TRIẾT HỌC CHẤT LƢỢNG CAO Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2016-X NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS. PHẠM QUỲNH CHINH HÀ NỘI, 2020 LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành khóa luận này, em đã nhận được sự giúp đỡ rất nhiệt tình từ phía các thầy cô giáo, gia đình, Ủy ban nhân dân Quận Đồ Sơn- Thành phố Hải Phòng cả về tình thần cũng như các kiến thức khoa học. Đầu tiên, em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến TS Phạm Quỳnh Chinhngười đã hướng dẫn em tận tình, tạo cho em động lực say mê nghiên cứu với ý thức làm việc hết sức nghiêm túc suốt thời gian qua. Em xin cảm ơn Ủy ban nhân dân quận Đồ Sơn cũng như các ông chủ trâu chọi của các phường Ngọc Xuyên, Vạn Hương đã tạo điều kiện cho em có những nhìn nhận và kiến thức thực tế nhất về lễ hội chọi trâu Đồ Sơn. Đồng thời, em cũng xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Ban chủ nhiệm, các thầy cô giáo trong khoa Triết học- Trường Đại học khoa học xã hội và Nhân văn đã tạo điều kiện hướng dẫn, giúp đỡ để em có thể hoàn thành khóa luận này. Tác giả khóa luận 1 LỜI CAM ĐOAN Em xin cam đoan đề tài nghiên cứu: “Nhận diện lễ hội truyền thống Việt Nam thông qua lễ hội chọi trâu ở Đồ Sơn - Hải Phòng” là công trình nghiên cứu độc lập của cá nhân em. Các số liệu, kết quả và các dẫn chứng là do em tự tìm hiểu, có sự tham khảo, sưu tầm và sự kế thừa những nghiên cứu của các tác giả đi trước. Các số liệu và kết quả nghiên cứu là trung thực, có trích dẫn rõ ràng. Hà Nội, ngày tháng năm 2020 TÁC GIẢ Phạm Thị Ngọc Hoa 2 MỤC LỤC MỞ ĐẦU ................................................................................................................................... 4 CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU VỀ LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI VIỆT ..................................................................................................................... 12 1.1. Khái niệm lễ hội, lễ hội truyền thống và chức năng lễ hội truyền thống của người Việt..................................................................................................................12 1.2. Đặc trưng của lễ hội truyền thống Việt Nam .....................................................23 CHƯƠNG 2: LỄ HỘI CHỌI TRÂU QUẬN ĐỒ SƠN- THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG ....................................................................................................................... 30 2.1. Nguồn gốc ra đời và hình thành lễ hội chọi trâu ở Đồ Sơn - Hải Phòng ..................30 2.2. Lễ hội chọi trâu- nơi thể hiện những giá trị lễ hội văn hóa truyền thống ...40 CHƢƠNG 3: NHẬN DIỆN LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG THÔNG QUA THỰC TRẠNG CỦA LỄ HỘI CHỌI TRÂU ĐỒ SƠN HIỆN NAY ...................................... 47 3.1. Thực trạng lễ hội truyền thống chọi trâu ở Đồ Sơn- Hải Phòng ........................47 3.2. Giải pháp góp phần bảo tồn giá trị lễ hội chọi trâu Đồ Sơn- Hải Phòng ....54 KẾT LUẬN ............................................................................................................................ 64 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................... 65 3 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Lễ hội là loại hình sinh hoạt văn hoá, sản phẩm tinh thần của người dân được hình thành và phát triển trong quá trình lịch sử. Đây cũng chính là dịp để con người giao lưu, gặp gỡ, là nơi kết nối cộng đồng, nơi con người thể hiện truyền thống uống nước nhớ nguồn. Lễ hội là một bộ phận quan trọng của di sản văn hóa phi vật thể của dân tộc Việt Nam và là một loại hình có tính chất tổng hợp chứa đựng trong nó cả tín ngưỡng, tôn giáo, phong tục tập quán, diễn xướng dân gian và văn nghệ dân gian. Nghiên cứu lễ hội truyền thống trên phương diện lý luận và thực tiễn, góp phần xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Trải qua sự thăng trầm của thời gian, những giá trị của bản sắc văn hóa dân tộc được tích tụ và kết tinh trong lễ hội truyền thống như một lớp trầm tích của lịch sử văn hóa dân tộc. Để nhận diện được lễ hội truyền thống, cần phải thông qua việc khảo cứu những lễ hội cụ thể, trong đó không thể không nhắc đến lễ hội chọi trâu qua đó thấy được các giá trị, vai trò của lễ hội trong bản sắc văn hóa. Do đó, việc nghiên cứu khảo sát một lễ hội truyền thống của một địa phương cụ thể là một việc làm có ý nghĩa lí luận và thực tiễn sâu sắc. Là một thành phố thuộc đồng bằng Bắc Bộ, Hải Phòng có bề dày lịch sử, truyền thống văn hóa và luôn có một vị trí quan trọng qua các thời kì lịch sử của đất nước. Vùng đất này