MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 4
NỘI DUNG ......................................................................................................................... 12
Chƣơng 1: NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ ĐOÀN KẾT TÔN GIÁO
TRONG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH ..................................................................... 12
1.1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn
giáo..........................................................................................................12
1.1.1. Cơ sở lý luận .......................................................................... 12
1.1.2. Cơ sở thực tiễn ....................................................................... 23
1.2. Quan điểm đoàn kết tôn giáo trong tư tưởng Hồ Chí Minh
.....................................................................................................................25
1.2.1. Đoàn kết đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn
giáo .......................................................................................................... 26
1.2.2. Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau................... 30
1.3. Một số nguyên tắc và phương pháp về đoàn kết tôn giáo trong
tư tưởng Hồ Chí Minh .............................................................................. 34
1.3.1. Một số nguyên tắc về đoàn kết tôn giáo trong tƣ tƣởng Hồ Chí
Minh......................................................................................................... 34
1.3.2. Một số phƣơng pháp về đoàn kết tôn giáo trong tƣ tƣởng Hồ
Chí Minh ................................................................................................. 39
Chƣơng 2: XÂY DỰNG KHỐI ĐOÀN KẾT TÔN GIÁO THEO TƢ
TƢỞNG HỒ CHÍ MINH Ở TỈNH ĐỒNG THÁP TỪ NĂM 1990 ĐẾN
NAY: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP............................................. .49
2.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế, chính trị - xã hội, văn
hoá, tôn giáo ở tỉnh Đồng Tháp........................................................... 49
2.1.1. Vài nét về điều kiện tự nhiên, kinh tế, chính trị - xã hội, văn hoá
................................................................................................................. 49
2.1.2. Tình hình tôn giáo ở tỉnh Đồng Tháp .................................... 54
1
2.2 Thực trạng quá trình vận dựng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc
xây dựng khối đoàn kết tôn giáo tại tỉnh Đồng Tháp từ năm 1990
đến nay...................................................................................................54
2.2.1. Những thành tựu trong công tác xây dựng khối đoàn kết tôn
giáo theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh tại tỉnh Đồng Tháp............................60
2.2.2. Những hạn chế trong việc xây dựng khối đoàn kết tôn giáo
tại tỉnh Đồng Tháp trong những năm qua..............................................73
2.3 Giải pháp nhằm phát huy và củng cố khối đoàn kết tôn giáo tại
tỉnh Đồng Tháp theo tư tưởng Hồ Chí Minh..................................... 77
2.3.1. Một số yêu cầu đặt ra đối với việc vận dụng quan điểm về
tôn giáo và đoàn kết tôn giáo của Hồ Chí Minh để xây dựng khối đoàn
kết tôn giáo tại tỉnh Đồng Tháp hiện nay............................................... 77
2.3.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả vận dụng
quan điểm tôn giáo của Hồ Chí Minh để xây dựng khối đoàn kết tôn giáo
ở tỉnh Đồng Tháp hiện nay......................................................................80
KẾT LUẬN ......................................................................................................................... 91
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 93
PHỤ LỤC
2
BẢNG KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CNXH
: Chủ nghĩa xã hội
CN
: Công nguyên
CNH, HĐH : Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
MTTQ
: Mặt trận Tổ quốc
NQ
: Nghị quyết
QLNN
: Quản lý nhà nƣớc
QĐ
: Quyết định
UBND
: Uỷ ban nhân dân
XHCN
: Xã hội chủ nghĩa
3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong hơn 80 năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo cả dân
tộc ta tiến hành cuộc đấu tranh trƣờng kỳ, gian khổ giành độc lập tự do, tiến
lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Một trong những yếu tố đảm bảo thắng lợi của
cách mạng nƣớc ta là sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng theo ngọn cờ
chủ nghĩa Mác – Lênin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh. Nhìn lại mấy chục năm
qua, mỗi khi dân tộc đứng trƣớc những thử thách hiểm nghèo tƣởng nhƣ
không thể vƣợt qua, chính thiên tài trí tuệ và tay lái vững vàng của Chủ tịch
Hồ Chí Minh cùng Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng đã dìu dắt dân tộc vƣợt
qua mọi gian lao, sóng gió để tiến lên. Từ kinh nghiệm của lịch sử, từ yêu cầu
cấp bách của sự nghiệp đổi mới đất nƣớc, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VII của Đảng đã khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tƣ tƣởng
Hồ Chí Minh làm nền tảng tƣ tƣởng và kim chỉ nam cho hành động”.
Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh là một hệ thống những luận điểm khoa học về
chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội nhằm hƣớng dẫn toàn Đảng, toàn
dân ta đấu tranh, lao động, xây dựng, sáng tạo, bảo vệ nƣớc Việt Nam độc
lập, hòa bình, thống nhất, giầu mạnh. Xuyên suốt và nhất quán trong tƣ duy lý
luận và hoạt động thực tiễn của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tƣ tƣởng đại đoàn
kết, trong đó có đoàn kết tôn giáo nhằm tập hợp, phát huy sức mạnh dân tộc,
quốc tế vì mục tiêu độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội. Với tầm cao trí tuệ và
chủ nghĩa nhân văn cộng sản, Hồ Chí Minh đã giải quyết nhuần nhuyễn mối
quan hệ vô cùng phức tạp giữa dân tộc với giai cấp, giữa tôn giáo với dân tộc,
quốc gia – quốc tế thuận theo xu thế khách quan của thời đại. Thiên tài của
Hồ Chí Minh là ở chỗ, Ngƣời đã khơi dậy và phát huy triệt để sức mạnh của
cả cộng đồng xã hội – từ lực lƣợng nòng cốt của cách mạng đến các tầng lớp
nhân dân trên cơ sở khối liên minh công nông, xây dựng khối đoàn kết tôn
4
giáo để tạo thành hợp lực, chĩa mũi nhọn đấu tranh vào các thế lực thù địch
ngoan cố nhất, phản động nhất. Tƣ tƣởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh đã trở
thành một bộ phận hữu cơ trong đƣờng lối chiến lƣợc của Đảng Cộng sản
Việt Nam, đã thấm nhuần vào tƣ tƣởng, tình cảm của nhân dân và chuyển hóa
thành sức mạnh vô địch; về thực chất, đó là chiến lƣợc đại đoàn kết Hồ Chí Minh.
