Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tư tưởng của john locke về phân chia quyền lực nhà nước trong tác phẩm khảo luận...

Tài liệu Tư tưởng của john locke về phân chia quyền lực nhà nước trong tác phẩm khảo luận thứ hai về chính quyền

.PDF
103
79
66

Mô tả:

John Locke (1632 - 1704) là một trong những tên tuổi nổi bật nhất trong lịch sử tư tưởng phương Tây cận đại thế kỷ XVII. Locke để lại rất nhiều tác phẩm cho hậu thế sau này, trong đó “Khảo luận thứ hai về chính quyền” được coi là một trong những danh tác chính trị thế giới, có giá trị lí luận về khoa học chính trị cũng như triết học và nhiều ngành khoa học xã hội khác, đưa tên tuổi của ông trở thành một nhà tư tưởng chính trị xuất sắc thời kì cận đại ở Tây Âu nói riêng và nhân loại nói chung.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN KHOA TRIẾT HỌC ----------------------- TRẦN THỊ THU HƢƠNG TƢ TƢỞNG CỦA JOHN LOCKE VỀ PHÂN CHIA QUYỀN LỰC NHÀ NƢỚC TRONG TÁC PHẨM “KHẢO LUẬN THỨ HAI VỀ CHÍNH QUYỀN” VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH TRIẾT HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2016-X NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PGS. TS Nguyễn Thúy Vân HÀ NỘI, 2020 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan khóa luận “Tư tưởng của John Locke về phân chia quyền lực nhà nước trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền”và ý nghĩa của nó đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay” là công trình nghiên cứu của tôi và được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của Giảng viên – PGS. TS Nguyễn Thúy Vân Hà Nội, ngày tháng năm 2020 Sinh viên Trần Thị Thu Hương LỜI CẢM ƠN Lời đầu tiên, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến PGS. TS Nguyễn Thúy Vân, người trực tiếp tận tình hướng dẫn và động viên tinh thần trong suốt quá trình giúp em hoàn thành khóa luận. Em cũng xin cảm ơn các thầy, cô giáo giảng dạy trong Khoa Triết học cũng như các thầy cô trong chuyên ban Logic học và các thầy cô trong trường đã truyền đạt cho em nhiều kiến thức bổ ích để thực hiện khóa luận và trang bị cho mình hành trang vững chắc cho sự nghiệp sau này. Mặc dù đã nỗ lực hết sức để hoàn thành khóa luận này, tuy nhiên với khả năng có hạn nên khóa luận tốt nghiệp của em còn nhiều thiếu sót, em mong nhận được sự góp ý từ phía thầy cô và các bạn để em tiến bộ hơn nữa trong học tập và nghiên cứu. Bên cạnh đó, dù đã cố gắng tìm hiểu, nghiên cứu tài liệu cũng như sự giúp đỡ nhiệt tình từ các thầy cô và anh chị, nhưng do giới hạn kiến thức và khả năng lý luận của bản thân còn nhiều hạn chế, kính mong nhận được sự góp ý và chỉ dẫn của các thầy cô để khóa luận của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày 23 tháng 06 năm 2020 Sinh viên Trần Thị Thu Hương MỤC LỤC MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 3 1.Lý do chọn đề tài ................................................................................................ 3 2.Tình hình nghiên cứu ......................................................................................... 4 3.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ..................................................................... 9 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu........................................................ 9 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 10 6. Ý nghĩa của đề tài ............................................................................................ 10 7. Kết cấu của đề tài ............................................................................................ 10 CHƢƠNG 1: ĐIỀU KIỆN, TIỀN ĐỀ CHO SỰ HÌNH THÀNH TƢ TƢỞNG CỦA JOHN LOCKE VỀ PHÂN CHIA QUYỀN LỰC NHÀ NƢỚC TRONG TÁC PHẨM “KHẢO LUẬN THỨ HAI VỀ CHÍNH QUYỀN” ............................................................................................................. 12 1.1.Những điều kiện kinh tế - xã hội cho sự hình thành tƣ tƣởng của John Locke về phân chia quyền lực nhà nƣớc ......................................................... 12 1.2. Tiền đề lí luận cho sự hình thành tƣ tƣởng về phân chia quyền lực nhà nƣớc của John Locke ........................................................................................ 