đã hình thành nhiều loại hình văn hóa với những sắc thái riêng biểu hiện thông qua hệ thống các di tích, lịch sử, các lễ hội truyền thống với các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể và điển hình là lễ hội chọi trâu. Trong những năm gần đây, hòa mình vào quá trình đổi mới của đất nước, Hải Phòng đang có những bước chuyển mình mạnh mẽ. Đây vừa là cơ hội, vừa là thách thức đối với các lễ hội truyền thống, trong đó có lễ hội chọi trâu ở Đồ Sơn bởi những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp thể có thể có cơ hội được lan tỏa , Tuy nhiên cũng có thể dẫn tới sự mai một, biến đổi, thậm chí là biến mất. Do vậy, nhận diện các giá trị của lễ hội truyền thống thông qua việc khảo cứu lễ hội chọi trâu từ đó góp phần vào việc bảo tồn các giá trị văn hóa của lễ hội chọi trâu nói riêng và lễ hội truyền thống Việt Nam nói chung là vô cùng cần thiết. 4 Xuất phát từ chính những lý do khách quan và chủ quan trên, tác giả đã chọn đề tài: “Nhận diện lễ hội văn hóa truyền thống của người Việt thông qua lễ hội chọi trâu ở Đồ Sơn - Hải Phòng” làm đề tài luận văn tốt nghiệp chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học. 2. Lịch sử vấn đề Lễ hội truyền thống là một trong những vấn đề được nhiều học giả trong và ngoài nước nghiên cứu từ trước tới nay bởi chúng có vị trí nhất định trong đời sống tinh thần của người Việt. Ở mỗi góc độ nghiên cứu, các tác giả lại đưa ra cái nhìn khác nhau, vì vậy lễ hội truyền thống nói chung và lễ hội chọi trâu nói riêng luôn có những màu sắc đa dạng và vô cùng phong phú. Có thể kể đến một số công trình tiêu biểu sau: - Những công trình nghiên cứu về lễ hội, lễ hội truyền thống của Việt Nam: Trong số các loại hình văn hóa dân gian Việt Nam, lễ hội là loại hình nghiên cứu tương đối muộn màng. Thời kì từ thế kỉ X đến năm 1858, các nhà nho chỉ quan tâm ghi chép lại huyền thoại, các thần tích về các thần được người dân ở các làng quê thờ phụng. Từ Việt điện u linh của Lý Tế Xuyên đến Lĩnh Nam chích quái của Vũ Quỳnh- Kiều Phú rồi Ô châu cận lục của Dương Văn An chỉ ghi chép phần thần thoại, truyền thuyết liên quan đến các vị thần trong vương triều, các địa phương phụng thờ. Trong các bộ sách như “Đại Nam nhất thống chí” của Quốc sử quán nhà Nguyễn, Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức, Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú chỉ ghi những dòng ngắn gọn về các phong tục, trò chơi, lễ tết của cư dân mỗi vùng mà họ đề cập. Vì vây, các tác giả từ thế kỉ X đến năm 1858 chưa sưu tầm, nghiên cứu về lễ hội nhưng đã có những ghi chép và có thể nói là những dòng ghi chép đầu tiên về lễ hội cổ truyền Việt Nam. Năm 1915, khi viết về phong tục tập quán, Phan Kế Bính cũng dành nhiều trang trong cuốn Việt Nam phong tục để viết về việc “thờ thần, việc tế tự, nhập tịch, Đại Hội, Lễ Kỳ an”[4, 109]. Tuy không miêu tả lễ hội nào cụ thể nhưng nhận xét về lễ hội cổ truyền của ông là rất xác đáng. Ví dụ những nghệ thuật miêu tả của ông từ mở hội đến nơi sửa sang thờ cúng, luyện tập, rước nước, gia quan đến phục nghênh hồi đình. Những năm 1930- 1940, trên báo chí có một số bài báo viết về lễ hội truyền thống chẳng hạn như Thế Lữ viết về hội Dóng, Vũ Bằng viết về hội Lim, Nguyễn Duy Kiên viết về tục thổi cơm thi ở phiên chợ Chuông, Nguyễn Văn Tố 5 viết Một vài tục cổ về mùa xuân. Năm 1938, trong tác phẩm Việt Nam văn hóa sử cương, GS Đào Duy Anh có đề cập đến lễ hội cổ truyền trong phần “Tín Ngưỡng và tế tự”. Lễ hội không phải là đối tượng ông đề cập nhưng những ghi chép của ông vẫn có nhiều tác dụng trong việc nghiên cứu lễ hội của các thế hệ sau. Từ năm 1945-1954, hầu như lễ hội cổ truyền hầu như không được quan tâm nghiên cứu, sưu tầm. Lý do chính phải chăng là khói lửa của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã khiến cho những lễ hội cổ truyền không được mở nên việc sưu tầm, nghiên cứu cũng không được phát triển. Từ năm 1954 đến năm 1975, đất nước tạm thời bị chia cắt thành hai miền, việc sưu tầm, nghiên cứu lễ hội ở hai miền diễn ra khác nhau. Ở miền Nam, có thể kể đến các bài viết của tác giả như Bửu Kế với bài : Lễ xuân hay đám rước thần nông (Bách Khoa, 1961), Những lễ tết đầu năm (Bách khoa, 1961), Lê Văn Hảo viết về cổ tục của người Việt thông qua Hội mùa (Đại học, 1964). Bên cạnh các tác giả cụ thể, Nguyễn Toại viết bài nghiên cứu đáng chú ý về lễ hội cổ truyền đăng trên Nghiên cứu Việt Nam: Nhớ lại hội hè đình đám. Tác giả không dừng lại ở lễ hội nào cụ thể mà trình bày những nét khái quát về lễ hội cổ truyền. Tác giả đi từ việc thờ phụng phúc thần và thành hoàng ở các làng quê đến việc tìm hiểu về nghi thức cúng tế, trò diễn, trò rước của các lễ hội ở làng