Sự nghiệp đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xƣớng và lãnh
đạo diễn ra gần ba thập kỷ qua, đã và đang đạt đƣợc những thành tựu to lớn.
Nƣớc ta đã thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội, đời sống của
nhân dân đƣợc cải thiện và đặc biệt, những tiền đề mới để đẩy mạnh quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc đang đƣợc tạo ra. Trong bối cảnh toàn
cầu hóa và xu thế hội nhập quốc tế diễn ra mạnh mẽ, nƣớc ta đang đứng trƣớc
những cơ hội lớn và cả những nguy cơ, thử thách lớn. Vấn đề tập hợp, đoàn
kết mọi lực lƣợng xã hội trong nƣớc, kiều bào ở nƣớc ngoài và tranh thủ sự
giúp đỡ quốc tế nhằm tạo thành sức mạnh vật chất và tinh thần cho công cuộc
xây dựng, bảo vệ đất nƣớc đang đặt ra cấp bách. Nghị quyết 07 của Bộ Chính
trị, ngày 17 tháng 11 năm 1993 và văn kiện các Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ƣơng gần đây luôn luôn nhấn mạnh vị trí và vai trò to lớn của chiến
lƣợc đại đoàn kết. Tuy vậy, hàng loạt vấn đề về đoàn kết dân tộc, đoàn kết
quốc tế trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội
chủ nghĩa đang tiếp tục đặt ra. Hơn nữa, trong thời đại mà quan hệ quốc tế
đan xen nhiều chiều, nhiều cực, cùng với quá trình mở cửa hội nhập, tình hình
hoạt động tôn giáo có những diễn biến phức tạp, tiềm ẩn những nhân tố có thể
gây mất ổn định. Các thế lực thù địch trong và ngoài nƣớc tập trung sức
chống phá cách mạng Việt Nam, chúng triệt để lợi dụng chiêu bài dân chủ nhân quyền - tôn giáo – dân tộc để thực hiện âm mƣu “diễn biến hòa bình”;
chúng tìm cách chuyển tài chính, tài liệu cho các tổ chức phản động trong
nƣớc để tổ chức hoạt động chống phá, chia rẽ nhằm làm cho các tôn giáo
thoát ly khỏi sự quản lý của Nhà nƣớc. Mặt khác, chúng tập trung xây dựng
5
những hạt nhân chống đối, phản cách mạng trong nƣớc, móc nối, chỉ đạo hoạt
động tạo ra thế trận tổ chức đa nguyên đối lập, đối trọng trong các tôn giáo,
cản trở quá trình chấp hành và thực thi chính sách tôn giáo đúng đắn của
Đảng và Nhà nƣớc ta.
Lúc này, hơn bao giờ hết, việc kế thừa, vận dụng và phát triển một cách
sáng tạo tƣ tƣởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh, đặc biệt là tƣ tƣởng đoàn kết tôn
giáo có ý nghĩa lý luận, thực tiễn rất thiết thực trong sự nghiệp đổi mới.
Đồng Tháp là một tỉnh biên giới phía Tây Nam của Tổ quốc, đồng thời
là địa bàn có nhiều đồng bào theo những tôn giáo khác nhau. Trong những
năm qua, cùng với cả nƣớc tỉnh Đồng Tháp đã xây dựng đƣợc khối đoàn kết
tôn giáo vững mạnh. Hoạt động của các tôn giáo đƣợc các cấp uỷ Đảng, chính
quyền, Mặt trận, đoàn thể tạo điều kiện thuận lợi; đồng bào các tôn giáo tích
cực tham gia các phong trào thi đua yêu nƣớc, phát triển kinh tế - xã hội, giữ
gìn trật tự an toàn xã hội theo hƣớng “tốt đời - đẹp đạo”. Đặc biệt, một số tổ
chức tôn giáo đƣợc giao đất sản xuất, đất xây dựng công trình tôn giáo, hoặc
đƣợc giao lại cơ sở vật chất, cơ sở thờ tự trƣớc đây; công dân là ngƣời theo
đạo nếu có nhu cầu thì đƣợc vay vốn, hƣớng dẫn kỹ thuật, hỗ trợ các điều
kiện cần thiết để sản xuất, tăng thu nhập, cải thiện cuộc sống. Những việc làm
đó đã thúc đẩy tín đồ tôn giáo tích cực tham gia xây dựng đời sống văn hóa ở
khu dân cƣ, góp phần ổn định vùng đồng bào có đạo. Tuy nhiên, bên cạnh đó,
hoạt động của các cấp chính quyền và cấp ủy Đảng ở một số nơi còn chƣa chú
trọng vào việc xây dựng khối đoàn kết tôn giáo nên đã để xẩy ra tình trạng
mất trật tự, an ninh xã hội. Các thế lực thù địch lợi dụng tình trạng đó để kích
động và chia rẽ nhân dân. Một số tín đồ và chức sắc tôn giáo chƣa hiểu đầy đủ
và đúng đắn các chính sách của Đảng và Nhà nƣớc nên vẫn còn những băn
khoăn cả về việc đạo và việc đời, một số phần tử thậm chí còn gây ra những
vụ việc làm mất an ninh trật tự, gây chia rẽ trong quần chúng nhân dân. Xuất
phát từ tình hình thực tế và nhiệm vụ chính trị của địa phƣơng đặt ra, tác giả
6
đã mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo và
vận dụng vào việc thực hiện đoàn kết tôn giáo tại tỉnh Đồng Tháp trong giai
đoạn hiện nay” để triển khai nghiên cứu trong luận văn thạc sĩ chuyên ngành
Hồ Chí Minh học.