18 1.2.1. Tiền đề tư tưởng .................................................................................. 18 1.1.2.Quan niệm của John Locke về bản tính con người và quyền con người25 1.3. Khát quát về cuộc đời, sự nghiệp của John Locke và tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền” ........................................................................... 31 1.3.1. Cuộc đời và sự nghiệp của John Locke .............................................. 31 1.3.2.Tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền” ................................... 33 Kết luận chƣơng 1 ............................................................................................. 36 CHƢƠNG 2: NỘI DUNG CƠ BẢN TƢ TƢỞNG CỦA JOHN LOCKE VỀ PHÂN CHIA QUYỀN LỰC NHÀ NƢỚC TRONG TÁC PHẨM “KHẢO LUẬN THỨ HAI VỀ CHÍNH QUYỀN” .......................................................... 38 1 2.1. Quan niệm của John Locke về nguồn gốc và đặc điểm của quyền lực nhà nƣớc ................................................................................................................................... 38 2.1.1. Về nguồn gốc hình thành quyền lực nhà nước ................................... 38 2.1.2. Về đặc điểm của quyền lực nhà nước ................................................. 42 2.2. Tƣ tƣởng về phân chia quyền lực nhà nƣớc của John Locke ................ 46 2.2.1. Nguyên tắc phân chia quyền lực nhà nước ......................................... 47 2.2.2. Quan niệm của John Locke về vai trò cụ thể của các bộ phận quyền lực nhà nước .................................................................................................. 51 2.2.3. Mối quan hệ giữa các bộ phận quyền lực trong bộ máy nhà nước ..... 60 Kết luận chƣơng 2 ............................................................................................. 69 CHƢƠNG 3: GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ VÀ Ý NGHĨA TƢ TƢỞNG CỦA JOHN LOCKE VỀ PHÂN CHIA QUYỀN LỰC NHÀ NƢỚC TRONG TÁC PHẨM “KHẢO LUẬN THỨ HAI VỀ CHÍNH QUYỀN” ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ...................................... 72 3.1. Giá trị và hạn chế trong tƣ tƣởng của John Locke về phân chia quyền nhà nƣớc ................................................................................................................................... 72 3.1.1. Những giá trị cơ bản trong tư tưởng của John Locke về phân chia quyền lực nhà nước ....................................................................................... 72 3.1.2.Một số hạn chế chủ yếu trong tư tưởng của John Locke về phân chia quyền lực nhà nước ....................................................................................... 76 3.2.Ý nghĩa tƣ tƣởng của John Locke về phân chia quyền lực nhà nƣớc đối với việc xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền ở Việt Nam hiện nay .................... 77 3.2.1. Quá trình nhận thức và xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay ......................................................................................................... 77 3.2.2. Ý nghĩa tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước của John Locke đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay................... 83 Kết luận chƣơng 3 ............................................................................................. 93 KẾT LUẬN ........................................................................................................ 95 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 97 2 MỞ ĐẦU 1.Lý do chọn đề tài “Mọi quyền lực đều hướng tới tha hóa. Quyền lực tuyệt đối thì tha hóa tuyệt đối”. Câu nói trên của sử gia người Anh – Baron Acton đã trở thành một kết luận đanh thép về bản chất quyền lực. Quyền lực luôn có xu hướng mở rộng và tự tăng cường vai trò của mình. Bất cứ ở đâu có quyền lực thì ở đó xuất hiện xu hướng lạm quyền, chuyên quyền, dù quyền lực ấy thuộc về bất cứ ai . Nhà nước là một tổ chức quyền lực chính trị đặc biệt của xã hội, từ khi ra đời đến nay có rất nhiều nhà tư tưởng đã luôn suy tư, trăn trở tìm hiểu bản chất, quy luật vận động của nhà nước trong lịch sử phát triển của nhân loại để nhằm mục đích tìm cách thức tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước sao cho có hiệu quả nhất và ngăn ngừa những mặt hạn chế của