quê. Trong số các tác giả ở miền Nam từ năm 1954 đến năm 1975 sưu tầm về lễ hội cổ truyền, có hai tác giả đáng lưu ý là Nguyễn Đăng Thục và Toan Ánh. Với Nguyễn Đăng Thục, ông không chuyên sâu nghiên cứu về lễ hội cổ truyền mà ông xem lễ hội cổ truyền là một phương tiện để tìm hiểu tư tưởng Việt Nam. Ông dẫn những ý kiến xác đáng của L. Cadière về tôn giáo tín ngưỡng của người Việt để phân tích các tín ngưỡng gắn liền với lễ hội. Trái lại, Toan Ánh coi lễ hội cổ truyền chính là mục đích tiếp cận, đối tượng miêu tả và nghiên cứu của ông. Năm 1960, trên Văn đàn tuần san, ông đã viết về hội hè và phong tục mùa thu. Năm 1969, quyển thượng cuốn Nếp cũ hội hè đình đám ra mắt bạn đọc, năm 1969, quyển hạ ra mắt. Ngoài những phần khảo cứu, ông tập trung miêu thuật các lễ hội cổ truyền trên mọi miền đất nước. Bởi vậy, có thể nói Toan Ánh là người có đóng góp rất lớn trong việc nghiên cứu lễ hội cổ truyền ở Việt Nam. Ở miền Bắc, từ sau năm 1954, việc sưu tầm và nghiên cứu lễ hội cổ truyền có thể chia ra làm hai giai đoạn: trước và sau năm 1975. Trước năm 1975, việc nghiên cứu lễ hội cổ truyền chưa được giới nghiên cứu quan tâm. Một phần do chính sự phát triển của đối tượng nghiên cứu, 6 mặt khác do nhiều tác động của chiến tranh nên sinh hoạt lễ hội cổ truyền tạm thời lắng xuống. Sau năm 1975, việc nghiên cứu, sưu tầm như có một bước phát triển mới. Năm 1978, nhóm tác giả Đặng Văn Lung, Hồng Thao, Trần Linh Quý công bố cuốn Quan họ, nguồn gốc và quá trình phát triển. Tác giả đã đề cập đến một số vấn đề của lễ hội, chủ yếu là những lễ hội liên quan đến quan họ như hội Lim, hội Ó, hội Nhồi và các lối hát quan họ như hát trùm đầu, hát hiếu, hát kế chạ, khía cạnh tác giả quan tâm là việc nghiên cứu nguồn gốc và quá trình phát triển của dân ca quan họ mà các lễ hội chỉ là phương tiện để tác giả chứng minh cho lễ hội của mình. Trong những năm trước năm 1980, ngoài những tác giả kể trên còn có một số tác giả khác viết về lễ hội cổ truyền như Nguyễn Huy Hồng viết về hội chùa Keo (1977), Nguyễn Quốc Lộc viết về hội Hiền (1977), Dương Văn Thâm viết về trò Trám (1974), Nguyễn Khắc Xương viết về một số diễn xướng hội làng vùng chân núi Hùng (1976)… Trong giai đoạn từ năm 1986 đến nay, có rất nhiều tác giả nghiên cứu về lễ hội truyền thống của Việt Nam. Năm 1990, văn phòng ban Nếp sống mới trung ương xuất bản cuốn Hội hè Việt Nam. Ngoài lời mở đầu, du lịch và hội hè Việt Nam, tập sách đã miêu thuật 18 lễ hội cổ truyền, trong đó có 16 lễ hội phía bắc và 2 lễ hội phía nam. Tuy nhiên, tư liệu này không có gì mới mẻ so với các tư liệu trước đã nghiên cứu. Năm 1991, Sở Khoa học công nghệ và môi trường Hà Nội cho thực hiện đề tài Khai thác những yếu tố tích cực, hạn chế các yếu tố tiêu cực của lễ hội dân gian truyền thống, định hướng một mô hình lễ hội hiện đại ứng dụng thể nghiệm vào tình hình lễ hội hiện đại ứng dụng thể nghiệm vào tình hình lễ hội hiện nay đang được phục hồi nhanh chóng tại Hà Nội”. Năm 1997, Tác giả Đỗ Văn Rỡ công bố cuốn sách Nghi thức lễ hội truyền thống Việt Nam. Cuốn sách bàn về cội nguồn và lễ bái, nghi thức tế lễ, hát cúng và nghi lễ hát cúng, được viết theo kiểu biên khảo, nên có tác dụng ít nhiều cho ai muốn tìm hiểu nghi thức lễ hội truyền thống Việt Nam. Năm 2003, tác giả Nguyễn Quang Lê xuất bản công trình Văn hóa ẩm thực trong lễ hội truyền thống Việt Nam. Cuốn sách đã tái hiện văn hóa ẩm thực trong lễ hội trong phong tục lễ hội truyền thống xưa và nay, cỗ lễ vật dâng cúng tổ tiên và thần linh trong lễ hội dân gian truyền thống. Vũ Ngọc Khánh, Lễ hội trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, (2004), NXB Văn hóa - Thông tin. Trong cuốn sách này tác giả cho rằng lễ hội không phải là một hiện tượng văn hóa bất biến mà nó có sự thay đổi qua thời gian. Sự biến đổi và tiếp tục của các lễ hội chính là sự hài 7 hòa của nó đối với không gian, thời gian nhất định. Thừa nhận sự trường tồn của lễ hội cổ truyền, các nhà nghiên cứu không quan niệm lễ hội là sự luyến tiếc quá khứ, để lưu giữ, huyền thoại và cô lập con người. Lễ hội cũng không phải tồn tại để con người quay ra tìm sự huyền bí với những cảm giác bồng bềnh, ngây ngất nhằm mục đích thoát ly cuộc sống. Năm 2004, các tác giả Nguyễn Thu Linh và Phan Văn Tú thực hiện đề tài khoa học cấp Bộ Quản lý lễ hội cổ truyền: thực trạng và giải pháp. Đề tài đã đánh giá tương đối đầy đủ về thực trạng lễ hội truyền thống Việt Nam và đưa ra một số giải pháp để phát triển và nâng cao giá trị của lễ hội. Giáo dục các thế hệ biết và hiểu về lịch sử - văn hóa dân tộc địa phương mình qua các trải nghiệm hội hè, trò chơi, trò diễn dân gian có giá trị tìm lại môi trường phục sinh và tôn tạo. Cùng quan tâm về quản lí lễ hội, tác giả Bùi Hoài Sơn công bố công trình Quản lý lễ hội truyền thống của người Việt (NXB. Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 2009). Tác giả đã khái quát hệ thống văn bản của Nhà nước ta về quản lý lễ hội, đánh giá ưu, nhược điểm về công tác quản lý lễ hội, đưa ra một số giải pháp tăng cường quản lý lễ hội từ góc độ quản lý di sản văn hóa phi vật thể. Năm 2012, Phạm Trình và Tần Minh biên soạn cuốn Hành trình lễ hội Việt Nam, trong đó các tác giả đã trình bày lễ hội theo các vùng văn hóa với tất cả 373 lễ hội, trong đó có 239 lễ hội của người Việt. Tóm lại, sưu tầm và nghiên cứu lễ hội cổ truyền đã trải qua một quá trình dài, nhiều thành tựu đã đạt được, nhiều cột mốc đã được cắm trên con đường ấy với những công trình sáng giá. Tuy nhiên, có thể thấy lễ hội là vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm trên bình diện chung về lí luận, mô tả quá trình chuẩn bị, diễn biến của từng lễ hội, tìm hiểu và làm rõ các giá trị đa dạng của loại hình này trong nhiều công trình đã được công bố. Những vấn đề về quản lí lễ hội cũng đã được một số tác giả quan tâm để chỉ ra thực trạng chung trong công tác quản lí, qua đó đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lí nhà nước, góp phần bảo tồn giá trị của lễ hội trong bối cảnh hiện nay. Đây là những công trình rất có giá trị được tác giả tiếp thu, kế thừa trong quá trình làm khóa luận của mình. - Những công trình nghiên cứu về lễ hội chọi trâu Đồ Sơn Về cơ bản, các công trình nghiên cứu về lễ hội chọi trâu và ảnh hưởng của nó đến đời sống tinh thần người dân quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng tính đến nay chưa có nhiều. Nhìn chung, các công trình này có nhắc đến lễ hội chọi trâu ở Đồ Sơn nhưng 8 vẫn chỉ dừng lại là những nét chấm phá lí luận. Nghiên cứu về đề tài này, cần nhắc tới cuốn “Đồ Sơn - lịch sử và Lễ hội chọi trâu” của tác giả Đinh Phú Ngà - 2003”. Trong sách, nhà nghiên cứu đã khái quát lại toàn bộ về mảnh đất Đồ Sơn, vùng đất giàu truyền thống và phong phú tiềm năng, sự hình thành khu dân cư, tính cách và phong tục tập quán; những tín ngưỡng và di tích lịch sử. Đặc biệt, tác giả đã làm nổi bật về lễ hội chọi trâu Đồ Sơn với các truyền thuyết cũng như những thăng trầm về lễ hội từ xưa đến nay. Tác giả Ngô Đức Thịnh trong cuốn sách: “Tín ngưỡng lễ hội cổ truyền Việt Nam” cũng nhắc đến lễ hội chọi trâu Đồ Sơn( Cụ thể từ trang 366 - 375). Những khái quát nhất về lễ hội từ công đoạn chuẩn bị đến khi diễn ra lễ hội đã được tác giả lột tả vô cùng phong phú và sinh động. Lễ hội chọi trâu Đồ Sơn cũng được một số tác giả chọn làm đề tài cho các công trình nghiên cứu cũng như luận văn của mình. Tác giả Nguyễn Văn Long với nghiên cứu Đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng tổ chức và quản lý lễ hội Chọi Trâu Đồ Sơn - Hải Phòng đã trình bày những đặc điểm về lễ hội Việt Nam nói chung và lễ hội chọi trâu Đồ Sơn nói riêng qua đó nêu lên thực trạng về tổ chức và quản lí lễ hội chọi trâu Đồ Sơn- Hải Phòng. Tác giả Nguyễn Vũ Long cũng nghiên cứu về lễ hội chọi trâu với đề tài Khảo sát, nghiên cứu Lễ hội Chọi trâu quận Đồ Sơn – Thành phố Hải Phòng. Trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng phục vụ du khách”. Qua nghiên cứu, tác giả đã làm nổi bật vẻ đẹp của vùng đất biển Đồ Sơn và lễ hội chọi trâu. Đồng thời, tác giả đã đề xuất các giải pháp để phát triển ngành du lịch thông qua lễ hội chọi trâu. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên mới chỉ bàn về một số vấn đề về vị trí địa lí, nguồn gốc cũng như trình bày khái quát về lễ hội chọi trâu. Tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu sâu về lễ hội chọi trâu để từ đó nhận diện sự thay đổi trong lễ hội truyền thống của người dân Hải Phòng nói riêng và nhân dân cả nước nói chung. Vì vậy, kế thừa, tiếp thu từ những nhà nghiên cứu đi trước, từ chính thực tiễn sinh ra, lớn lên tại Hải Phòng , tác giả lựa chọn đề tài: “Nhận diện lễ hội truyền thống thông qua lễ hội chọi trâu ở Đồ Sơn- Thành phố Hải Phòng” làm khóa luận tốt nghiệp. 9 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở lý luận về lễ hội, lễ hội truyền thống, và thực tiễn lễ hội chọi trâu ở quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng, đề tài làm rõ những đặc trưng và giá trị của lễ hội, lễ hội truyền thống, lễ hội chọi trâu để từ đó nhận diện các giá trị văn hóa của lễ hội chọi trâu nói riêng và lễ hội truyền thống nói chung. Từ đó đề xuất giải pháp góp phần hạn chế những vấn đề còn tồn tại và bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa của lễ hội chọi trâu cũng như lễ hội truyền thống Việt Nam. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để giải quyết được mục đích trên đề tài thực hiện những nhiệm vụ sau:  Phân tích khái niệm, nguồn gốc, bản chất của lễ hội  Tìm hiểu đặc trưng lễ hội truyền thống Việt Nam  Tìm hiểu quá trình ra đời hình thành lễ hội chọi trâu ở Đồ Sơn- Hải Phòng  Lễ hội chọi trâu thể hiện những giá trị lễ hội văn hóa truyền thống  Phân tích thực trạng của lễ hội chọi trâu để từ đó nhận diện được sự biến đổi của lễ hội truyền thống hiện nay  Đề xuất một số giải pháp góp phần bảo tồn và phát huy lễ hội chọi trâu nói riêng và lễ hội truyền thống Việt Nam nói chung 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tƣợng nghiên cứu Nhận diện lễ hội truyền thống Việt Nam thông qua lễ hội chọi trâu ở Đồ Sơn- Hải Phòng 4.2. Phạm vi nghiên cứu Lễ hội chọi trâu Đồ Sơn- thành phố Hải Phòng. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Khóa luận sử dụng các phương pháp sau: - Phương pháp tổng hợp tài liệu: nhằm đánh giá các công trình nghiên cứu về lễ hội, các báo cáo về di tích cũng như lễ hội truyền thống Hải Phòng nói chung và lễ hội chọi trâu nói riêng. 10 - Phương pháp điền dã, phỏng vấn sâu, dân tộc học sử dụng nhằm thu thập tư liệu. Tác giả luận văn quan sát, tham dự việc tổ chức lễ hội để có được sự đánh giá trực tiếp về công tác tổ chức và hoạt động quản lý lễ hội. - Phương pháp phân tích, so sánh được sử dụng để làm rõ điểm tương đồng và khác biệt, chỉ ra những mặt tích cực và hạn chế trong quá trình tổ chức lễ hội với một số lễ hội khác. - Tìm hiểu và phân tích dưới góc nhìn đa chiều. 6. Những đóng góp của đề tài - Trình bày, bổ sung tư liệu về lễ hội truyền thống, lễ hội chọi trâu ở Đồ Sơn- Hải Phòng - Đề tài góp phần bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa dân gian của vùng đất Hải Phòng qua đó có thể làm tư liệu tham khảo cho sinh viên chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học khi nghiên cứu về lễ hội truyền thống cũng như lễ hội chọi trâu ở Đồ Sơn 7. Bố cục đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, khoá luận gồm 3 chương, 6 tiết Chương 1. Giới thiệu chung về lễ hội truyền thống của người Việt. Chương 2. Lễ hội chọi trâu ở quận Đồ Sơn- thành phố Hải Phòng. Chương 3. Nhận diện lễ hội truyền thống thông qua thực trạng lễ hội chọi trâu Đồ Sơn hiện nay. 11 CHƢƠNG 1: GIỚI THIỆU VỀ LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG CỦA NGƢỜI VIỆT 1.1. Khái niệm lễ hội, lễ hội truyền thống và chức năng lễ hội truyền thống của ngƣời Việt 1.1.1. Khái niệm và mối quan hê giữa “Lễ” và “Hội” Việt nam có rất nhiều lễ hội, thể hiện sự phong phú và đa dạng trong văn hóa. Tuy nhiên có thể phân chia thành 2 loại: lễ hội truyền thống và lễ hội đương đại. Lễ hội truyền thống là hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng được tổ chức theo nghi lễ truyền thống, nhằm đáp ứng nhu cầu tinh thần của nhân dân. Lễ hội truyền thống luôn gắn với các địa danh, di tích lịch sử - văn hóa, với các nhân vật như: Thành hoàng làng; tổ làng nghề; những bậc anh hùng có công dựng nước và giữ nước, danh nhân và gắn với tín ngưỡng dân gian... Khi hướng tâm linh về lễ hội truyền thống, con người sẽ cảm thấy thoải mái và hạnh phúc khi được hưởng thụ, trao truyền các giá trị văn hóa. Những vất vả của cuộc sống thường nhật dường như tan biến, thay vào đó là sự vui mừng và cảm giác bình an. Bên cạnh lễ hội truyền thống, sự ra đời của lễ hội đương đại là nhu cầu tất yếu khách quan. Đà sự cần thiết của một đất nước đang chuyển mình mạnh mẽ trong thời kỳ hội nhập và phát triển, là sự sáng tạo nhằm đáp ứng các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, đồng thời cũng là cơ hội để quảng bá hình ảnh đất nước, con người, tiềm năng, thế mạnh của địa phương với bạn bè quốc tế. Lễ hội đương đại cũng góp phần làm giàu thêm kho tàng đồ sộ trên dưới 8.000 lễ hội các loại hàng năm của cả nước. Một số lễ hội đương đại đã từng bước tạo dựng được thương hiệu, mang bản sắc riêng của mình và có khả năng phát triển bền vững như Lễ hội làng Sen, Festival Huế, Festival Pháo hoa Đà Nẵng... Xuất phát từ nhu cầu thực hành tín ngưỡng, nhu cầu hành hương, chiêm bái hay đơn giản chỉ là tham quan, tham dự các lễ hội hiện đại ngày càng trở nên sôi nổi trong dân chúng. Nhu cầu đó cộng hưởng với việc lễ hội truyền thống được phục khắp các vùng miền đã tạo nên một thực tế không thể phủ nhận về vai trò của lễ hội trong bức tranh văn hóa hiện nay. Thời gian gần đây, khắp các làng quê đang tìm lại trong vốn văn hóa truyền thống của mình những yếu tố liên quan đến lễ hội để phục dựng, để trình diễn nét đặc sắc của văn hóa vùng miền. Nơi nào lễ hội chưa bị đứt đoạn, mai một thì sẽ 12 được chú trọng phục dựng. Thậm chí, lễ hội truyền