2. Tổng quan nghiên cứu đề tài
Có thể nói, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh là di sản lý luận quý báu và đặc biệt
quan trọng không chỉ với cách mạng Việt Nam, mà còn với phong trào cách
mạng thế giới. Thực tế cho thấy, trong những năm qua cả ở Việt Nam lẫn ở
nhiều nƣớc trên thế giới đã có nhiều tổ chức, tập thể và cá nhân các nhà khoa
học đi sâu nghiên cứu về tƣ tƣởng Hồ Chí Minh. Một trong những công trình
nghiên cứu toàn diện nhất về tƣ tƣởng Hồ Chí Minh tính đến thời điểm hiện
tại là đề tài cấp Nhà nƣớc: “Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh”, mã số
KX.02. Công trình này đã xác định những nội dung cơ bản của tƣ tƣởng Hồ
Chí Minh. Đây chính là tiền đề, cơ sở định hƣớng cho các tác giả khác đi sâu
nghiên cứu từng lĩnh vực cụ thể trong hệ thống tƣ tƣởng Hồ Chí Minh.
Cuốn “Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam”
do Đại tƣớng Võ Nguyên Giáp (chủ biên) – Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2008, đã luận giải và làm sáng tỏ nhiều vấn đề quan trọng, nhƣ nguồn gốc,
quá trình hình thành và phát triển tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, khái quát những
luận điểm sáng tạo lớn, những nội dung cơ bản của tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và
sự vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh vào sự nghiệp đổi mới ở nƣớc ta hiện nay.
Một trong những tƣ tƣởng cơ bản trong hệ thống tƣ tƣởng Hồ Chí Minh
là tƣ tƣởng đại đoàn kết đã đƣợc nhiều tập thể, tác giả nghiên cứu khá kỹ
lƣỡng. Chẳng hạn, cuốn “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết và mặt
trận đoàn kết dân tộc” của các tác giả Nguyễn Bích Hạnh – Nguyễn Văn
Khoan, Nxb Lao động, Hà Nội, 2001, đã phân tích những nội dung cơ bản
trong tƣ tƣởng của Hồ Chí Minh về đoàn kết, đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết
các tầng lớp, các lực lƣợng xã hội khác nhau trên nền tảng liên minh công
7
nông. Cuốn “Chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh” của GS,TS Phùng Hữu
Phú (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, đã đề cập tới cơ sở,
tiền đề, điều kiện giúp Hồ Chí Minh xây dựng, thực hiện chiến lƣợc đại đoàn
kết. Đồng thời, cuốn sách cũng đi sâu phân tích những nội dung cơ bản của
chiến lƣợc đại đoàn kết trong tƣ tƣởng của Ngƣời.
Một trong những vấn đề hết sức quan trọng đƣợc nhiều tác giả tập
trung nghiên cứu là tƣ tƣởng của Ngƣời về kết hợp đoàn kết dân tộc với đoàn
kết tôn giáo. Có thể nêu ra một số công trình tiêu biểu về đề tài này, nhƣ cuốn
“Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo và đoàn kết dân tộc của đảng ta” của
TS. Trịnh Xuân Giới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004; cuốn “Hồ Chí
Minh về đoàn kết tôn giáo, đoàn kết dân tộc” của TS. Hồ Trọng Hoài, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003; cuốn “Củng cố mối quan hệ dân tộc và tôn
giáo ở Việt Nam trong bối cảnh hiện nay – theo tư tưởng Hồ Chí Minh”
của TS. Vũ Văn Hậu, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009... Các công trình
trên đã làm rõ những nội dung cơ bản của tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về đoàn kết
dân tộc nói chung và đoàn kết tôn giáo nói riêng, khẳng định việc thực hiện
đoàn kết dân tộc có quan hệ chặt chẽ với thực hiện đoàn kết tôn giáo. Theo
các tác giả, kết hợp đoàn kết dân tộc với đoàn kết tôn giáo là vấn đề có tính
chiến lƣợc trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, đồng thời cần thiết phải
vận dụng một cách sáng tạo tƣ tƣởng đoàn kết dân tộc nói chung và đoàn kết tôn
giáo nói riêng của Hồ Chí Minh vào thực tiễn nƣớc ta trong giai đoạn hiện nay.
Trong số các công trình nghiên cứu chuyên biệt tƣ tƣởng Hồ Chí Minh
về tôn giáo và đoàn kết tôn giáo, có thể kể đến một số công trình tiêu biểu,
nhƣ “Chủ tịch Hồ Chí Minh với Phật giáo” đăng trên tạp chí Phật học, nội
san đặc biệt, số 1, 1991; “Vấn đề tôn giáo trong cách mạng Việt Nam – lý
luận và thực tiễn” của tác giả Đỗ Quang Hƣng, Nxb Chính trị quốc gia. Hà
Nội, 2005; “Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và công tác tôn giáo” của
Lê Hữu Nghĩa và Nguyễn Đức Lữ, Nxb Tôn giáo. Hà Nội, 2003, cuốn “Hồ
8
Chí Minh về vấn đề tôn giáo tín ngưỡng” của Viện Tôn giáo, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội, 1998... Các công trình này đã đi sâu nghiên cứu những nội
dung cơ bản của tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về tôn giáo, chính sách của Đảng và
Nhà nƣớc ta đối với tôn giáo tín ngƣỡng, vấn đề tôn giáo qua các thời kỳ và
việc vận dụng những tƣ tƣởng của Hồ Chí Minh nhằm giải quyết vấn đề tôn giáo
và thực hiện chính sách tôn giáo trong giai đoạn đổi mới đất nƣớc hiện nay.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đã đề cập tới những nội
dung cơ bản trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và đoàn kết tôn giáo,
nhƣ tƣ tƣởng của Ngƣời về tín ngƣỡng, tôn giáo, dân tộc, đoàn kết dân tộc,
đoàn kết tôn giáo, mối quan hệ giữa đoàn kết dân tộc và đoàn kết tôn giáo,
chiến lƣợc đại đoàn kết; đồng thời, luận giải sự vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí
Minh về đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo của Đảng và Nhà nƣớc trong
công cuộc xây dựng và đổi mới ở nƣớc ta hiện nay.