nó, hướng đến một mô hình nhà nước lí tưởng, đảm bảo cho sự ổn định và phát triển của xã hội. Chính bởi lẽ ấy mà ngay từ thời cổ đại, các triết gia đã không ngừng trăn trở và suy tư về cách thức xây dựng một mô hình nhà nước lý tưởng, đem lại hạnh phúc cho con người. Trong dòng chảy lịch sử tư tưởng ấy, John Locke (1632 - 1704) là một trong những tên tuổi nổi bật nhất trong lịch sử tư tưởng phương Tây cận đại thế kỷ XVII. Locke để lại rất nhiều tác phẩm cho hậu thế sau này, trong đó “Khảo luận thứ hai về chính quyền” được coi là một trong những danh tác chính trị thế giới, có giá trị lí luận về khoa học chính trị cũng như triết học và nhiều ngành khoa học xã hội khác, đưa tên tuổi của ông trở thành một nhà tư tưởng chính trị sắc xuất thời kì cận đại ở Tây Âu nói riêng và nhân loại nói chung. Trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền”, Locke đã đưa ra kiến giải sâu sắc về nhà nước, trong đó quan niệm của ông về quyền lực nhà nước và sự phân chia quyền lực nhà nước. Mặc dù, chưa đưa ra được khái niệm nhà nước pháp quyền nhưng ở trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền” Locke đã trình bày những tư tưởng tiến bộ và cách mạng về phân chia quyền lực nhà nước là cơ sở 3 nền tảng của nhà nước pháp quyền. Cho tới nay, gần 4 thế kỉ trôi qua, nhưng sức hấp dẫn và lôi cuốn của tác phẩm không bị phai mờ. Những quan niệm của John Locke về sự phân chia quyền lực nhà nước không chỉ có giá trị về mặt lý luận mà còn ở giá trị hiện thời sâu sắc đối với quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay. Việt Nam đang đi trên con đường thực hiện mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền với nhiều thách thức lớn trong bối cảnh nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế tri thức, xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, làn sóng cuộc cách mạng công nghệ 4.0,… có nhiều những vấn đề thực tiễn đặt ra cần phải giải quyết. Trong những năm qua, Đảng ta lãnh đạo xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân cho dân và vì dân, quyền lực nhà nước tập trung thống nhất không phân chia, mà chỉ có sự phân công, phối hợp hoạt động giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, với mục đích đảm bảo hiệu quả hoạt động nhà nước và ngăn ngừa sự lạm quyền. Vì vậy, việc trở lại nghiên cứu những tư tưởng của phương Tây thời kì cận đại với những quan điểm về nhà nước, quyền lực, xã hội công dân, về con người, …trong đó có tư tưởng của John Locke có ý nghĩa lý luận quan trọng trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Do vậy, với tất cả những lý do trên, tôi chọn “Tư tưởng của John Locke về phân chia quyền lực nhà nước trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền”và ý nghĩa của nó đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình. 2.Tình hình nghiên cứu Tư tưởng về phân chia quyền lực nhà nước là nội dung thu hút nhiều sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu ở các lĩnh vực khác nhau. Liên quan đến đề tài khóa luận có thể khái quát công trình nghiên cứu thành hai hướng chính như sau: 4 Hướng nghiên cứu thứ nhất là nhóm các công trình nghiên cứu đề cập đến tư tưởng triết học của John Locke nói chung và tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền” nói riêng Đối với hướng nghiên cứu tập trung vào tư tưởng triết học của John Locke nói chung gồm có nhiều công trình như: + Cuốn Lịch sử triết học do Nguyễn Hữu Vui chủ biên. Trong cuốn sách, tác giả đã trình bày các quan niệm triết học của John Locke nhưng chủ yếu tập trung vào phương diện nhận thức luận, chưa đề cập đến triết học chính trị của Locke. + Giáo trình Lịch sử các học thuyết chính trị do Nguyễn Đăng Dung chủ biên đã trình bày một cách khái quát triết học chính trị của John Locke với những nội dung chủ yếu được khảo sát từ tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền”. Các quan niệm của John Locke về pháp quyền tự nhiên, và nhà nước đã được trình bày còn sơ lược và chưa mang tính hệ thống. + Cuốn Đại cương lịch sử triết học phương Tây của TS. Đỗ Minh Hợp, TS. Nguyễn Thanh, TS. Nguyễn Anh Tuấn phân tích khá toàn diện về các quan niệm triết học của John Locke. Tuy nhiên, những quan niệm chính trị - xã hội của J. Locke cũng được các tác giả trình bày và phân tích mang tính hệ thống. Ngoài ra, tư tưởng triết học của Locke nói chung và tư tưởng về nhà nước nói riêng còn được đề cập đến trong các giáo trình như: cuốn Lịch sử triết học phương Tây từ triết học Hy Lạp cổ đại đến triết học cổ điển Đức của Nguyễn Tấn Hùng, Đại cương các tư tưởng và học thuyết chính trị trên thế giới do Nguyễn Thế Nghĩa chủ biên, cuốn Lịch sử triết học phương Tây của Nguyễn Tiến Dũng, cuốn Lịch sử các học thuyết chính trị của Lưu Kiểm Thanh và Phạm Hồng Thái, cuốn Lịch sử tư tưởng chính trị của Học viện hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, cuốn Lịch sử triết học phương Tây của Trần Văn Phòng và 5 Dương Minh Đức...Nhìn chung các công trình trên chủ yếu bàn về quan điểm chính trị, xã hội của John Locke như một phần không thể thiếu trong tư tưởng chính trị cận đại ở phương Tây. Bên cạnh đó, còn rất nhiều công trình nước ngoài viết về John Locke đã được dịch và xuất bản. Trước hết phải kể đến cuốn sách 106 nhà thông thái của P.S.Taranop biên soạn, do TS. Đỗ Minh Hợp dịch, hiệu đính và cho xuất bản năm 2000. Tiếp đến, tác phẩm 100 cuốn sách ảnh hưởng khắp thế giới do Đặng Thục Sinh (chủ biên) xuất bản năm 2002. Trong đó, tác giả đã trình bày khái quát những nội dung chủ yếu trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền” của John Locke và cũng đã khẳng định giá trị to lớn của những tư tưởng về quyền con người và nhà nước trong tiến trình phát triển của nhân loại. Tác phẩm Các triết thuyết lớn, của tác giả Folscheid Dominique do Huyền Giang dịch và được xuất bản năm 2003. Trong cuốn sách này, tác giả đã giới thiệu cho bạn đọc sơ lược về tiểu sử cùng học thuyết chính trị của John Locke với hai nội dung chính là trạng thái tự nhiên và khế ước xã hội. Hay như công trình Lịch sử triết học và các luận đề của Samuel Enoch Stumpf, Đỗ Văn Thuấn và Lưu Văn Huy biên dịch xuất bản năm 2004, đã giới thiệu khái quát về cuộc đời, các tác phẩm tiêu biểu và các quan niệm triết học cơ bản là học thuyết về nhận thức và lý thuyết về đạo đức và chính trị của John Locke nhưng mới chỉ dừng ở mức giới thiệu sơ lược, các vấn đề đưa ra còn thiếu sự phân tích. Đối với hướng nghiên cứu tập trung về tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền” và tư tưởng của John Locke được thể hiện trong tác phẩm. Ở hướng nghiên cứu này tập trung ở các luận văn, tạp chí, bài báo nghiên cứu gồm có: + Luận văn Thạc sỹ của Nguyễn Thị Dịu (2009) với đề tài “Quan niệm chính trị xã hội của John Locke” với hai nội dung chính quan niệm chính trị và xã hội. Tác giả nghiên cứu làm rõ quan niệm của ông về con người và quyền con 6 người, cũng như về quyền lực nhà nước và quan niệm của ông về sự giải thể của chính quyền. Tuy nhiên, tác giả chưa đưa ra những kiến giải cụ thể về nguồn gốc, bản chất, chức năng của nhà nước, cũng chưa chỉ ra được cơ sở hình thành quan niệm về nhà nước. + Luận văn Thạc sỹ của Đinh Thị Hồng Vững (2013) với đề tài, “Quan niệm của John Locke về nhà nước trong tác phẩm Khảo luận thứ hai về chính quyền”. Trong tác phẩm tác giả đã trình bày chi tiết cụ thể quan niệm về nhà nước từ nguồn gốc hình thành, mục đích, giới hạn, cũng như sự phân chia quyền lực và giải thể chính quyền. + Luận văn Thạc sỹ của Đặng Thị Loan (2017) với đề tài “Quan niệm của John Locke về sở hữu trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền”” và giá trị hiện thời của nó”. Trong luận văn, tác giả đưa ra kiến giải về quan niệm nguồn gốc, bản chất của sở hữu và phương thức bảo đảm quyền tư hữu. Khi nghiên cứu về John Locke chúng ta không thể không nhắc đến nỗ lực của dịch giả Lê Tuấn Huy, đã dịch một cách thành công tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền” và được xuất bản vào năm 2007 và tái bản năm 2013. Trong suốt quyển sách này, tác giả đã giới thiệu một cách chi tiết về John Locke, khái quát nội dung tác phẩm và dịch toàn bộ tác phẩm này sang tiếng Việt. Bên cạnh đó, cũng có nhiều tạp chí, bài báo khoa học có liên quan như: Quan niệm của John Locke về quyền sở hữu trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền” của tác giả Nguyễn Thị Thanh Huyền (2012), Một số tư tưởng triết học chính trị của John Locke: Thực chất và ý nghĩa lịch sử của Đinh Ngọc Thạch (2007), John Locke -Nhà tư tưởng lớn của phong trào khai sáng của Phạm Văn Đức (2008), Quan niệm của John Locke về sự hình thành và bản chất quyền lực nhà nước trên Tạp chí Thông tin chính trị và Locke và Triết lí về con người của Lê Công Sự trên tạp chí con người…. 