thống của địa phương đã gần như biến mất, người dân vẫn cố gắng phục dựng từ các nguồn tư liệu cổ, từ trí nhớ của những người lớn tuổi. Vì vậy, lễ hội truyền thống và lễ hội đương đại đã có mối liên quan mật thiết với nhau. Tuy nhiên, trong giới hạn phạm vi của khóa luận, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu lễ hội truyền thống của Việt Nam. Vì vậy vậy, lễ hội truyền thống và lễ hội đương đại có mối liên quan mật thiết với nhau. Tuy nhiên, trong phạm vi khóa luận, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu lễ hội truyền thống của Việt Nam. *Khái niệm “Lễ” Theo từ điển tiếng Việt, lễ là “những nghi thức tiến hành nhằm đánh dấu hoặc kỉ niệm một sự việc, sự kiện có ý nghĩa nào đó”[13,540]. Trong thực tế, lễ có nhiều ý nghĩa và lịch sử hình thành khá phức tạp. Chữ “lễ” được hình thành và biết tới từ thời Chu (Thế kỉ VII trước công nguyên). Lúc đầu, chữ lễ được hiểu là các lễ vật của các gia đình quý tộc của nhà Chu cúng tế thần tổ tông, gọi là tế lễ, sau đó được chia theo thứ bậc của nhân (thị tộc Chu), còn các thứ nhân (không phải thị tộc Chu) và dân (nô lệ) không được chia phần như thế. Dần dần, chữ lễ được mở rộng nghĩa là “hình thức phép tắc để phân biệt trên dưới, hèn sang, thứ bậc lớn nhỏ, thân sơ trong xã hội khi đã phân hóa thành đẳng cấp”[38,127]. Khi xã hội này càng phát triển thì ý nghĩa của lễ càng được mở rộng như: lễ thành hoàng, lễ gia tiên, lễ khao vọng, lễ cưới, lễ cầu an, lễ cầu mưa, cầu tạnh, mang ý nghĩa bao quát hình thức ứng xử của con người với tự nhiên và xã hội. Trong lễ hội, lễ là linh hồn, cốt lõi và là phần quan trọng nhất, được mọi người chú trọng đầu tư cả về thời gian, công sức, tiền bạc. Các nghi thức của phần lễ thường gồm các động tác, các bài văn tế và các lễ vật để cúng. Phần lễ có rất nhiều loại hình khác nhau tùy vào nội dung lễ hội thuộc về tôn giáo, tín ngưỡng, kỷ niệm sự kiện lịch sử hay tưởng niệm danh nhân văn hóa, anh hùng dân tộc v.v... Những người tham gia phần lễ phải là người có uy tín, vai vế, vị trí nhất định. Thực hiện các nghi thức tế lễ có chủ tế thường là bậc cao niên (già làng, trưởng bản...) có uy danh, tài đức; có người xướng lễ (dẫn nội dung); đội hành lễ gồm các nam thanh, nữ tú được tuyển lựa và một vài người phụ lễ. Tất cả những người tham gia nghi lễ đều mặc lễ phục với kiểu dáng, màu sắc, hoạ tiết hoa văn khác nhau. Yếu tố nghi lễ 13 trong lễ hội là rất quan trọng, nó tạo nên giá trị tâm linh thiêng liêng, tính thẩm mỹ, hình thành một tâm thức chung cho cộng đồng tham dự lễ hội, tạo nên môi trường mà ở đó con người có được sự cảm thông với nhau, tạo ra sinh khí mới. Lễ thường bao gồm một hệ thống liên kết, có trật tự và hội trợ cho nhau: - Lễ rước nước: Trước khi vào đám một ngày, làng cử hành lấy nước từ giữa sông, giữa giếng nước về đình (về đền). Nước thường đựng vào chóe sứ hay bình sứ đã lau chùi sach sẽ. Người ta múc nước từ gáo đồng, lúc đổ nước phải qua miếng vải đỏ ở miệng bình, miệng chóe. Sau đó, bình nước đưa lên kiệu rước về nơi thần linh an ngự. - Lễ mộc dục: Ngay sau lẽ rước nước làng cử hành lễ mộc dục (tức là lễ tắm rửa tượng thần). Công việc này thường giao cho một số người có tín nhiệm. Họ thắp hương, dâng lễ rồi tiến hành công việc một cách thận trọng. Tượng thần được tắm 2 lần nước (lần thứ nhất được tắm bằng nước làng vừa rước về, lần tiếp theo bằng nước ngũ vị đã chuẩn bị trước). - Tế gia quan: Là lễ khoác áo, mũ cho tượng thần, bài vị. Cũng có thể là áo mũ đại trào được triều đình ban theo chức tước, phẩm hàm lúc đương thời hoặc là áo mũ hàng mã đặt làm (theo sắc phong) thờ ở nơi thần an ngự. - Đám rước: Đón thần vị từ nơi ngài ngự (đền, miếu, nghè…) về đình (gọi là phụng nghênh hồi đình) được tổ chức để ngài xem hội, dự hưởng lễ vật được dâng từ tấm lòng thành kính của toàn thể dân làng. - Đại tế: Là nghi thức lễ trang trọng nhất khi bài vị vừa rước ra đình. Tại lễ này, làng thường mổ trâu, mổ bò làm lễ vật dâng cúng thần linh. - Lễ túc trực: Là lễ trông nom, canh giữ bài vị hoặc tượng thần lúc rước từ đền, miếu, ra đình, chùa… tùy theo thời gian mở hội dài hay ngắn mà tượng thần sẽ ngự tại đình lâu hay mau. - Lễ hèm: Ở những hội làng có thần tích không bình thường thì trong hội có thêm tục hèm. Hèm là một hành động nghi lễ nhằm diễn lại một quãng đời “đặc biệt” của thần lúc sinh thời (hoặc một chi tiết hành động mang tính cá biệt rất tiêu biểu) Như vậy, lễ là cách ứng xử của con người trước tự nhiên đầy bí hiểm và thách đố. Các nghi thức của lễ toát lên sự cầu mong phù hộ, đồ trì của các thần và 14 giúp người tìm ra những giải pháp tâm lí mặc dù phảng phất chất linh thiêng huyền bí. Có thể nói, lễ là phần đạo, tâm linh của cộng đồng, nhằm đáp ứng nhu cầu của tín ngưỡng và đảm bảo nề nếp, trật tự cho hội được hoàn thiện hơn. * Khái niệm “Hội” Theo Từ điển Tiếng Việt “Hội là cuộc vui chung cho đông đảo người tham dự theo phong tục hoặc dịp đặc biệt”[24,12]. Hội phải được tổ chức nhân dịp kỷ niệm một sự kiện quan trọng nào đó liên quan đến bản làng, cộng đồng dân tộc, đem lại lợi ích tinh thần cho mọi thành viên của cộng đồng, mang tính cộng đồng cả tư cách tổ chức lẫn mục đích của nó. Đến với hội mọi người sẽ được giải toả thăng bằng trở lại. Vậy “Hội” là sinh hoạt văn hoá tôn giáo, nghệ thuật của cộng đồng xuất phát từ nhu cầu cuộc sống, sự tồn tại và phát triển của cộng đồng, sự bình yên cho từng cá nhân, hạnh phúc cho từng dòng họ, từng gia đình. Sự sinh sôi nảy nở của gia súc, sự bội thu của những mùa màng mà bao đời nay đã quy tụ vào niềm mơ ước chung với bốn chữ “Nhân - Khang - Vật - Thịnh”. Hội là đám vui đông người, gồm hai đặc điểm cơ bản là đông người tập trung trong một địa điểm và vui chơi với nhau. Nhưng, nếu chỉ có vậy nhiều khi chưa thể thành hội. Muốn được gọi là hội theo nghĩa dân tộc học phải gồm các yếu tố: - Được tổ chức nhân dịp một sự kiện quan trọng nào đó và liên quan đến cộng đồng như làng, bản - Nhằm đem lại lợi ích tinh thần cho mọi thành viên của cộng đồng, mang tính cộng động cả tư cách tổ chức lẫn mục đích của nó. Có khi tính cộng đồng đó được mở rộng đến các làng, bản khác Nếu lễ là phần hội thì đạo là phần đời, là khát vọng của mọi thành viên trong cộng đồng để vươn tới những điều tốt đẹp. Những khát vọng đó thường được khái quát hóa, lý tưởng hóa hay nhân cách hóa bởi những nghi thức hay những hoạt động cụ thể và rất đời thường. Chính vì vậy, phần hội thường kéo dài hơn phần lễ rất nhiều và được diễn ra sôi động, vui vẻ, mọi người đều “vào hội” để quên đi nỗi vất vả, nhọc nhằn, sự bất công… và hướng tới những niềm vui và điều tốt đẹp trong cuộc sống. 15 Tóm lại, “hội là cuộc vui chơi bằng vô số hoạt động giải trí công cộng, diễn ra tại một địa điểm nhất định vào dịp kỉ niệm một sự kiện xã hội hay tự nhiên, nhằm diễn đạt sự phấn khích, hoan hỉ của công chúng tham dự lễ hội”[38,132]. *Mối quan hệ giữa lễ và hội Các nhà nghiên cứu thường chia lễ hội thành hai phần: phần lễ và phần hội. Song sự phân chia đó chỉ là tương đối. Trên thực tế giữa “lễ” và “hội” luôn hoà quyện, đan xen với nhau. “Hội” là từ chỉ thành phần ngoài “lễ” (hay “hội” có thể coi là hình thức của lễ) ở các dịp kỷ niệm mang tính cộng đồng từ quy mô làng, bản trở lên. Nếu chỉ có Hội mà không có Lễ thì mất đi tính thiêng, sự trang trọng. Ngược lại chỉ có Lễ mà không có Hội thì không. Chính vì vậy, từ xa xưa nhân dân đã sáng tạo ra “lễ hội” như cuộc sống thứ hai của mình, đó là cuộc sống với hội hè, đình đám sống động màu sắc dân gian - phần cuộc sống hướng con người tới những ước mơ, khát vọng tốt đẹp. Nếu như lễ là một hệ thống tĩnh có tính quy phạm nghiêm ngặt được cử hành tại chốn Đình trung thì trái lại, hội là một sinh hoạt dân dã phóng khoáng diễn ra trên bãi sân để dân làng cùng bình đẳng vui chơi và chủ động tham gia với hàng loạt trò, tục hấp dẫn. Hội là một hệ thống trò chơi, trò diễn phong phú và đa dạng, có thể kể đến các loại trò sau đây: trò chơi thượng võ, trò chơi thi tài, nghề nghiệp, trò chơi giải trí, trò chơi chiến đấu, trò chơi phong tục. So với lễ, hội là một yếu tố mở người để con người có thể chuyển dịch hoặc thêm bớt các trò chơi do điều kiện vật chất, thời tiết, nhân lực mà vẫn không ảnh hưởng đến tổng thể (trừ những trò chơi nghi lễ, phong tục). Quan hệ giữa lễ và hội có lúc tưởng chừng như tách rời nhau đến dễ thấy có lúc tách rời nhau đến dễ thấy: Một bên là thiêng, một bên là tục; mỗi bên dường như có vai trò riêng. Song nhiều trường hợp thì lại không đơn giản như vậy. Trong quá trình vận động, hai yếu tố lễ và hội đã thâm nhập vào nhau một cách chặt chẽ, thiết tưởng rằng gọi là lễ cũng đúng mà gọi là hội cũng không sai. Quan hệ giữa lễ và hội rất chặt chẽ, có lúc không thể tách bóc, ngay trong lễ đã có hội và ngay trong hội đã có lễ. Lễ và hội là hai yếu tố chính tạo lên hội làng. Sự đậm, nhạt giữa chúng là tùy thuộc vào đặc điểm từng nơi và tính chất từng loại hội. Nếu như trật tự là nội dung, hình thức, yêu cầu của lễ, thì tính tự do, phóng khoáng lại là đặc trưng của hội. Hội khác lễ chính là ở điều đó. Đến với hội, con người được phép hỗn độn, cuồng nhiệt, vui chơi hết mình. Hội là cuộc vui chơi bằng vô số hoạt động 16 giải trí công cộng, diễn ra tại một địa điểm nhất định vào cuộc lễ kỷ niệm một sự kiện xã hội hay tự nhiên, nhằm diễn đạt sự phấn khích, hoan hỷ của công chúng dự lễ. Qua đó, muốn nhằm đạt tới những khát vọng mà đời thường không có điều kiện và cơ hội hay không được phép thực hiện để vươn tới cái Chân – Thiện – Mỹ. *Khái niệm “Lễ hội” Lễ hội là một hiện tượng lịch sử- xã hội được hình thành từ lâu đời, mang trong mình những giá trị độc đáo mang bản sắc cộng đồng, tổ chức theo nghi thức trọng thể nhất định nhằm tôn vinh các vị thần linh, nhân thần có công trong một địa phương trong việc chống giặc ngoại xâm hay mở mang xây dựng vùng đất. Đồng thời lễ hội cũng là dịp để con người giao tiếp, cố kết cộng đồng thông qua những hoạt động vui chơi giải trí mang ý nghĩa biểu tượng. Có rất nhiều quan niệm về lễ hội, tuy nhiên đứng dưới góc độ Chủ nghĩa xã hội Khoa học, tác giả có thể khái quát một số nét chính về lễ hội như sau: Thứ nhất, lễ hội là tổ hợp các yếu tố và hoạt động văn hóa đặc trưng của cộng đồng, xoay quanh một trục ý nghĩa nào đó, nhằm tôn vinh và quảng bá cho những giá trị nhất định. Thứ hai, lễ hội là hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng diễn ra trên một đại bản cư trong thời gian và không gian xác định; nhằm nhắc lại một sự kiện, một nhân vật lịch sử hay huyền thoại; đồng thời là dịp để biểu hiện cách ứng xử văn hóa của con người với thiên nhiên- thần thánh và con người trong xã hội. Thứ ba, lễ hội là cuộc sống được tái hiện lại dưới hình thức một trò diễn được thăng hoa, liên kết và quy tụ lại thành thế giới của tâm linh, của tư tưởng và của các biểu tượng, vượt lên trên thế giới hiện thực. Thứ tư, lễ hội là cuộc sống được tái hiện dưới hình thức tế lễ và vai trò diễn. Đó là cuộc sống lao động của cộng đồng cư dân, khi nó được liên kết, quy tụ lại thành thế giới của tâm linh, tư tưởng của các biểu tượng vươn lên trên thế giới. Như vậy, “lễ hội là một sự kiện văn hóa mang tính cộng đồng, là hệ thống những hành vi nhằm biểu hiện sự tôn kính của con người và thần linh, phản ánh những ước mơ của con người trước cuộc sống mà bản thân họ chưa có khả năng thực hiện” [30,12]. *Khái niệm “Lễ hội truyền thống” Lễ hội truyền thống được hình thành từ phong tục tập quán, tín ngưỡng và nhu cầu đời sống tâm linh, vui chơi giải trí của nhân dân và xuất phát từ phong tục 17 tập quán, tín ngưỡng và đời sống tâm linh, vui chơi giải trí của nhân dân và xuất phát từ quy định thể chế của chính trị đương thời. Lễ hội truyền thống là các lễ hội như hội đình, hội đền, hội chùa, là sinh hoạt cộng đồng về văn hóa, nghệ thuật, tôn giáo được hình thành trong lịch sử thời xa xưa, được truyền lại trong cộng đồng nông nghiệp với tư cách một phong tục. Dù sử dụng định nghĩa nào thì một lễ hội truyền thống cũng phải đảm bảo các yếu tố: là một hình thức sinh hoạt văn hóa, có tính chất thiêng liêng, tính cộng đồng, khuôn mẫu và diễn ra theo chu kì. Đặc trưng cơ bản của lễ hội truyền thống là gắn với đời sống tâm linh tôn giáo tín ngưỡng, sự kiện và nhân vật lịch sử, mang tính thiêng liêng, ngôn ngữ của lễ hội là ngôn ngữ biểu tượng, là hiện tượng văn hóa dân gian tổng thể, bao gồm sinh hoạt nghi lễ, nghi thức, phong tục tập quán. Lễ hội truyền thống, bản thân nó đã là một giá trị văn hóa lớn trong đời sống truyền thống và hiện đại. Tuy nhiên, phân tích sâu hơn nữa, người ta đã tìm ra những giá trị văn hóa tiêu biểu của lễ hội truyền thống, một hiện tượng văn hóa mang tính trội mà tiêu biểu nhất chính là tính cộng đồng. Như vậy, “lễ hội truyền thống là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng hoặc cá nhân, vật thể và thời gian liên quan, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thể hiện bản sắc của cộng đồng, không ngừng tái tạo và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, trình diễn cùng các hình thức khác”[18,23] 1.1.2. Chức năng của lễ hội a. Biểu hiện giá trị xã hội của một cộng đồng Đây là chức năng đặc thù và là chức năng cơ bản nhất của lễ hội. Bởi vì, thông qua lễ hội, lịch sử của cộng đồng được tái xác định với hệ thống biểu tượng của nó và làm sống lại những sức mạnh có từ thuở cội nguồn của cộng đồng. Lễ hội bao giờ cũng gắn liền với một sự kiện, hiện tượng lịch sử nào đó. Sự kiện đó lại gắn liền với một nhân vật cụ thể. Đó chính là đại diện cho các giá trị mà cộng đồng đã đúc rút trong thời kì lịch sử nhất định. Vì vậy, “khi lễ hội biểu hiện giá trị nhân vật được cử lễ thì đấy cũng chính là giá trị của cộng đồng” [38,133]. Có thể nói, giá trị cộng đồng còn thì tên tuổi, giá trị của các nhân vật đó còn. Ví dụ: Thánh Gióng, mặc dù chỉ là một biểu tượng huyền thoại, nhưng sự nghiệp đánh giặc của Thánh Gióng là sự nghiệp của cả cộng đồng dân tộc Việt Nam. Mở hội Gióng không phải chỉ để nhớ ơn công lao đánh giặc của Thánh Gióng mà để khơi gợi lại niềm tự hào 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan