ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------***----------------
LÈNG MINH TUẤN
TÍN NGƢỠNG THỜ CÚNG CỦA NGƢỜI TÀY Ở
LỤC YÊN-YÊN BÁI
Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60 22 03 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Đỗ Thị Hòa Hới
Hà Nội, 2017
LỜI CẢM ƠN
Luận văn “ Tín ngưỡng thờ cúng của người Tày ở Lục Yên - Yên Bái”
thể hiện những kiến thức của tác giả trong 2 năm học tập dưới sự dìu dắt, chỉ
bảo tận tình của các thầy cô trong nhà trường, đặc biệt là các thầy cô trong
khoa Triết học.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới PGS.TS Đỗ Thị Hòa Hới đã
hết lòng dìu dắt, chỉ bảo, hướng dẫn và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn.
Xin chân thành cảm ơn BGH trường Đại học KHXH, NV- Đại học Quốc
Gia Hà Nội, các thầy cô trong khoa Triết học, bộ môn Tôn giáo học, Phòng
dân tộc, Phòng văn hóa huyện Lục Yên đã tạo điều kiện cho tôi hoàn thành
luận văn.
Cuối cùng tôi xin bày tỏ sự cảm ơn chân thành đến gia đình, người thân,
bạn bè, đồng nghiệp đã khích lệ đông viên tôi hoàn thành luận văn này.
Tác giả
Lèng Minh Tuấn
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi được thực
hiện dưới sự hướng dẫn của PGS. TS Đỗ Thị Hòa Hới.
Các kết quả của luận văn chưa được công bố trong các công trình nào
khác. Các số liệu, tài liệu, hình ảnh sử dụng trong luận văn là trung thực,
khách quan và có nguồn gốc rõ ràng.
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung đề tài.
Hà Nội, ngày 20 tháng 05 năm 2017
Tác giả luận văn
Lèng Minh Tuấn
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 2
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................ 2
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu ................................................................. 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................. 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .............................................................. 7
5. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu .................................................. 7
6. Đóng góp của luận văn ............................................................................... 8
7. Ý nghĩa lí luận............................................................................................. 8
8. Kết cấu của đề tài ........................................................................................ 8
Chương 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG VÀ
TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TỔ TIÊN CỦA NGƯỜI TÀY Ở LỤC
YÊN - YÊN BÁI .............................................................................................. 9
1.1. Điều kiện hình thành tín ngưỡng thờ cúng, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của
người Tày ở Lục Yên......................................................................................... 9
1.2. Các tộc người ở Lục Yên........................................................................... 13
1.3. Một số vấn đề lý luận chung và nhận diện, đặc điểm tín ngưỡng thờ cúng, tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Tày ở Lục Yên. ........................................... 19
Chƣơng 2. XU HƢỚNG VẬN ĐỘNG CỦA TÍN NGƢỠNG THỜ
CÚNG CỦA NGƢỜI TÀY Ở LỤC YÊN - YÊN BÁI HIỆN NAY VÀ
MỘT SỐ GIẢI PHÁP .................................................................................. 57
2.1. Xu hướng biến đổi tín ngưỡng thờ cúng của người Tày ở Lục Yên............... 57
2.2. Một số giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị trong việc thờ cúng của người Tày
ở Lục Yên hiện nay ......................................................................................... 71
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 82
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 84
PHỤ LỤC ........................................................................................................ 89
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bản thân là một người con dân tộc Tày, sinh ra và lớn lên trên mảnh
đất Lục Yên và được tham gia nhiều sinh hoạt tín ngưỡng, nghi lễ thờ cúng
của người Tày nơi đây. Từ góc độ triết học và qua thực tế tôi nhận ra rằng,
bản sắc văn hóa của người Tày hiện nay còn nhiều giá trị cần được nghiên
cứu và tìm hiểu. Đặc biệt là tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Tày ở
Lục Yên-Yên Bái.
Trong những năm gần đây cùng với quá trình xây dựng nông thôn mới, xây
dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, Đảng nhà nước ta luôn chú trọng xây dựng
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đi cùng với đó là việc
bảo tồn, phát huy văn hóa của các tộc người thiểu số trong thời kỳ hội nhập kinh
tế thế giới và giao lưu văn hóa quốc tế. Do vậy, việc nghiên cứu, khai thác kho
tàng văn hóa dân tộc, trong đó có tín ngưỡng thờ cúng của người Tày có vai trò
quan trọng trong việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam nói chung
và văn hóa người Tày nói riêng.
Theo số liệu thống kê người Tày với dân số hơn 1,6 triệu người có số
dân đông nhất trong các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Tuy có dân số đông
và địa bàn phân bố rải rác trên khắp các tỉnh miền núi phía bắc như : Cao
Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn,Tuyên quang, Yên Bái….nhưng người Tày vẫn
giữ được nhiều yếu tố mang tính chất thuần khiết, hoang sơ, mộc mạc…
Tỉnh Yên Bái là nơi quần cư của 30 dân tộc anh em trong đó người Tày ở
Lục Yên có dân số đông nhất. Trong quá trình tồn tại và phát triển người
Tày ở đây còn lưu giữ nhiều nét văn hóa độc đáo vừa mang yếu tố chung
của các tộc người vừa có những nét riêng của người Tày ở Lục Yên - Yên
Bái. Điều đó được thể hiện mạnh mẽ không chỉ trong đời sống lao động sản
2
xuất, chống giặc ngoại xâm, thiên tai…mà cả trong đời sống tâm linh.
Trong dòng chảy của truyền thống văn hóa đó thì tín ngưỡng của người
Tày có vị trí quan trọng, đặc biệt là tín ngưỡng thờ cúng trong đó có tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên.
Nghiên cứu tín ngưỡng thờ cúng và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người
Tày ở Lục Yên - Yên Bái vốn phản ánh những khía cạnh của đời sống tinh thần,
giúp chúng ta nhận diện và có cái nhìn bao quát về quan niệm vũ trụ, nhân sinh
quan, thế giới quan, ý nguyện tâm linh, các quy tắc ứng xử trong gia đình và cộng
đồng của người Tày. Tín ngưỡng thờ cúng và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của Tày
ở Lục Yên - Yên Bái chuyển tải nhiều nội dung sâu sắc về đạo hiếu, đạo nghĩa của
người sống dành cho người chết, người sống với người sống. Nó chi phối đời
sống tâm linh của người Tày nơi đây, tạo ra sự gắn kết giữa các các cá nhân trong
cộng đồng người Tày và giữa người Tày với các tộc người khác. Bên cạnh đó tín
ngưỡng thờ cúng của người Tày ở Lục Yên-Yên Bái hiện nay vẫn còn nhiều giá
trị tích cực lẫn những yếu tố tiêu cực đôi khi là lạc hậu và có nhiều xu hướng biến
đổi trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy việc tìm hiểu tín ngưỡng thờ cúng và tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở địa bàn này có ý nghĩa và cần thiết. Để từ đó tìm ra
những giải pháp bảo tồn và phát huy những giá trị và hạn chế những bất cập trong
tín ngưỡng thờ cúng và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Tày ở Lục Yên-Yên
Bái.
Bởi vậy, tôi chọn đề tài: “Tín ngưỡng thờ cúng của người Tày ở Lục
Yên-Yên Bái” làm đề tài luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Triết học.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Ở Việt Nam đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về phong tục, tín
ngưỡng, tiêu biểu như: Toan Ánh ( 1992), Tìm hiểu phong tục Việt Nam nếp
cũ- tết lễ- hội hè, Nxb Thanh niên, Hà Nội; Lê Dân ( 1994), Văn hóa gia đình
Việt Nam trong phát triển xã hội, Nxb Lao động, Hà Nội; Vũ Ngọc Khánh
(1994), Tín ngưỡng làng Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội; Phan Kế
3
Bính (1995), Việt Nam phong tục, Nxb Hà Nội; Nguyễn Huy Linh (1996), Tín
ngưỡng thành hoàng làng Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội; Nguyễn
Đức Lữ (2000), Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân gian Việt Nam, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội; Nguyễn Đăng Duy, Các hình thái tín ngưỡng tôn giáo ở
Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội... Các công trình trên chủ yếu
nghiên cứu về tôn giáo, văn hóa tôn giáo, tín ngưỡng dân gian nói chung của
dân tộc Việt Nam.
Từ trước đến nay, do có vị trí và vai trò quan trọng trong cộng đồng dân
tộc Việt Nam mà người Tày và văn hóa Tày luôn dành được sự quan tâm,
chú ý của nhiều nhà nghiên cứu. Theo đó, rất nhiều công trình, bài viết, luận
án, luận văn, khóa luận liên quan đến tất cả các lĩnh vực: lịch sử, kinh tế, xã
hội, văn hóa, ngôn ngữ, chữ viết, tri thức dân gian cũng như các loại hình diễn
xướng, dân ca, văn học nghệ thuật đã được công bố.
Tiếp cận từ góc độ dân tộc học, tôn giáo của người Tày nói chung cũng đã
được đề cập trong một số công trình nghiên cứu cơ bản của Viện Dân tộc học,
do Nxb Khoa học xã hội xuất bản, tiêu biểu là các công trình như: Sơ lược giới
thiệu các nhóm dân tộc Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam (1968); Các dân tộc ít
người ở Việt Nam (các tỉnh phía Bắc), 1978.
Tiếp cận từ góc độ xây dựng và kiến trúc có các công trình nghiên cứu
như : Nhà cửa các dân tộc ở trung du Bắc Bộ Việt Nam (1978); Các dân tộc
Tày Nùng ở Việt Nam (Nxb Khoa học xã hội, 1992); Nhà sàn truyền thống
của người Tày ở Đông Bắc Việt Nam (Nxb Khoa học xã hội, 2004); Nhà ở
cổ truyền các dân tộc Việt Nam (Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, Đại học
Kiến Trúc- Hà Nội, 1994).
Đi sâu vào lĩnh vực tín ngưỡng của người Tày cũng đã được đề cập trực
tiếp hay gián tiếp trong các công trình khác như: Các dân tộc thiểu số ở Tuyên
Quang ( Ban Dân tộc tỉnh Tuyên Quang, 1973); Các dân tộc ở Bắc Kạn ( Nxb
4
Thế Giới, 2003); Một số bài viết về người Tày và tín ngưỡng người Tày in
trong Các công trình nghiên cứu của Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam ( tập I,
II, III và V) do Nxb Khoa học xã hội ấn hành từ năm 1999 đến 2005. Đề tài
nghiên cứu khoa học cấp bộ, chủ nhiệm đề tài TS. Nguyễn Thị Yên: “Hiện
trạng và vai trò của các sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng trong đời sống của
người Tày, Nùng các tỉnh miền núi Đông Bắc Việt Nam”. Đề tài đã sưu tầm
nghiên cứu một cách có hệ thống các vấn đề liên quan đến tín ngưỡng, tôn
giáo của người Tày, Nùng làm cơ sở cho việc điều tra, khảo sát thực tế sinh
hoạt văn hóa tín ngưỡng của nhóm dân tộc này, vai trò và tác động của nó
trong cuộc sống xã hội hiện tại, từ đó đưa ra các kiến nghị, giải pháp cho công
tác xây dựng đời sống văn hóa tinh thần của người Tày, Nùng ở miền núi
Đông Bắc Việt Nam. Đề cập sâu hơn tác giả Nguyễn Thị Yên trong cuốn “Tín
ngưỡng dân gian Tày, Nùng” Nxb Khoa học xã hội, năm 2009. Tác giả đã
tiến hành khảo sát hiện trạng đời sống sinh hoạt tín ngưỡng của đồng bào Tày,
Nùng ở một số địa phương và nêu ra vai trò của tín ngưỡng trong đời sống
tinh thần của đồng bào. Ngoài ra cuốn sách cũng chỉ ra xu hướng biến đổi của
các hình thức tín ngưỡng của người Tày, Nùng dưới tác động của cuộc sống
hiện đại. Ngoài ra cần phải chú ý đến nhóm công trình tiếp cận từ góc độ triết
học, triết học văn hóa, triết học giá trị, triết học tôn giáo đã xác lập cho chúng
tôi những vấn đề lý luận nền tảng rất quan trọng về mặt lý thuyết tổng quát,
dựa vào đó mà công trình nghiên cứu của chúng tôi vận dụng vào nghiên cứu
thực trạng tín ngưỡng thờ cúng và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở Lục Yên Yên Bái trong điều kiện hiện nay và phân tích chỉ ra các mặt có giá trị cũng
như các mặt lạc hậu, bất cập trong đó có các công trình nghiên cứu như:
Lương Việt Hải, “ Văn hóa, triết lý và triết học”, Tạp chí Triết học (số
10/2008); Nguyễn Huy Hoàng, Triết học- văn hóa giá trị và con người ( Viện
Văn hóa & Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà nội, 2003); Lê Ngọc Trà, Văn hóa
Việt Nam đặc trưng và tiếp cận, ( Nxb Giáo dục Hà Nội, 2002); Phan Ngọc,
5
Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận mới, (Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội,
2003)….
Ngoài ra trong công trình nghiên cứu của PGS.TS Trần Đăng Sinh “Những
khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt ở đồng
bằng bắc bộ hiện nay” (Nxb Chính trị quốc gia, 2010), cũng được trình bày rất
rõ nét tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt trên phương diện triết học.
Bên cạnh đó, còn nhiều bài viết, công trình nghiên cứu khác đã được
công bố trên các báo, tạp chí như: Tạp chí triết học, Tạp chí dân tộc học, Tạp
chí nghiên cứu tôn giáo…cũng đề cập dưới nhiều góc độ khác nhau về tín
ngưỡng, tôn giáo nói chung và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Tày nói
riêng mà danh mục đã thống kê.
Nhìn chung, kế thừa từ những công trình nghiên cứu khoa học trên chúng tôi
đã khái quát, tổng kết mang lại cái nhìn tổng quan về dân tộc Tày từ những giá trị
vật chất đến tinh thần. Các công trình trước đó đã khái quát bức tranh văn hóa, tín
ngưỡng đậm đà bản sắc dân tộc Tày đây là nguồn tư liệu bổ ích để cho những
người sau đi sâu vào nghiên cứu tín ngưỡng người Tày ở Lục Yên – Yên Bái.
Trên cơ sở tiếp thu, kế thừa có chọn lọc thành quả của các nhà khoa học
cùng với việc tìm tòi khảo sát thực địa của bản thân trong điều kiện cụ thể, tác
giả đã mạnh dạn chọn đề tài “Tín ngưỡng thờ cúng của người Tày ở Lục
Yên-Yên Bái” làm luận văn thạc sĩ triết học.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1.Mục đích
Mục đích của luận văn là tìm hiểu đặc điểm, thực trạng, vai trò, xu
hướng biến đổi của tín ngưỡng thờ cúng và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của
người Tày ở địa bàn huyện Lục Yên-Yên Bái hiện nay, từ đó đề xuất một số
giải pháp cơ bản nhằm phát huy mặt tích cực và hạn chế tiêu cực trong tín
ngưỡng thờ cúng của người Tày ở Lục Yên- Yên Bái
3.2. Nhiệm vụ
6
Để thực hiện được mục đích trên, Luận văn tiếp cận từ góc độ triết học
hướng vào giải quyết các nhiệm vụ cụ thể sau:
Một là, làm rõ các điều kiện, tiền đề của tín ngưỡng thờ cúng và tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Tày, chỉ ra đặc điểm bản, sắc văn hóa đặc
trưng của người Tày ở Lục Yên-Yên Bái.
Hai là, khảo sát thực trạng sinh hoạt tín ngưỡng thờ cúng, chỉ rõ các giá
trị bản sắc văn hóa dân tộc Tày hiện nay và chỉ ra các xu hướng phát triển tín
ngưỡng thờ cúng của người Tày ở Lục Yên- Yên Bái
Ba là, đề xuất các giải pháp nhằm giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa
của người Tày ở Lục Yên-Yên Bái trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tín ngưỡng thờ cúng và tín ngưỡng
thờ cúng tổ tiên của người Tày.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những đặc điểm, thực trạng và xu hướng
vận động của tín ngưỡng thờ cúng, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, đặc trưng cơ bản
tạo nên bản sắc văn hóa độc đáo của người Tày ở Lục Yên-Yên Bá, nhằm
gìn giữ và phát huy nó trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
mở cửa và hội nhập hiện nay.
5. Cơ sở lí luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lí luận
Luận văn được thực hiện dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin;
Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc; đường lối, chính sách dân tộc, tôn giáo đối
với các dân tộc thiểu số của Đảng và Nhà nước.
5.2 Phương pháp nghiên cứu
7
Luận văn chủ yếu sử dụng các phương pháp: phân tích, so sánh, tổng hợp;
trừu tượng hóa; kết hợp giữa lịch sử và logic. Ngoài ra còn sử dụng phương pháp
nghiên cứu liên nghành triết học - văn hóa, triết học - tôn giáo, thống kê số liệu
nhằm đạt được mục đích mà đề tài đặt ra.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn phân tích từ góc độ triết học tín ngưỡng thờ cúng và tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Tày ở Lục Yên; Đánh giá được thực trạng
giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa ấy và đưa ra các giải pháp nhằm giữ gìn
và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Tày ở huyện Lục Yên- Yên Bái hiện nay.
7. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận văn
7.1 Ý nghĩa lí luận
Luận văn góp phần lý giải nguồn gốc, cơ sở hình thành, thực trạng và
các giá trị văn hóa của người Tày trong cộng đồng các dân tộc Yên Bái nói
riêng và cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam nói chung. Đồng thời luận văn góp
phần nhận diện các xu hướng biến đổi của tín ngưỡng thờ cúng. Từ đó định
hướng đúng đắn nhằm phát huy các giá trị tích cực, các xu hướng vận động
trong tín ngưỡng thờ cúng và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở Lục Yên-Yên Bái
hiện nay.
7.2 Ý nghĩa thực tiễn
Do vậy luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu
giảng dạy các môn học tôn giáo học, dân tộc học, văn học địa phương, triết
học, tôn giáo các dân tộc Việt Nam. Góp phần xác định các giải pháp nhằm
giữ gìn và phát huy tốt hơn bản sắc văn hóa dân tộc Tày tại Yên Bái.
8. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, Luận
văn gồm có 2 chương và 5 tiết
8
Chƣơng 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÍN NGƢỠNG THỜ CÚNG VÀ TÍN
NGƢỠNG THỜ CÚNG TỔ TIÊN CỦA NGƢỜI TÀY Ở
LỤC YÊN - YÊN BÁI
1.1. Điều kiện hình thành tín ngƣỡng thờ cúng, tín ngƣỡng thờ cúng
tổ tiên của ngƣời Tày ở Lục Yên.
1.1.1 Lịch sử hình thành huyện Lục Yên
Lục Yên là một đơn vị hành chính cấp huyện trên địa bàn tỉnh Yên Bái
hiện nay. Trước đây, đầu thế kỉ XIX thuộc về Hưng Hoá và Tuyên Quang.
Vào năm 1910, Lục Yên được sáp nhập vào Yên Bái trở thành một trong 4
huyện và một châu, khi đó có 6 tổng.
Sau ngày hòa bình 1954 khi thành lập 2 huyện mới là Bảo Yên và Văn
Yên theo Quyết định số 117/CP ngày 16/12/1964 của Hội đồng Chính phủ,
14 xã của Lục Yên được cắt về huyện Bảo Yên. Giai đoạn 1965 - 1975 theo
Quyết định điều chỉnh các đơn vị cấp xã của Bộ trưởng Nội vụ số 21/NV ra
ngày 28/1/1967, cắt 2 xã An Phú và Phú Mỹ của huyện Yên Bình sáp nhập về
huyện Lục Yên. Sau đó theo Quyết định số 23/NV tại huyện Lục Yên, giải thể
các xã Quyết Thắng, Tân Thành, Trần Phú, Hợp Thành và Đồng Tâm, điều
chỉnh các xóm giải thể về các xã Tân Lập, Hồng Quang, Tô Mậu, Phúc Lợi,
Tân Lĩnh. Tiếp theo là sự biến động về địa giới hành chính mới quyết định
của Hội đồng Chính phủ thành lập thị trấn huyện lỵ Lục Yên.
Tại kỳ họp thứ IX, Quốc hội khoá VIII ngày 12/8/1991 quyết định chia
tỉnh Hoàng Liên Sơn thành hai tỉnh Lào Cai và Yên Bái. Trong đó tỉnh Yên
Bái được tái lập bao gồm 8 đơn vị hành chính là thị xã tỉnh lỵ Yên Bái và 7
huyện: Mù Cang Chải, Trạm Tấu, Văn Chấn, Yên Bình, Trấn Yên, Văn Yên,
Lục Yên. Huyện Lục Yên nằm ở. Đông Bắc tỉnh Yên Bái, phía Bắc giáp với
huyện Bắc Quang (Hà Giang), phía Tây giáp huyện Văn Yên tỉnh Yên Bái,
9
phía Nam giáp Hồ Thác Bà của huyện Yên Bình, phía Đông giáp huyện Hàm
Yên (Tuyên Quang). Huyện Lục Yên có huyện lỵ là thị trấn Yên Thế, nằm
cách quốc lộ 70 khoảng 17 km về hướng đông và cách thành phố Yên Bái
90km về hướng bắc. Huyện có diện tích tự nhiên là 80.919,03ha, gồm 24 đơn
vị hành chính cấp xã, thị trấn.
HUYỆN LỤC YÊN
Bản đồ hành chính huyện Lục Yên – Yên Bái
10
1.1.2 Đặc điểm tự nhiên
Vị trí địa lý: Lục Yên là một huyện miền núi, nằm ở phía Đông Bắc của tỉnh
Yên Bái.Với vị trí nằm sâu trong nội địa, nhưng Lục Yên là của ngõ Đông Bắc
của tỉnh Yên Bái nối liền với các của khẩu của tỉnh Lào Cai, Hà Giang.
Địa hình: Là một huyện miền núi, có địa hình chia cắt bởi các dãy núi
chạy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, tạo ra các thung lũng và bồn địa bằng
phẳng. Nơi đây là địa bản sản xuất và sinh sống lâu đời của nhân dân các dân
tộc ít người chung sống với người Kinh.
Khí hậu: Huyện Lục Yên nằm trong đới khí hậu nhiệt đới gió mùa,
nhiệt độ trung bình 22ºC đến 24ºC, nhiệt độ cao nhất 39ºC đến 41ºC. Lượng
mưa trung bình hàng năm tương đối lớn từ 1500 đến 2500mm, tập trung từ
tháng 5 đến tháng 10.
Thủy văn: Huyện nằm ở thượng lưu hồ Thác Bà và có sông Chảy chảy
qua địa bàn có độ dài 65km cùng với đó với nhiều hệ sông suối nhỏ khác tạo
nên điều kiện đi lại để nhân dân các dân tộc phát triển kinh tế.
Thổ nhưỡng: Trong quá trình hình thành thì đất ở Lục Yên chủ yếu là Faralit
trong đó đất nông nghiệp có diện tích trên 15% tổng diện tích tự nhiên.
Khoáng sản: Trên địa bàn huyện có nhiều khoáng sản trong đó nổi bật
gồm có: Than nâu, đá ốp lát, đá quý, vàng, phốt pho rít, quặng sắt…
1.1.3 Truyền thống lịch sử văn hóa
Những dấu tích văn hóa cổ ở Lục Yên
Di chỉ Hang Hùm: Dấu vết cổ xưa nhất về người Việt cổ ở Lục Yên,
là một trong nhiều hang của dãy núi Chùa thuộc xã Tân Lập huyện Lục
Yên. Đây là nơi có di tích của người cổ đại (hiện nay đã bị ngập nước do
hồ thủy điện Thác Bà). Tại đây năm 1964 các chuyên gia khảo cổ học
người Đức và Viện khảo cổ học Việt Nam phát hiện hàng trăm hóa thạch
của những động vật sống Kỷ Cảnh Tân cùng 4 răng của người vượn niên
đại 14,8 vạn năm trước.
11
Nền văn hóa Sơn Vi
Tại Lục Yên những di tích của nền văn hóa Sơn Vi đầu tiên được phát
hiện vào năm 1980 cho đến nay đã có 6 địa điểm trong đó đáng lưu ý nhất là
điểm Làng Mủng của khu Đền Đại Cại (đều thuộc xã Tân Lĩnh) đây là nơi đã
tìm thấy những công cụ bằng đá cuội không có dấu vết gia công hoặc được
ghè đẽo thô sơ nhưng có dấu vết sử dụng, niên đại cách ngày nay trên dưới 1
vạn năm.
Di chỉ thời đồ đồng, đồ sắt
Đây là thời đại của văn hóa Đông Sơn cách đây trên dưới 2000 năm,
hiện vật tiêu biểu được phát hiện là Trống Đồng làng Vặc (xã Minh Xuân),
Rìu, Giáo đồng ở Khau Xẻn (xã An Phú) hiện đang được lưu giữ ở Bảo tàng
tỉnh, mũi tên đồng ở Hang São (xã Tân Lập).
Dấu tích Văn hóa-Lịch sử thời phong kiến
Di tích trong thời kỳ phong kiến tự chủ nét nổi bật ở Lục Yên là những
dấu tích thời Trần. Trong đó 2 quần thể di tích quan trọng nhất là chùa
Tháp Hắc Y và chùa Hang ở làng Úc xã Tân Lập; còn lại là hàng chục các địa
điểm di tích thuộc thời nhà Trần, Lê, Nguyễn đã được phát hiện ở nhiều nơi
trong huyện. Những di vật thu được ở đây thường là đồ sứ bao gồm các loại
bình, lọ, bát, đĩa… Đáng chú ý là hai con voi sứ thời Trần được tìm thấy ở
Làng Nong (Động Quan) và Lâm Thượng. Một di tích lịch sử khảo cổ học
quan trọng không chỉ đối với tỉnh Yên Bái mà còn đối với cả nước đó là quần
thể di tích miếu Hắc Ý đền Đại Cại, đình Bến Lăn, núi Thần Áo Đen, tại đây
đã tìm thấy rất nhiều di vật nung được trang trí văn hóa rất cầu kỳ, tinh xảo
thuộc văn hóa thời nhà Trần. Đây là cấu kiện của một tháp đất nung dấu tích
của một công trình kiến trúc thời nhà Trần, có niên đại khoảng thế kỷ XIII
đầu thế kỷ XIV. Đây là một tháp đất nung độc đáo có quy mô và kích thước
to lớn đầu tiên tìm thấy ở Việt Nam. Tại di tích đình Bến Lăn các nhà khảo cổ
cũng tìm thấy một số tảng đá kê chân cột chạm hoa sen cùng nhiều vết tích
12
gạch ngói, mảnh tháp nung chạm khắc hoa văn tinh xảo thuộc thời Trần. Di
tích lịch sử miếu Hắc Y-Đền Đại Cại đã được Bộ Văn hóa Thông tin công
nhận di tích lịch sử văn hóa khảo cổ học cấp quốc gia (ngày 12/7/2001).
Di tích lịch sử thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ:
Khu di tích Cổ Văn-Mường Lai là cơ sở căn cứ cách mạng đầu tiên ở
Lục Yên đã lớn mạnh không ngừng, là xuất phát điểm cho lực lượng cách
mạng phát triển đi khắp nơi trong khu vực, ngày 08/7/1945 cuộc vận động
giành chính quyền về tay cách mạng giành thắng lợi, người dân Lục Yên
bừng bừng khí thế xây dựng củng cố chính quyền cách mạng, quyết tâm bảo
vệ quê hương đất nước kháng chiến chống thực dân Pháp.
1.2. Các tộc ngƣời ở Lục Yên
1.2.1 Khái quát về các tộc ở Lục Yên
Dân số của huyện Lục Yên là 109.309 người (2015). Toàn huyện có 18
dân tộc anh em cùng chung sống gồm: Kinh, Tày, Nùng, Dao, Mường, Thái,
Cao Lan, Giáy, Ngái, H’Mông... Theo số liệu của huyện Lục Yên năm 2015
người Tày có số dân 56.882 người chiếm 52%, Kinh chiếm 21,1%, Dao
chiếm 14,5%, Nùng chiếm 10,4%, còn lại là các dân tộc khác.
Đặc điểm phân bố dân cư ở Lục Yên không có lãnh thổ tộc người nhất
định mà các tộc người phân bố xen kẽ với nhau. Tuy vậy mỗi dân tộc đều có
vùng quần tụ đông đảo của mình,tại đây dân số dân tộc đó cao hơn các dân
tộc khác. Tiêu biểu như Người Dao ở Khai Trung, Tân Phượng, Tân Lĩnh;
Người Tày ở Mường Lai, Minh Xuân, Lâm Thượng, Minh Chuẩn; Người
Nùng ở Tân Lĩnh, Phan Thanh, Tân Lập.
Các dân tộc cư trú ở những độ cao khác nhau nên phân thành vùng cao,
vùng thấp và rẻo giữa. Nhà ở, tập quán sản xuất, đời sống văn hóa của mỗi tộc
người có những đặc thù riêng biệt. Người Tày phân bố tại vùng thấp và rẻo
giữa, gần thung lũng các con suối. Kiến trúc nhà sàn và cách thức trồng lúa
nước là đặc trưng cơ bản của người Tày nơi đây.
13
Cùng sinh sống lâu đời trên mảnh đất Lục Yên các dân tộc anh em luôn
giữ mối quan hệ truyền thống đoàn kết, thân ái, luôn giúp đỡ nhau trong lao
động sản xuất, phòng chống thiên tai và chống giặc ngoại xâm. Với số lượng
đông đảo nhất trong số các dân tộc trên địa bàn, người Tày hiện nay đang đi
đầu trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng đời sống văn hóa
tại dân cư, góp phần không nhỏ vào sự phát triển của huyện.
1.2.2. Về tộc Người Tày ở Lục Yên
Người Tày tại Lục Yên có số dân đông nhất và cư trú ở vùng giữa khá
ổn định, có nhiều đóng góp cho phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Bên cạnh đó người Tày ở Lục Yên cũng xây dựng cho mình tại đây một
không gian truyền thống văn hóa vô cùng đặc sắc, đóng góp vào bản sắc văn
hóa chung của huyện Lục Yên.
Nhìn chung kinh tế chính của người Tày ở Lục Yên là nền kinh tế nông
nghiệp, đồng bào làm ruộng nước kết hợp với săn bắt, chăn nuôi và nghề thủ
công. Với truyền thống lâu đời cùng với sự cần cù, sáng tạo trong lao động và
tiếp thu khoa học kỹ thuật mới rất nhanh nên nông nghiệp lúa nước của người
Tày phát triển tương đối cao. Cùng với việc thâm canh tốt hai vụ lúa, đưa
giống mới vào sản xuất, tăng vụ ngô đông, đồng bào Tày phát triển mạnh
chăn nuôi gia súc, gia cầm; tích cực phát triển nghề thủ công truyền thống,
nghề rừng và trồng mới các loại cây công nghiệp như: chè, quế, sắn….
Nhà ở truyền thống của người Tày chủ yếu là nhà sàn, dùng vật liệu xây
dựng sẵn có ở địa phương, có khung bằng gỗ lợp bằng lá cọ hoặc cỏ giang.
Sàn được dát mai, diễn hoặc ván gỗ, cửa làm bằng phên nứa hoặc lịa bằng gỗ.
Mỗi ngôi nhà được làm kỳ công, tinh xảo có từ ba đến năm gian, hai chái. Có
những vùng đời sống nhân dân khá giả còn làm thêm cả nhà bếp Slườn giảo,
gồm hai gian nối vuông góc với gian trong (gian để phụ nữ ở), kích thước các
gian cửa nhà bếp tỷ lệ bằng 2/3 gian trong nhà chính và gầm sàn cao cách mặt
đất dùng để buộc trâu, ngựa, chuồng gà. Ngày nay do thực hiện nếp sống mới
14
ở cơ sở, nhân dân đã bỏ được tục nhốt chung gia xúc dưới gầm sàn này. Trên
sàn nhà chính, gian trung tâm thường là gian giữa, nếu số gian nhà là lẻ. Nếu
nhà số gian chẵn thường chọn gian trung tâm là gian thứ hai kể từ cầu thang
ngoài vào. Cầu thang ngoài được quy định làm cầu thang chính. Ở giữa gian
chỉ đặt bếp, ngọn lửa được duy trì thường xuyên, dùng để sưởi về mùa đông
và đun nước uống, ít khi nấu nướng ở đây. Các nghi lễ tôn giáo khác liên
quan đến lửa đều diễn ra ở bếp này. Những đêm đông trời lạnh, quần tụ xung
quanh bếp lửa hồng, cả gia đình người Tày nhiều thế hệ cùng thảo luận việc
đồng áng, trẻ em nghe người già kể chuyện cổ tích, những lời dạy bảo...tạo
nên một lối sống lành mạnh giữ tình thân ái, gắn bó.
Đồng bào Tày ở Lục Yên - Yên Bái có phong cách sống sôi nổi, mạnh
mẽ, lãng mạn. Những dịp tết Nguyên đán, lễ hội Lồng Tồng, lễ cưới của bạn
bè, họ có tục lệ hát giao duyên. Những bài Khắp cọi (Iếu) được duy trì từ đời
này sang đời khác.
Trang phục truyền thống của người Tày ở Lục Yên chủ yếu được đồng
bào tự làm, may bằng vải bông nhuộm chàm đen cho cả nam, nữ và trẻ em, ít
hoặc không trang trí hoa văn. Phụ nữ Tày mặc áo năm thân có thắt lưng bằng vải
chàm gấp lại buộc phía sau, đi đôi với váy trong dịp cưới, ngày lễ và tết. Ngày
thường mặc áo ngắn với váy hoặc quần, áo ngắn may không cổ kiểu giống áo bà
ba. Đàn ông mặc áo tứ thân cổ tròn, khuy vải hoặc cúc và quần lá tọa, y phục
này người lớn tuổi thường dùng. Thanh thiếu niên hiện nay ăn mặc như người
Kinh. Phụ nữ thường đội khăn nhuộm chàm, khăn vuông gấp chéo, có hai dải
vải đỏ nhỏ buộc về phía trước trán, đuôi khăn lật về phía sau. Đàn ông chỉ đội
khăn xếp vào dịp lễ tết, đặc biệt là lễ đón dâu, hoặc đi ở rể. Đồ trang sức chủ yếu
dùng chất liệu bằng bạc như: vòng cổ của trẻ con, vòng tay của phụ nữ, dây xà
tích...Ngày nay nghề trồng bông, dệt vải, nhuộm chàm bị mai một chỉ còn lác
đác ở một số hộ gia đình, quần áo truyền thống chỉ còn thấy ở những người lớn
tuổi hoặc các cụ già mặc trong các dịp lễ tết, nghi thức cầu cúng…
15
Nghề thủ công truyền thống như trồng bông dệt vải đã phát triển từ rất
sớm, nghề nuôi tằm để lấy tơ dệt dây dao cũng có mặt trong văn hoá của
người Tày nơi đây từ lâu. Hoa văn dệt trên vải thổ cẩm phong phú, đa dạng,
riêng hoa văn trên dây dao gồm hai mươi bảy hình tượng, mỗi hình gắn với
một truyện dân gian có nội dung giáo dục tình người sâu sắc. Nghề làm giấy
dó, nghề đan lát, nghề mộc, nghề rèn, nghề đục đá phát triển khá cao.
Điểm chú ý là do địa bàn cư trú sâu trong nội địa ở xen cư, cộng cư lâu
đời trong quá trình giao lưu văn hoá Kinh -Tày, Hán-Tày, có ảnh hưởng qua
lại đậm nét về văn hóa, nhiều cốt truyện dân gian đã được chuyển thể sang
Nôm Tày như Tống Trân Cúc Hoa, Phạm Tải Ngọc Hoa... đồng thời, người
Tày đã sáng tạo ra những kiệt tác văn học truyện dài như Khảm Hải (Vượt
biển), nhiều bài khắp cọi, Phongslư, Pụt, hát quan làng (Hát đón dâu) có nội
dung phong phú và giá trị nhân văn sâu sắc. Các phong tục, tập quán, nghi lễ
trong tín ngưỡng thờ cúng và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Tày ở
Lục Yên chịu sự hấp thụ qua lại với cộng đồng dân tộc khác ở một mức độ
đậm nhạt nhất định.
Về cấu trúc gia đình: Quan hệ gia đình của cộng đồng người Tày ở Lục
Yên thuộc loại gia đình nhỏ phụ hệ có từ hai thế hệ trở lên cùng sinh sống, tuy
nhiên cũng có gia đình từ ba đến bốn thế hệ cùng sinh sống gồm ông bà, cha
mẹ, con cháu.Trong gia đình thì người chồng, người bố bao giờ cũng là trụ
cột. Gia đình mang tính chất phụ quyền, người chủ gia đình có vị trí quan
trọng quyết định mọi việc lớn,hệ trọng như: thờ cúng, làm nhà, cưới hỏi, tang
ma…Chỉ có gia đình nào mà người đàn ông không còn nữa thì người phụ nữ
mới đứng ra quán xuyến việc gia đình. Tuy vậy, khi gia đình có công to việc
lớn họ đều phải tham khảo ý kiến những người cao tuổi và có vị thế trong
dòng họ. Hình thức kết bạn (Hắt tồng) của người Tày rất phổ biến, những
người bạn trai, bạn gái hợp nhau về tính nết cùng trang lứa, mang lễ vật một
con gà thiến, một chai rượu đến nhà nhau, xin bố mẹ hai bên cho kết tồng (kết
16
bạn) nếu bố mẹ đồng ý thì họ coi nhau như anh em ruột thịt luôn hỗ trợ giúp
đỡ nhau trong mọi việc. Hội nghề nghiệp cũng có từ lâu đời với tên gọi là
phường, hát phường, như phường săn bắn, phường dệt, các tổ chức này
không cần cùng trang lứa, nhưng thường gần nhau về địa bàn cư trú, sở thích
về công việc đang tiến hành tương trợ nhau, thủ tục kết nạp giản đơn, chỉ xin
trưởng phường bằng lời không cần lễ lạt, sản phẩm được chia theo công sức
của mình đóng góp.
Hôn nhân của người Tày được tiến hành qua nhiều bước với các nghi
thức độc đáo và đặc sắc, nhiều hình thức sinh hoạt văn hoá truyền thống được
thực hiện trong đám cưới truyền thống mà trong đó hát quan làng (hát trong
đám cưới của ông mối) là một trong những nghi thức sinh hoạt đặc sắc nhất
vẫn còn được lưu giữ cho tới ngày nay. Lễ cưới truyền thống từ khi làm quen
được với nhau sẽ trải qua các giai đoạn chủ yếu; đầu tiên thưa chuyện với gia
đình, thông qua bước trung gian là Quan làng (ông mối) xem ngày qua thầy
cúng lễ Slicay (lễ bốn gà), lễ cưới, lễ lại mặt, tết quan làng. Các bước này tiến
hành hàng năm trời, có khi kéo dài đến ba năm.
Nền mỹ thuật đặc sắc của người Tày Yên Bái từ ngàn xưa nay được bảo
lưu trên sản phẩm đan lát, thổ cẩm như hoạ tiết trên màn che Phứn mản, mặt
gối mon thu, mặt địu, dây dao, y phục thầy cúng, y phục Pụt. Đặc biệt là bộ
tranh thờ của thầy cúng từ 7 đến 12 tờ với những hình tượng người, quỷ, con
vật sinh động thuộc về thế giới tâm linh.
Bộ nhạc cụ của người Tày gồm sáo, nhị, đàn tính, não bạt, trống, kèn,
quả nhạc, chùm nhạc... Trong đó hai nhạc cụ là đàn tính và chùm nhạc là hai
nhạc cụ quan trọng hơn cả được người dân sử dụng khá phổ biến trong các
nghi thức lễ hội.
Văn hóa ẩm thực của người Tày thường ngày giản đơn, được chế biến
từ gạo, sắn, khoai, măng, rau, cá, rau rừng, rong suối… Những ngày lễ tết
được chế biến cầu kỳ hơn. Những món cơm lam, măng nhồi nhân thịt,
17
- Xem thêm -