7 Hướng nghiên cứu thứ hai là những công trình nghiên cứu sâu về tư tưởng phân chia quyền lực của John Locke, bao gồm: + Cuốn Tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước với việc tổ chức bộ máy nhà nước ở một số nước của tác giả Nguyễn Thị Hồi được Nxb Tư pháp Hà Nội xuất bản năm 2005. Trong cuốn sách này tác giả đã nghiên cứu tư tưởng phân chia quyền lực trong lịch sử triết học từ Aristotle, Locke, Montesqieu, Rousseau…và việc áp dụng tư tưởng phân quyền ở một số nước tiêu biểu trên thế giới. + Cuốn Nhà nước pháp quyền của tác giả Đào Trí Úc được Nxb Đại học quốc gia Hà Nội xuất bản năm 2015. Cuốn giáo trình này có đi sâu nghiên cứu hệ thống về Nhà nước pháp quyền, phân tích, lý giải khoa học về tính phổ quát và tính quốc gia, dân tộc đặc thù của Nhà nước pháp quyền, khẳng định Nhà nước pháp quyền là phương thức tổ chức thực hiện quyền lực Nhà nước phù hợp với điều kiện và đòi hỏi của sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt nam, khái quát những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền, coi đó là yếu tố hợp thành Nhà nước pháp quyền với tính cách là những yêu cầu, đòi hỏi, là hệ thống các nguyên tắc tổ chức thực hiện quyền lực Nhà nước; phân tích và khái quát quá trình phát triển của các yếu tố cần và đủ cho việc xác lập và củng cố Nhà nước pháp quyền, từ đó chỉ ra nhu cầu bổ sung, hoàn thiện trong việc đổi mới tổ chức, cơ chế, phương thức hoạt động, cơ sở pháp lý,… cho các thiết chế quyền lực Nhà nước và các thiết chế xã hội nhằm đáp ứng đòi hỏi của nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Trong cuốn sách tác giả cũng phân tích hệ thống quá hình thành và phát triển của tư tưởng Nhà nước pháp quyền từ cổ đại đến hiện đại cơ bản và hệ thống, trong đó phân tích hệ thống tư tưởng phân quyền của John Locke. 8 Các tài liệu đã đưa ra những luận giải rất logic và rõ ràng khái quát về toàn bộ tư tưởng của John Locke nói chung, cũng như quan điểm chính trị nói riêng, trong đó có quan niệm sự hình thành xã hội công dân, về quyền lực nhà nước, tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước. Tuy vậy, có thể nói, việc đi sâu nghiên cứu quan niệm của John Locke về sự phân chia quyền quyền lực nhà nước trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền” vẫn cần phải nghiên cứu sâu hơn để làm rõ những nội dung tư tưởng căn bản cũng như ý nghĩa của tư tưởng đó đối với xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. 3.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích nghiên cứu: Đề tài làm rõ một số tư tưởng cơ bản về phân chia quyền lực nhà nước của John Locke trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền”, từ đó làm rõ ý nghĩa của những tư tưởng đó đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay. - Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện được mục đích trên, khóa luận tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau: + Phân tích những điều kiện, tiền đề tư tưởng cho sự hình thành tư tưởng về phân chia quyền lực nhà nước của John Locke và giới thiệu khái quát về tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền”. + Phân tích một số quan điểm cơ bản của John Locke về phân chia quyền lực nhà nước trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền”. + Đánh giá những giá trị và hạn chế trong quan niệm của ông về phân chia quyền lực nhà nước trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền” và chỉ ra ý nghĩa của nó trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay. 4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu 9 - Cơ sở lý luận: Đề tài được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và dựa vào phương pháp luận chủ nghĩa Mác – Lênin trong nghiên cứu lịch sử triết học; đồng thời kế thừa, tham khảo có chọn lọc các công trình của các nhà nghiên cứu có liên quan đến đề tài. - Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng các phương pháp của phép biện chứng duy vật trong việc nghiên cứu lịch sử tư tưởng. Cụ thể là, phương pháp lôgíc kết hợp với phương pháp lịch sử, phân tích và tổng hợp, khái quát hoá và so sánh… 5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Quan niệm của J. Locke về phân