Tuy nhiên, cho đến nay, chƣa có công trình hay đề tài khoa học nào
nghiên cứu tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo và vận dụng vào việc
thực hiện đoàn kết tôn giáo tại tỉnh Đồng Tháp trong giai đoạn hiện nay.
Với thái độ cầu tiến trên tinh thần học hỏi, tiếp thu và kế thừa những
kết quả của những công trình nghiên cứu đi trƣớc vào thực hiện những nhiệm
vụ cụ thể của mình, tác giả luận văn tiếp tục đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu một
cách có hệ thống tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo, phân tích sự
vận dụng tƣ tƣởng đó để xây dựng khối đoàn kết tôn giáo ở tỉnh Đồng Tháp;
đồng thời luận giải một số giải pháp nhằm củng cố và phát triển khối đoàn kết
tôn giáo trong giai đoạn hiện nay trên địa bàn tỉnh.
3. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
- Mục đích
Trên cơ sở phân tích tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo, luận
văn làm rõ sự vận dụng tƣ tƣởng của Ngƣời trong việc xây dựng khối đoàn
9
kết tôn giáo ở Đồng Tháp và đƣa ra một số giải pháp để củng cố đoàn kết tôn
giáo trên địa bàn tỉnh hiện nay.
- Nhiệm vụ
Một là, phân tích làm rõ quan điểm của Hồ Chí Minh về mục tiêu, đối
tƣợng, nội dung, nguyên tắc và phƣơng pháp đoàn kết tôn giáo.
Hai là, làm rõ quá trình xây dựng khối đoàn kết tôn giáo theo tƣ tƣởng
Hồ Chí Minh ở tỉnh Đồng Tháp từ khi đổi mới cho đến nay.
Ba là, đề xuất một số giải pháp nhằm củng cố và phát huy khối đoàn
kết tôn giáo ở tỉnh Đồng Tháp từng bƣớc đáp ứng nhu cầu của công cuộc đổi
mới trên địa bàn.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
- Cơ sở lý luận:
Cơ sở lý luận của luận văn là chủ nghĩa Mác – Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí
Minh, các văn kiện, nghị quyết của Đảng, các báo cáo tổng kết của tỉnh ủy,
UBND tỉnh, UBND các huyện về vấn đề tôn giáo nói chung và xây dựng khối
đoàn kết tôn giáo nói riêng. Đồng thời, luận văn kế thừa có chọn lọc kết quả
nghiên cứu của một số công trình đi trƣớc có liên quan đến đề tài.
- Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài sử dụng phƣơng pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; kết
hợp các phƣơng pháp tổng hợp, thống kê, so sánh... để làm rõ nội dung chủ
yếu của đề tài.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
- Đối tượng nghiên cứu:
Vấn đề xây dựng khối đoàn kết tôn giáo ở tỉnh Đồng Tháp trên cơ sở
vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh từ khi có Nghị quyết 24-NQ/TW của Bộ
Chính trị (ngày 16-10-1990) đến nay.
Những chủ trƣơng, nghị quyết, chính sách, giải pháp của Tỉnh ủy và
chính quyền tỉnh Đồng Tháp về xây dựng khối đoàn kết tôn giáo.
10
Hoạt động của các tôn giáo tại tỉnh Đồng Tháp nhằm xây dựng và củng
cố khối đoàn kết tôn giáo.
- Phạm vi nghiên cứu:
Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo và sự vận dụng tƣ tƣởng
đó để xây dựng khối đoàn kết tôn giáo ở tỉnh Đồng Tháp từ khi có Nghị quyết
24-NQ/TW của Bộ Chính trị 1990 đến nay.
6. Những đóng góp của đề tài
- Luận văn góp phần làm rõ một số nội dung cơ bản trong tƣ tƣởng Hồ
Chí Minh về đoàn kết tôn giáo.
- Làm rõ sự vận dụng của Đảng bộ và chính quyền tỉnh Đồng Tháp
trong việc xây dựng khối đoàn kết tôn giáo trong những năm đổi mới vừa qua.
- Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn có thể dùng làm tài liệu
tham khảo trong quá trình nghiên cứu, giảng dạy ở trƣờng Đảng của tỉnh và
các trung tâm bồi dƣỡng lý luận chính trị tại các huyện, thị về vấn đề đoàn kết
tôn giáo; xây dựng chính sách tôn giáo và thực hiện đoàn kết tôn giáo ở tỉnh
Đồng Tháp.
7. Kết cấu nội dung nghiên cứu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 2 chƣơng, 6 tiết.
11
NỘI DUNG
Chƣơng 1: NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ ĐOÀN KẾT TÔN GIÁO
TRONG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH
1.1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo
1.1.1. Cơ sở lý luận
Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo đƣợc hình thành, phát triển
dựa trên cơ sở lý luận vững chắc. Ngƣời đã kế thừa, tiếp thu truyền thống
đoàn kết của dân tộc Việt Nam trong suốt bốn nghìn năm lịch sử dựng nƣớc
và giữ nƣớc. Đây chính là cội nguồn tinh thần quý giá của dân tộc đã giúp cho
nhiều thế hệ ngƣời Việt Nam nói chung và Hồ Chí Minh nói riêng trong việc
tổ chức, xây dựng và tập hợp lực lƣợng toàn dân nhằm bảo vệ và xây dựng Tổ
quốc; đồng thời cảnh giác với các thế lực “thù trong, giặc ngoài” âm mƣu
muốn chia rẽ, nô dịch và thống trị dân tộc Việt Nam. Nhìn lại chặng đƣờng
lịch sử ấy, bất kỳ ngƣời dân Việt Nam yêu nƣớc nào cũng có thể cảm nhận
thấy bức tranh toàn cảnh, đậm nét, oai hùng, oanh liệt trong đấu tranh dựng
nƣớc và chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Một dân tộc nhỏ bé
nhƣng đã biết đoàn kết lại thành một khối thống nhất với mong muốn tạo ra
một sức mạnh tổng hợp để đứng lên đấu tranh đánh bại các đội quân xâm
lƣợc lớn từ phƣơng Bắc tràn sang, nhƣ quân Hán, quân Nguyên, quân Minh,
quân Thanh... Bên cạnh đó, điều kiện tự nhiên vốn rất khắc nghiệt thƣờng
xuyên ảnh hƣởng lớn đến đời sống sinh hoạt và sản xuất của ngƣời dân, khi
nắng “nhƣ thiêu, nhƣ đốt”, khi rét nhƣ “cắt da, cắt thịt”. Dân tộc Viêt Nam
phải liên tục chống chọi, đối mặt với những hiện tƣợng tự nhiên bất thƣờng
xảy ra, nhƣ bão gió, lũ lụt, hạn hán... Trong điều kiện đó, để tồn tại và phát
triển dân tộc Việt Nam không có cách nào khác hơn là phải đoàn kết cộng
đồng thành một khối thống nhất.
12
Vì vậy, cần khẳng định rằng tinh thần đoàn kết dân tộc là một giá trị
tinh thần quý báu, thiết thực và có ý nghĩa to lớn đảm bảo cho sự trƣờng tồn
và phát triển lâu dài của dân tộc Việt Nam. Tinh thần đoàn kết đã nhanh
chóng trở thành một giá trị truyền thống, gắn bó một cách tự nhiên nối tiếp từ
thế hệ này sang thế hệ khác, ăn sâu vào tiềm thức của từng cá nhân trong cộng
đồng ngƣời Việt Nam và đƣợc hun đúc qua mọi thời đại. Truyền thống ấy
đƣợc thể hiện qua nhiều câu ca dao, tục ngữ, nhƣ:
“Nhiễu điều phủ lấy giá gƣơng
Ngƣời trong một nƣớc phải thƣơng nhau cùng”;
“Bầu ơi thƣơng lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhƣng chung một giàn”.
Hoặc trong những tƣ tƣởng triết lý nhân sinh của con ngƣời Việt Nam nhƣ:
“Đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết”.
“Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”.
Đến thời đại Hồ Chí Minh, truyền thống đoàn kết của dân tộc Việt Nam
tiếp tục đƣợc kế thừa và nâng lên thành tƣ tƣởng đại đoàn kết mang tính chiến
lƣợc cách mạng. Ngƣời chỉ rõ, trong thời đại mới muốn đánh đổ đƣợc các thế
lực đế quốc thực dân xâm lƣợc nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp
và giải phóng con ngƣời, nếu chỉ dựa vào số ít ngƣời lao động thì cách mạng
sẽ nhanh chóng bị thất bại. Do đó, cách mạng muốn thành công thì phải tập
hợp đƣợc tất cả mọi lực lƣợng yêu nƣớc lại. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn
mạnh: “Tôi khuyên đồng bào đoàn kết chặt chẽ và rộng rãi. Năm ngón tay
cũng có ngón vắn ngón dài. Nhƣng vắn dài đều hợp nhau lại nơi bàn tay.
Trong mấy triệu ngƣời cũng có ngƣời thế này thế khác, nhƣng thế này hay thế
khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ. Ta phải
nhận rằng đã là con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc.
13
Đối với những đồng bào lạc lối lầm đƣờng, ta phải lấy tình thân ái mà cảm
hoá họ. Có nhƣ thế mới thành đoàn kết, có đoàn kết thì tƣơng lai chắc sẽ vẻ
vang”[36, tr. 246-247].
Ngoài truyền thống đoàn kết nêu trên thì truyền thống yêu nƣớc cũng
đồng hành cùng dân tộc trong suốt quá trình đấu tranh dựng nƣớc và giữ
nƣớc. Mỗi ngƣời dân Việt Nam luôn ý thức sâu sắc về mối quan hệ gắn bó
mật thiết giữa nhà - làng - nƣớc thành một khối thống nhất không thể tách rời,
nhờ vậy đã hình thành nên quan niệm sống đặt lợi ích chung của cộng đồng,
xã hội lên trên: “Nƣớc mất thì nhà tan”. Vì vậy, mỗi khi có giặc ngoại bang
đến xâm phạm bờ cõi, từ ngƣời già đến ngƣời trẻ không phân biệt nam, nữ,
dòng tộc, vùng, miền... đều đoàn kết một lòng và hăng hái tham gia đánh giặc.
Điển hình nhƣ trong Hội nghị Diên Hồng các cụ bô lão đều đồng tâm, nhất trí
cùng với triều đình nhà Trần kháng chiến chống giặc Nguyên, bảo vệ nền độc
lập dân tộc. Hoặc trong các bài thơ, bài văn chính luận của các bậc tƣớng lĩnh,
nhƣ “Hịch tƣớng sỹ” của Trần Quốc Tuấn; “Nam quốc sơn hà” của Lý
Thƣờng Kiệt; “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi... đều khẳng định rõ tinh
thần yêu nƣớc nồng nàn, ý chí quyết tâm bảo vệ độc lập chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thổ của dân tộc. Chính vì vậy, truyền thống yêu nƣớc đã nhanh
chóng trở thành bức tƣờng thành vững chắc nhất, kiên cố nhất trong việc bảo
vệ nền độc lập dân tộc. Khi thực dân Pháp nổ súng xâm lƣợc nƣớc ta lần thứ
nhất, nhiều bậc cách mạng tiền bối với tấm lòng yêu nƣớc, thƣơng dân nhƣ
Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng,
Lƣơng Văn Can, Nguyễn Thái Học, Nguyễn Quyền... đã vạch ra nhiều con
đƣờng để cứu nƣớc và gây dựng các phong trào cách mạng nhằm giải phóng
dân tộc thoát khỏi cảnh lầm than, nô lệ nhƣng rốt cuộc, đều bị thất bại do
không có lý luận cách mạng soi đƣờng.
14
Hồ Chí Minh đã chứng kiến cảnh “nƣớc mất, nhà tan”, đời sống nhân
dân vô cùng cực khổ, chịu cảnh nô lệ “một cổ, ba tròng”. Vì vậy, Ngƣời đã
quyết tâm ra nƣớc ngoài, sang các nƣớc phƣơng Tây để tìm con đƣờng cứu
nƣớc, cứu dân. Sau nhiều năm bôn ba hòa vào cuộc sống lao động và đấu
tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở nhiều nƣớc trên thế giới,
Hồ Chí Minh đã gặp lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin và tìm thấy ở
đó con đƣờng cứu nƣớc, giải phóng dân tộc - con đƣờng cách mạng vô sản.
Bên cạnh những giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam nêu trên,
Hồ Chí Minh còn tích cực tiếp thu những tinh hoa văn hoá phƣơng Đông phƣơng Tây thông qua các học thuyết Nho giáo, Phật giáo, Ki tô giáo, đặc
biệt là học thuyết Mác - Lênin về tôn giáo và đoàn kết tôn giáo. Nhƣ chúng ta
đã biết, Nho giáo đƣợc du nhập vào Việt Nam khá sớm từ thời Bắc thuộc (đầu
CN), nhƣng trong suốt thời gian đầu chống Bắc thuộc Nho giáo chƣa có chỗ
đứng trong xã hội Việt Nam. Tuy nhiên, về sau, do yêu cầu khách quan của sự
nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nƣớc, Nho giáo ngày
càng chiếm vị trí quan trọng trong đời sống của dân tộc Việt Nam. Năm 1070
với sự kiện Lý Thánh Tông cho lập Văn Miếu thờ Chu Công (Khổng Tử),
Nho giáo mới chính thức đƣợc tiếp nhận, đến thế kỷ XV Nho giáo đã trở
thành quốc giáo. Ngƣời Việt Nam đã chủ động tiếp thu những tƣ tƣởng tiến
bộ trong Nho giáo để phục vụ mục đích chính trị của dân tộc, nhƣ thuyết
“Tam cƣơng”, “Ngũ thƣờng” cùng với các tƣ tƣởng đạo đức, nhƣ nhân, nghĩa,
lễ, trí, tín, “trung quân, ái quốc”; “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” nhằm
duy trì tôn ti, trật tự trong xã hội, xây dựng một nền độc lập tự chủ, thái bình
thịnh trị... Nhiều thế kỷ sau đó, Nho giáo tiếp tục giữ một vị trí quan trọng
trong đời sống xã hội phong kiến Việt Nam.
Hồ Chí Minh đã tích cực chọn lọc, tiếp thu, vận dụng và phát triển một
cách sáng tạo những tƣ tƣởng tiến bộ của Nho giáo vào sự nghiệp cứu nƣớc,
15
cứu dân, đƣa vào các khái niệm đạo đức cũ của Nho giáo những nội dung
mới, nhƣ tƣ tƣởng đạo đức trung với nƣớc, hiếu với dân; tƣ tƣởng cần, kiệm,
liêm, chính, chí công vô tƣ. Khi nói đến tƣ tƣởng về xây dựng một “thế giới
đại đồng” của Khổng Tử, trong đó con ngƣời phải yêu thƣơng và tôn trọng
lẫn nhau, trên dƣới hoà thuận không phân biệt đối xử, Ngƣời viết: “Khổng Tử
vĩ đại (551 trƣớc CN) khởi xƣớng thuyết đại đồng và truyền bá sự bình đẳng
về tài sản. Ông từng nói: “thiên hạ sẽ thái bình khi thế giới đại đồng. Ngƣời ta
không sợ thiếu, chỉ sợ có không đều. Bình đẳng sẽ xoá bỏ nghèo nàn...”
[33, tr. 35].
Bên cạnh Nho giáo, Phật giáo là một tôn giáo lớn trên thế giới cũng ảnh
hƣởng rất sâu sắc đến đạo đức, lối sống và thực hành đạo đức xã hội của con
ngƣời Việt Nam trong lịch sử. Tuy nhiên, khác với Nho giáo vào Việt Nam
bằng con đƣờng xâm lƣợc, đồng hoá dân tộc của phong kiến phƣơng Bắc,
Phật giáo đƣợc du nhập vào đây bằng con đƣờng hoà bình. Theo nhận định
trong cuốn Đại Việt sử ký toàn thƣ, Phật giáo đƣợc truyền vào Việt Nam đầu
tiên ở trung tâm Luy Lâu (Bắc Ninh) cùng thời với các trung tâm Bành
Thành, Lạc Dƣơng của Trung Quốc vào cuối thế kỷ thứ II (sau CN). Phật giáo
đƣợc đƣa vào Việt Nam theo đƣờng thuỷ thông qua buôn bán với thƣơng gia
Ấn Độ và đƣờng bộ thông qua giao lƣu văn hoá với Trung Quốc. Giáo lý của
đạo Phật với các tƣ tƣởng về tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, cứu khổ, cứu
nạn, yêu thƣơng con ngƣời... rất gần gũi với quần chúng nhân dân lao động.
Vì vậy, Phật giáo đã sớm chiếm đƣợc vị trí quan trọng trong đời sống tinh
thần của nhân dân Việt Nam và nhanh chóng trở thành tôn giáo của dân tộc.
Có thể chỉ ra rằng, Phật giáo đã có ảnh hƣởng sâu sắc đến đời sống tinh thần
của nhiều ngƣời dân Việt Nam, trong đó có Hồ Chí Minh; đặc biệt là các tƣ
tƣởng về tự do, từ bi, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, yêu thƣơng giúp đỡ con
ngƣời trong những lúc khó khăn, hoạn nạn. Những tƣ tƣởng tiến bộ của Phật
giáo nêu trên đã góp phần hình thành tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết
16
toàn dân, đoàn kết tôn giáo nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải
phóng con ngƣời. Ngƣời nói: “Đức Phật là đại từ đại bi, cứu khổ cứu nạn,
muốn cứu chúng sinh ra khỏi khổ nạn...”[37, tr. 197].
Ngoài ra, Công giáo tuy xuất hiện muộn nhƣng cũng có sự ảnh hƣởng
rất lớn đến đức tin, lối sống của một bộ phận không nhỏ ngƣời dân Việt Nam.
Công giáo vào Việt Nam từ thế kỷ XVI do một số giáo sỹ ngƣời Bồ Đào Nha,
Tây Ban Nha và ngƣời Pháp truyền giáo. Trong thời kỳ đầu, việc truyền đạo
vào Việt Nam chƣa đạt kết quả cao do những bất đồng về ngôn ngữ. Sang thế
kỷ XVII việc truyền đạo mới đem lại hiệu quả, ngƣời đóng vai trò lớn trong
việc đƣa Công giáo vào Việt Nam là linh mục ngƣời Pháp Alexandre De
Rhodes vốn thông thạo tiếng Việt lại tận tuỵ hết mình với sứ mệnh truyền
đạo. Vì vậy, công cuộc truyền giáo đã từng bƣớc xây dựng đƣợc những cơ sở
ban đầu ở Hà Tiên (Thanh Hoá), lôi kéo số lƣợng nhân dân đi theo ngày một
đông. Quá trình truyền đạo Công giáo vào Việt Nam có những biến động rất
phức tạp, do sự khác nhau về tín ngƣỡng, văn hoá dân tộc. Triều đình nhà
Nguyễn đã ba lần xuống chiếu để cấm đạo. Tuy nhiên, đƣợc sự tiếp tay và bảo
hộ của thực dân Pháp, đạo Công giáo vẫn tồn tại và phát triển; đồng thời, nó
cũng có những ảnh hƣởng nhất định đến một bộ phận quần chúng nhân dân
lao động về đức tin, lối sống và thực hành đạo đức xã hội. Tƣ tƣởng của đạo
Công giáo nhìn chung phản ánh những khát vọng của quần chúng nhân dân
lao động về cuộc sống tự do, hạnh phúc, yêu thƣơng con ngƣời, thảo kính cha
mẹ, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống hàng ngày...
Hồ Chí Minh đă tiếp thu, vận dụng sáng tạo những ƣu điểm, mặt tiến
bộ của đạo Công giáo để động viên đồng bào có đạo xây dựng cuộc sống “tốt
đời, đẹp đạo”, “kính Chúa, yêu nƣớc”.
Ngƣời nói: “Chúa Giê su dạy: Đạo đức là bác ái.
Phật Thích Ca dạy: Đạo đức là từ bi.
17
Khổng Tử dạy: Đạo đức là nhân nghĩa”[38, tr. 225].
Theo Hồ Chí Minh, tôn giáo nào cũng đạo đức, yêu thƣơng, chia sẻ
giúp đỡ con ngƣời trong những lúc khó khăn, hoạn nạn. Cho nên, Ngƣời đã
chủ động tìm kiếm và khai thác những điểm tƣơng đồng, những giá trị đạo
đức trong các tôn giáo gắn với cách mạng Việt Nam, giữa đức tin tôn giáo với
tình yêu Tổ quốc; đồng thời, biết tôn trọng và loại bỏ những cái dị biệt về thế
giới quan, hệ tƣ tƣởng, nhu cầu tín ngƣỡng nhằm huy động tất cả các lực
lƣợng yêu nƣớc tham gia vào sự nghiệp "cứu nƣớc, cứu dân". Song, để đạt
đƣợc mục tiêu trên đòi hỏi phải có lý luận cách mạng soi đƣờng. Vì vậy, trong
hành trình đi tìm con đƣờng cứu nƣớc, giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đã
gặp chủ nghĩa Mác - Lênin, tích cực học tập và tiếp thu chủ nghĩa Mác Lênin về thế giới quan duy vật, phƣơng pháp làm việc biện chứng cũng nhƣ
những tƣ tƣởng khoa học về những vấn đề lớn của cách mạng, trong đó có
vấn đề tôn giáo. Đây đƣợc coi là nguồn gốc trực tiếp hình thành tƣ tƣởng Hồ
Chí Minh về tôn giáo và đoàn kết tôn giáo.
Học thuyết Mác - Lênin đã chỉ ra rằng, tín ngƣỡng, tôn giáo là một hình
thái ý thức xã hội phản ánh một cách hoang đƣờng, hƣ ảo lệch lạc từ thế giới
hiện thực khách quan. Cụ thể, Ph.Ăngghen, khi nghiên cứu về tôn giáo, đã
khẳng định: “...tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hƣ ảo vào
trong đầu óc của con ngƣời – của những lực lƣợng ở bên ngoài chi phối cuộc
sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lƣợng của trần
thế đã mang hình thức ở những lực lƣợng siêu trần thế”[32, tr. 437]. Các nhà
sáng lập chủ nghĩa Mác cho rằng, tôn giáo là một hiện tƣợng xã hội đặc biệt
mang tính lịch sử, là thế giới quan lộn ngƣợc trong việc giải quyết mối quan
hệ giữa con ngƣời với cái thế giới siêu nhiên, trong đó sức mạnh trần gian đã
mang hình thức sức mạnh siêu nhiên chi phối toàn bộ đời sống của con ngƣời
18
và cộng đồng ngƣời. Cho nên, bản chất của tôn giáo, về cơ bản, là sự phản
ánh sai lệch tồn tại xã hội.
Về nguồn gốc ra đời của tôn giáo, chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ rằng
tôn giáo ra đời dựa trên ba nguồn gốc cơ bản: Nguồn gốc kinh tế - xã hội,
nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc tâm lý. Đối với nguồn gốc kinh tế - xã hội
của tôn giáo, chủ nghĩa Mác - Lênin giải thích rằng trong xã hội cộng sản
nguyên thuỷ do trình độ của lực lƣợng sản xuất và điều kiện sinh hoạt vật chất
thấp kém, con ngƣời luôn tỏ ra yếu đuối và bất lực trƣớc sức mạnh của giới tự
nhiên. Vì vậy, họ rất sợ hãi, sùng bái và tôn thờ những thế lực tự phát trong tự
nhiên. Khi xuất hiện chế độ tƣ hữu về tƣ liệu sản xuất, giai cấp hình thành,
đối kháng giai cấp nảy sinh giữa những ngƣời đi áp bức và những ngƣời bị áp
bức; giữa kẻ giầu và ngƣời nghèo, ngƣời hạnh phúc và ngƣời khổ đau... Trong
xã hội khi đó, các mối quan hệ giữa ngƣời với ngƣời diễn ra rất phức tạp,
đồng thời con ngƣời còn bị chi phối bởi sự tác động từ các yếu tố tự phát,
ngẫu nhiên, may rủi... nằm ngoài ý muốn và khả năng điều chỉnh của họ.
Chính sự bần cùng về kinh tế, sự áp bức về mặt chính trị, sự hiện diện của
những bất công trong xã hội cùng với những thất bại trong cuộc đấu tranh của
giai cấp bị trị chống lại giai cấp thống trị... là nguồn gốc kinh tế - xã hội sâu
xa dẫn đến sự ra đời của tôn giáo. Cùng với nguồn gốc kinh tế - xã hội, sự
nhận thức hết sức thấp kém của con ngƣời trƣớc các hiện tƣợng tự nhiên và xã
hội cũng là nguồn gốc quan trọng dẫn đến sự ra đời của tôn giáo. Theo quan
điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, trong buổi đầu lịch sử, con ngƣời đã bất lực
trong việc giải thích các hiện tƣợng tự nhiên, xã hội; họ tin rằng có một lực
lƣợng siêu nhiên đã chi phối cuộc sống của con ngƣời nơi trần thế với một
sức mạnh vô biên mà con ngƣời không thể cƣỡng lại. Chính sự hiểu biết thấp
kém của con ngƣời khiến họ ngày càng trở lên xa rời và phản ánh sai lệch
hiện thực khách quan. Đây là một trong những nguồn gốc dẫn đến sự ra đời
của tôn giáo.
19
Ngoài nguồn gốc kinh tế - xã hội và nguồn gốc nhận thức, thì tâm lý
cũng là một căn nguyên quan trọng cho sự ra đời của tôn giáo. Các nhà vô
thần luận đã nhận định rằng, các yếu tố tâm lý, trạng thái tình cảm buồn, vui,
sự sợ hãi... trƣớc những hiện tƣợng nảy sinh trong tự nhiên và xã hội cũng
nhƣ tác động của chúng đã khiến con ngƣời phải nhờ cậy vào thần linh,
Thƣợng đế. V.I.Lênin đã tán thành với quan điểm trên của các nhà vô thần
luận, trong đó có C.Mác, Ph.Ăngghen; đồng thời, có những bổ sung quan
trọng trong việc phân tích thêm nguồn gốc tâm lý cho sự ra đời của tôn giáo
hiện đại. V.I.Lênin viết: "Sợ hãi trƣớc thế lực mù quáng của tƣ bản - mù
quáng vì quần chúng nhân dân không thể đoán trƣớc đƣợc nó, - là thế lực bất
cứ lúc nào trong đời sống của ngƣời vô sản và ngƣời tiểu chủ, cũng đe doạ và
đem lại cho họ và đang đem lại cho họ sự phá sản "đột ngột", "bất ngờ",
"ngẫu nhiên", làm cho họ phải diệt vong, biến họ thành một ngƣời ăn xin, một
kẻ bần cùng, một gái điếm, và dồn họ vào cảnh chết đói, đó chính là nguồn
gốc sâu xa của tôn giáo hiện đại..."[29, tr. 515-516].
Nhƣ vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tôn giáo ra đời dựa
trên ba nguồn gốc cơ bản: Nguồn gốc kinh tế - xã hội, nguồn gốc nhận thức và
nguồn gốc tâm lý. Bên cạnh việc luận giải những nguồn gốc dẫn đến sự ra đời
của tôn giáo, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã đƣa ra các nguyên tắc mang
tính khoa học nhằm giải quyết những vấn đề tôn giáo nảy sinh trong đời sống
xã hội. Theo đó, để giải quyết vấn đề tôn giáo cần phải hết sức thận trọng, mềm
dẻo, tỉ mỉ, linh hoạt và chính xác đặc biệt, không đƣợc tuyên chiến hoặc bài
xích tôn giáo, bởi đó là những hành động dại dột, vô chính phủ không và mang
lại hiệu quả. Đề cập đến điều này, V.I.Lênin viết: "Ăngghen đã coi lời tuyên
chiến ầm ĩ của họ ( tức phái Blăngki lƣu vong sang Luôn đôn – TG.) với tôn
giáo là dại dột... Tuyên chiến nhƣ thế là một phƣơng pháp tốt nhất làm kích
động thêm sự quan tâm của ngƣời ta đối với tôn giáo và làm cho tôn giáo đi
đến chỗ tiêu vong thực sự một cách khó khăn hơn"[29, tr. 511-512]. Mặt khác,
20
- Xem thêm -