chia quyền lực nhà nước và ý nghĩa của nó đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay - Phạm vi nghiên cứu: Với những mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu trên, nên khóa luận tập trung nghiên cứu những nội dung cơ bản của quan niệm về sự phân quyền nhà nước của John Locke trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền” và những nghiên cứu về Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam từ đổi mới đến nay. 6. Ý nghĩa của đề tài Đề tài góp phần vào việc làm sáng tỏ quan niệm về sự phân quyền nhà nước của John Locke trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền”, trên cơ sở đó giúp người nghiên cứu và học tập có những đánh giá khách quan hơn về công lao của John Locke đối với lịch sử tư tưởng chính trị nhân loại và ý nghĩa của nó đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. 7. Kết cấu của đề tài 10 Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận gồm 3 chương, 7 tiết. 11 CHƢƠNG I: ĐIỀU KIỆN, TIỀN ĐỀ CHO SỰ HÌNH THÀNH TƢ TƢỞNG CỦA JOHN LOCKE VỀ PHÂN CHIA QUYỀN LỰC NHÀ NƢỚC TRONG TÁC PHẨM “KHẢO LUẬN THỨ HAI VỀ CHÍNH QUYỀN” 1.1.Những điều kiện kinh tế - xã hội cho sự hình thành tƣ tƣởng của John Locke về phân chia quyền lực nhà nƣớc Tây Âu từ thế kỉ XV – XVII có những chuyển biến phức tạp và sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Sự xuất hiện một loạt các công trường thủ công, các thành thị và trung tâm thương mại lớn ở khắp các nước ven Địa Trung Hải, nhất là Ý, sau đó là Anh, Pháp. Bằng việc một loạt các phát minh kỹ thuật mới như máy kéo sợi, máy in, công nghiệp dệt, luyện kim, thuốc súng,… đã thay thế nền kinh tế tự nhiên kém phát triển bằng một nền sản xuất công trường thủ công đem lại năng suất lao động cao hơn gắn với việc nhiều công cụ lao động được cải tiến và hoàn thiện. Các cuộc phát kiến địa lý như tìm ra châu Mỹ và các con đường đến vùng đất mới cùng với sự phát triển của sản xuất và thương nghiệp đã tạo nên những tiền đề trực tiếp cho một thời kỳ mới… tạo điều kiện phát triển cho nền sản xuất theo hướng tư bản chủ nghĩa. Nhờ đó thị trường trao đổi hàng hóa giữa các nước ngày càng mở rộng, các cuộc giao lưu Đông – Tây được tăng cường. Những mầm mống tư bản chủ nghĩa đầu tiên đã xuất hiện và phát triển trong lòng xã hội phong kiến. Đồng thời, sự phân hóa giai cấp ở Tây Âu thời kì này càng rõ rệt, đó sự nảy sinh hai giai cấp mới: tư sản và vô sản. Tầng lớp tư sản xuất hiện gồm chủ xưởng công trường, xưởng thợ, chủ thuyền buôn…có vai trò và vị trí trong nền kinh tế và xã hội ngày càng lớn. Hàng loạt nông dân di cư từ nông thôn ra thành phố, trở thành người làm thuê cho các công xưởng, họ là giai cấp vô sản phải bán sức lao động cho nhà tư bản. Các tầng lớp xã hội trên đại diện cho nền sản xuất mới, cùng với nông dân đấu tranh chống chế độ phong kiến. 12 Nền kinh tế tư bản thay thế cho sản xuất phong kiến, nhưng kiến trúc thượng tầng của xã hội châu Âu lúc này vẫn là chế độ phong kiến lạc hậu kìm hãm sự phát triển của kinh tế tư bản chủ nghĩa. Mặc dù nắm trong tay tiềm lực kinh tế nhưng giai cấp tư sản không có chút địa vị chính trị nào, không có điều kiện tự do phát triển sản xuất, vẫn phải phụ thuộc vào chế độ phong kiến, vào giai cấp quý tộc, địa chủ lúc này đã trở nên lạc hậu. Do đó, để có thể tự do phát triển sản xuất, tự do buôn bán giai cấp tư sản cần phải lật đổ chế độ phong kiến, giành quyền lực chính trị. Chính vì thế, Tây Âu thời kì này đánh dấu hàng loạt những cuộc cách mạng tư sản nổ ra, tiêu biểu như cách mạng tư sản năm 1566 ở Hà Lan, cách mạng tư sản Anh năm 1642, cách mạng tư sản Pháp năm 1789… Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trở thành phương thức sản xuất thống trị trở thành một xu thế của lịch sử mà không gì có thể ngăn cản nổi. Đồng thời, giai đoạn này là giai đoạn phong trào văn hoá Phục hưng và cận đại phát triển lên đến đỉnh cao vào thế kỷ XVI và lan mạnh ra khắp các nước tạo thành một cao trào rộng lớn làm biến đổi sâu sắc xã hội, tư tưởng khôi phục lại những giá trị văn hóa tinh hoa của thời kỳ cổ đại ở Tây Âu, vừa đã thổi bùng lên những khát vọng giải phóng con người và quyền con người, cụ thể là thoát khỏi sự kìm kẹp của nhà thờ với những điều luật khắt khe. Những biến đổi sâu sắc và phức tạp ở Tây Âu trên tất cả các lĩnh vực của toàn bộ đời sống xã hội thời kì này đã tác động mạnh mẽ đến điều kiện kinh tế, xã hội và chính trị nước Anh thế kỉ XVII. Chính những biến chuyển mạnh mẽ của nước Anh nói riêng và cả Tây Âu nói chung trong cuộc đấu tranh gay gắt giữa tư bản và phong kiến đã làm xuất hiện những tiền đề trực tiếp cho sự ra đời của quan niệm triết học chính trị của John Locke. Về kinh tế, nước Anh thế kỉ XVII là một trong những cường quốc ở châu Âu với sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp và thương nghiệp. Từ cuối thế kỷ XVI, các ngành công nghiệp ở Anh đã phát triển rất mạnh. Những phát minh 13 mới về kỹ thuật, nhất là những hình thức mới trong lao động đã tạo ra năng suất lao động ngày một cao, thay đổi căn bản cách thức sản xuất chủ yếu bằng lao động thủ công sang sử dụng máy móc và từng bước hình thành cơ cấu công nghiệp hoàn chỉnh, từ sản xuất quy mô nhỏ lên quy mô lớn với sự xuất hiện các khu công nghiệp. Đặc biệt là ngành nghiệp sản xuất len dạ cung cấp một lương hàng xuất khẩu chiếm 80% toàn bộ hàng xuất khẩu ở Anh. Đây là thời kỳ các phường hội trung cổ ở Anh đến thế kỷ XVII đã đi đến chỗ tan rã. Công trường thủ công với nền sản xuất quy mô lớn xuất hiện thay thế cho các phường hội trung cổ. Các chủ thủ công nghiệp ngày càng có vị trí và vai trò quan trọng trong nền kinh tế, họ trở thành giai tầng mới nắm giữ sức mạnh kinh tế - giai cấp tư sản, thợ thủ công trở thành lao động làm thuê trong các công trường thủ công, phải lệ thuộc vào nhà tư sản. Thương nghiệp của Anh trong thời kỳ này cũng có bước phát triển vượt bậc trên thị trường thế giới. Thương nhân mở rộng buôn bán trên khắp châu Âu, thông qua những con đường hàng hải mới tìm được trong các cuộc phát kiến địa lý mở rộng thị trường buôn bán từ biển Ban Tích sang tận châu Phi, châu Á và cả châu Mỹ. Các công ty buôn bán lớn lần lượt xuất hiện như công ty Đông Ấn của Anh thành lập năm 1600… Đầu thế kỉ XVII, nước Anh mặc dù đạt được một số thành tựu về công thương nghiêp nhưng vẫn là một nước nông nghiệp. Để có được lợi nhuận, giai cấp tư sản không từ một thủ đoạn nào để tước đoạt ruộng đất của nông dân . Do sự phát triển của ngành công nghiệp len dạ ngày càng lớn mạnh nên nghề nuôi cừu càng phát triển. Địa chủ lúc này không thỏa mãn với thu nhập từ địa tô nông dân nộp cho, muốn chuyển hướng kinh doanh sang trồng cỏ nuôi cừu. Do đó, giới địa chủ Anh đã tước đoạt ruộng đất của nông dân đang cày cấy và đất đai công xã thành của mình. Biến ruộng đất thành những cánh đồng trồng cỏ hoặc tự mình kinh doanh nuôi cừu hoặc nuôi cừu thuê. Nông dân mất ruộng đất, nhà cửa. Họ trở thành những người không có bất cứ cái gì cả, không có một tài sản nào khác ngoài chính thân thể của mình và đem bán chính sức lao động của 14 mình để kiếm sống, bạo lực của kẻ cường quyền đã tách người nông dân ra khỏi tư liệu sản xuất từ đây trong xã hội xuất hiện một giai cấp mới đó là giai cấp vô sản. Đó là thảm cảnh cừu ăn thịt người mà Thomas More đã đặc tả trong tác phẩm Utopia. Tất cả đó nói lên sự xâm nhập mạnh mẽ của chủ nghĩa tư bản vào nông thôn và làm chuyển biến kinh tế nông nghiệp phong kiến ở Anh thành kinh tế nông nghiệp tư bản chủ nghĩa. Những chuyển biến về kinh tế tất yếu kéo theo những biến đổi sâu sắc trong lòng xã hội nước Anh. Các tầng lớp trong xã hội nước Anh có sự phân hóa và mâu thuẫn sâu sắc. Bên cạnh mâu thuẫn cũ tồn tại lâu đời giữa nông dân với giai cấp phong kiến, trong lòng xã hội nước Anh còn xuất hiện nhiều mâu thuẫn mới. Thứ nhất, đó là mâu thuẫn giữa tầng lớp quý tộc mới với tầng lớp cũ tộc cũ. Tầng lớp quý tộc cũ là tầng lớp có địa vị cao trong xã hội, có nhiều đặc quyền đặc lợi hơn, ra sức bảo vệ và ủng hộ chế độ quân chủ chuyên chế. Trong khi đó, tầng lớp quý tộc mới, tức quý tộc đã tư sản hóa, có quyền lợi gắn chặt giai cấp tư sản không chỉ thu địa tô mà phần lớn lợi nhuận là từ sản xuất công thương nghiệp. Cùng với sự phát triển nhanh chóng của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, giai cấp tư sản đã vươn lên trở thành một lực lượng có tiềm lực kinh tế mạnh trong xã hội ở Anh, nhưng họ lại không có chút quyền lực và địa vị chính trị nào. Nền quân chủ chuyên chế với những thể chế bảo thủ, can thiệp quan liêu vào toàn bộ đời sống, trở thành xiềng xích kìm hãm sự phát triển của của lực lượng sản xuất mới, đại diện là giai cấp tư sản. Chính bởi vậy, một tất yếu là dẫn đến những xung đột về mặt chính trị, giai cấp tư sản luôn không khoan nhượng, luôn muốn đấu tranh để giành lấy địa vị chính trị từ tay giai cấp phong kiến. Thứ hai, mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản với nhân dân lao động. Họ là những người lao động nghèo bị cướp hết ruộng đất, biến họ trở thành người vô 15 sản. Họ buộc phải bán sức lao động của mình cho nhà tư bản và các nhà quý tộc mới để nhận lấy tiền công rẻ mạt. Bị bóc lột nặng nề với 2 tầng xiềng xích nên họ luôn mang trong mình mâu thuẫn với giai cấp tư sản và phong kiến. Ở thế kỉ XVII, tình hình chính trị nước Anh có nhiều biến động. Đến giữa thế kỷ XVII, nước Anh vẫn là một quốc gia phong kiến quân chủ chuyên chế. Vua nắm trong tay mọi cơ quan quyền lực của đất nước. Giữa thế kỷ XVII, chuyển biến sâu sắc trong cơ cấu nghị viện, khi các quý tộc mới dần chiếm vị trí của các quý tộc cũ trong Viện thứ dân, dẫn đến xung đột ngày một trầm trọng giữa nhà vua và nghị viện trong việc tranh giành quyền lực. Trong lúc đó, Charles I âm mưu phục hồi chế độ phong kiến và lợi dụng những tranh chấp trong Nghị viện để tiến hành cuộc phản kích, dẫn đến cuộc nội chiến lần thứ hai bùng nổ năm 1648. Cromwell tập hợp quần chúng nhân dân và giai cấp tư sản, quý tộc mới chống lại chế độ phong kiến nhằm thủ tiêu vương quyền, xóa bỏ hình thức cha truyền con nối những năm 50 của thế kỷ XVII. Cuộc cách mạng thành công, phe cách mạng thắng lợi và việc xử tử Charles I đánh dấu một bước tiến mới của cách mạng và thiết lập nền bảo hộ của Oliver Cromwell. Sau khi Cromwell mất, chế độ bảo hộ cũng bị sụp đổ theo và được thay thế bằng sự phục hồi của vương triều Charles II với việc quay trở về với nền quân chủ, viện quý tộc và giáo hội. Điều này đe dọa số phận của tầng lớp tư sản và quý tộc mới. Nước Anh lúc này lại tiếp tục có những xung đột gay gắt giữa nhà vua và nghị viện, những tranh cãi kéo dài về vấn đề tôn giáo và chính trị, khiến nghị viện cứ được triệu tập lại giải tán rất nhiều lần trong những năm 1660 - 1688. Sau khi Charles II mất, James II lên nắm quyền từ 1685 - 1688 với ý đồ xác lậpvương quyền phong kiến, thi hành nhiều chính sách như cho các quý tộc 16 lớn theo Thiên Chúa giáo quay trở lại tham gia chính quyền để củng cố thế lực phong kiến, ra lệnh thu thuế mà không đợi triệu tập nghị viện, bãi bỏ luật “Bảo đảm thân thể”… Do đó giai cấp tư sản và tầng lớp quý tộc mới tìm cách lật đổ bằng việc dựa vào William III là quốc trưởng Hà Lan và là chồng của công nương Marry II. Vua James II bị trục xuất khỏi nước Anh và ngôi vị được trao cho William III và vợ, cùng với đó là việc chuyển từ chế độ quân chủ chuyên chế sang chế độ quân chủ lập hiến. Quyền lực tối cao được chuyển từ tay nhà vua sang quý tộc mới và tư sản, làm thay đổi căn bản thể chế chính trị nước Anh. Lịch sử gọi cuộc chính biến 1688 - 1689 là cuộc “Cách mạng vinh quang”. Bên cạnh những mâu thuẫn về mặt chính trị, những cuộc xung đột tôn giáo giữa người Anh giáo, người Tin lành và người Công giáo đã đẩy nước Anh vào những cuộc nội chiến kéo dài. Những điều kiện kinh tế, xã hội nước Anh đã ảnh hưởng trực tiếp đến tư tưởng của John Locke và đó là lí do trong tác phẩm Khảo luận thứ hai về chính quyền ông sử dụng nhiều điển tích tôn giáo trong quan niệm của mình. Cuộc cách mạng tư sản Anh là một sự kiện lịch sử quan trọng không chỉ trong lịch sử nước Anh mà cả lịch sử thế giới. Nó đã đập tan nền quân chủ phong kiến, thiết lập chế độ tư bản chủ nghĩa mở đường cho sức sản xuất phát triển. Cuộc Cách mạng vinh quang đã thay đổi chính thể nước Anh một cách hòa bình, đem lại tự do cho giai cấp tư sản, quý tộc và toàn thể nhân dân Anh. Tuy nhiên, cuộc cách mạng tư sản Anh là cuộc cách mạng không triệt để, bởi thực chất của cuộc cách mạng này là sự thỏa hiệp giai cấp giữa tư sản, quý tộc mới với giai cấp phong kiến để bảo vệ quyền lợi và địa vị của mình. Sau khi cách mạng giành thắng lợi, vấn đề ruộng đất cho nông dân vẫn không được giải quyết. Liên minh giữa giai cấp tư sản và quý tộc mới vừa chống lại chế độ phong kiến vừa chống lại quần chúng nhân dân. Sở dĩ có sự thỏa hiệp như vậy là vì giai cấp tư sản trong thời kỳ này chưa đủ lớn mạnh để lấn át hoàn toàn giai 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan