Đăng ký Đăng nhập

Tài liệu Tài liệu tổng hợp rừng xà nu

.PDF
12
496
79

Mô tả:

RỪNG XÀ NU Nguyễn Trung Thành 1. Ý nghĩa văn bản: (các bạn nên nhớ đủ ý để vận dụng vào phần mở và kết bài nhé, nhiều bạn đôi khi chủ quan lại không đáp ứng đủ yêu cầu của bài viết do thiếu những ý này) Ngợi ca tinh thần bất khuất, sức mạnh quật khởi của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên nói riêng, đất nước và con người Việt Nam nói chung trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và khẳng định chân lí của thời đại: để giữ gìn sự sống của đất nước và nhân dân, không có cách nào khác là phải cùng nhau đứng lên cầm vũ khí chống lại kẻ thù. 2. Ý nghĩa nhan đề truyện ngắn “Rừng xà nu”. Nhà văn có thể đặt tên cho tác phẩm là “Làng Xô-man” hay “Tnú”- nhân vật chính của truyện nhưng nếu như vậy truyện sẽ mất đi tính khái quát và gợi mở. “Rừng xà nu”- Tên tác phẩm chứa đựng được cảm xúc của nhà văn và linh hồn tư tưởng chủ đề của tác phẩm. “Rừng xà nu” gợi khí vị khó quên của núi rừng Tây Nguyên- Sức sống bất diệt của cây và tinh thần bất khuất của con người. Như vậy, nhan đề “Rừng xà nu” vừa mang ý nghĩa thực (những đặc điểm và sức sống bất diệt của loài cây xà nu) vừa mang ý nghĩa tượng trưng (con người làng Xô Man kiên cường, bất khuất). Hai ý nghĩa này hòa quyện vừa làm nổi bật hình tượng sinh động của cây xà nu vừa đưa lại không khí Tây nguyên đậm đà cho tác phẩm. (các bạn chú ý vấn đề này có thể được ra trong phần tái hiện kiến thức nhé, dựa trên sườn ý trên mà mọi người thêu dệt thêm các ý vào. Ngoài ra, để bài viết thêm phần thuyết phục, sau phần mở bài hoặc gần đến kết bài, tùy cách mà bạn viết, trong các đề dài liên quan đến "Rừng xà nu", các bạn có thể nêu vài ý này) 3. Đề tham khảo: Đề 1: Phân tích ý nghĩa hình tượng cây xà nu, rừng xà nu trong truyện ngắn “Rừng xà nu”. (Ý nghĩa tượng trưng: cây xà nu có sức chịu đựng ghê gớm và sức sống mãnh liệt tượng trưng cho sức sống của dân làng Xô Man và nhân dân Tây nguyên bất khuất; cây xà nu ham ánh nắng mặt trời, phóng lên rất nhanh…. Tượng trưng cho lòng khát khao tự do, luôn hướng về cuộc sống tự do của người dân làng Xô Man). * Tham khảo : Đây là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của nhà văn. Hình tượng cây xà nu - rừng xà nu nổi bật, xuyên suốt tác phẩm, vừa mang ý nghĩa thực, vừa mang ý nghĩa tượng trưng. + Cây xà nu được miêu tả cụ thể, gắn bó với con người Tây Nguyên: - Cây xà nu hiện lên trong tác phẩm trước hết như một loài cây đặc thù, tiêu biểu của miền đất Tây Nguyên. Mở đầu và kết thúc tác phẩm cũng bằng hình ảnh của cây xà nu à Cây xà nu, rừng xà nu như chính dân làng Xôman, như người dân Tây Nguyên nơi núi rừng trùng điệp. - Cây xà nu gắn bó thân thiết với cuộc sống người dân Tây Nguyên trong sinh hoạt hàng ngày, trong kí ức của người Xô man, trong đấu tranh chống giặc; là lá chắn bảo vệ làng Xô man trước đạn pháo giặc. . + Cây xà nu tượng trưng cho phẩm chất và số phận con người Tây Nguyên trong kháng chiến chống Mỹ. - Thương tích mà rừng xà nu phải gánh chịu do đại bác của kẻ thù gợi nghĩ đến những mất mát đau thương mà đồng bào Xôman đã phải trải qua trong thời kì cách mạng miền Nam bị khủng bố khốc liệt. . - Trong bom đạn chiến tranh, thương tích đầy mình cây xà nu vẫn hiên ngang vươn lên mạnh mẽ như người dân Tây Nguyên kiên cường bất khuất, không khuất phục trước kẻ thù. . - Cây xà nu rắn rỏi, ham ánh nắng mặt trời tựa như người Xô man chân thật, mộc mạc, phóng khoáng yêu cuộc sống tự do. - Rừng xà nu bạt ngàn, rừng xà nu trùng trùng lớp lớp các thế hệ nối tiếp cũng chính là thể hiện sự gắn bó, sức mạnh đoàn kết và sự nối tiếp bất tận của các thế hệ, gợi liên tưởng đến sức sống vô tận, bền bỉ, bất diệt của con người Xô man (Chú ý kết cấu vòng tròn : Mở đầu, kết thúc là hình ảnh của rừng xà nu, cùng với sự trở về của Tnú sau ba năm xa cách) - Rừng xà nu tạo thành một bức tường vững chắc hiên ngang truớc bom đạn cũng là biểu trưng cho sức mạnh đoàn kết của người dân Tây Nguyên khiến kẻ thù phải kiếp sợ. (0,5 điểm) + Kết luận: - Cây xà nu tượng trưng cho số phận đau thương và phẩm chất anh hùng của dân làng Xô man nói riêng và nhân dân Tây Nguyên nói chung trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. - Được xây dựng với cảm hứng sử thi hoành tráng, bút pháp lãng mạn. - Kết tinh giá trị tư tưởng và nghệ thuật của tác phẩm. Đề 2: Phân tích nghệ thuật xây dựng nhân vật trong thiên truyện “Rừng xà nu”. * Gợi ý làm bài: Chú ý đề yêu cầu phân tích nghệ thuật xây dựng nhân vật chứ không yêu cầu phân tích một nhân vật cụ thể nào. Vì thế khi viết bài cần chỉ ra hệ thống nhân vật trong truyện có đặc điểm gì? Hệ thống nhân vật ấy có ý nghĩa gì trong việc thực hiện chủ đề tư tưởng? Hoặc phân tích dụng ý của nhà văn trong việc xây dựng một hệ thống nhân vật như thế. Nhân vật chia làm hai loại: - Chính diện: người dân làng Xô Man và cán bộ cách mạng bao gồm: Cụ Mết, Tnú, Mai, Dít, anh Quyết, bé Heng, anh Brôi. - Phản diện: bọn giặc mà tiêu biểu nhất là thằng Dục. Cách xây dựng nhân vật như thế có hai ý nghĩa: - Một là: tạo nên thế tương phản đối chọi giữa hai tuyến nhân vật như hai lực lượng tiêu biểu cho chính nghĩa và phi nghĩa, sự tàn bạo và lòng nhân ái, sự hủy diệt và sự sống bất diệt - Hai là: Lớp nhân vật chính diện rất nhiều thế hệ, sát cánh bên nhau, nối tiếp nhau hết lớp này đến lớp khác tương ứng với hình ảnh rừng xà nu trùng trùng điệp điệp tràn đầy sức sống… Cách xây dựng nhân vật như trên đã làm nổi bật được chủ đề tư tưởng của truyện. Nổi bật lên trong tập thể nhân vật ấy chính là nhân vật Tnú, một nhân vật độc đáo giàu chất sử thi với những phẩm chất tiêu biểu cho một dân tộc anh hùng. Đó là một con người: - Gan góc, táo bạo, trung thực, biết vượt lên mọi đau đớn và bi kịch cá nhân để quyết tâm ra đi trả thù cho quê hương và gia đình. - Có tinh thần kỉ luật cao. - Giàu lòng yêu thương đối với mọi người… Ngoài Tnú, các nhân vật chính diện khác như cụ Mết trầm ngâm, lừng lững như cây cổ thụ, tiêu biểu cho sức mạnh tinh thần và vật chất có tính truyền thống của dân tộc Tây Nguyên đến vẻ đẹp mảnh mai, hiền diệu nhưng đầy cứng rắn, kiên quyết của Dít như một hậu thân trự tiếp của Mai; bé Heng như cây xà nu mới lớn, tuy còn non trẻ nhưng đã cho người đọc thấy hình ảnh của cây xà nu vạm vỡ tràn đầy sức sống của ngày mai. Đề 3: Phân tích tính chất sử thi đậm đà trong thiên truyện “Rừng xà nu”. * Gợi ý làm bài: Trước hết cần tìm hiểu khái niệm tính sử thi trong tác phẩm văn học, sau đó phân tích cụ thể các phương diện như: đề tài, chủ đề, hệ thống nhân vật, bức tranh thiên nhiên, ngôn ngữ trần thuật… để minh họa cho tính chất sử thi đã nêu. Thiên truyện mang đậm tính sử thi điều đó thể hiện ở: - Về đề tài- chủ đề: truyện viết về cuộc đấu tranh cách mạng, vùng lên không chịu sống qùy của buông làng, nhưng nhằm ca ngợi và nêu lên sức mạnh quật khở, tinh thần và ý chí không gì dập tắt nổi của một Tây Nguyên bất khuất. - Hình tượng nhân vật ở đây cũng được hai thác và xây dựng bằng những tính cách và phẩm chất kì vĩ, mạnh mẽ. Đó là cụ Mết, sừng sững uy nghi như một cây đại thụ: Tnú và tập thể dân làng Xô Man đoàn kết một lòng, giàu dũng khí. Họ là những người tiêu biểu cho cộng đồng, sống chết vì cộng đồng dân tộc. - Bức tranh thiên nhiên ở đây cũng được mô tả thật hùng vĩ, hoành tráng. Đó là hình ảnh rừng xà nu bạt ngàn “ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho làng”, những cảnh “suốt đêm nghe cả rừng Xô Man ào ào rung động, vì lửa cháy khắp rừng…” - Ngôn ngữ “Rừng xà nu” được viết với một giọng say mê mà rất trang trọng, tạo nên chất thơ, hùng tráng, dào dạt. Đề 4: Phân tích hình tượng nhân dân làng Xô Man : Được miêu tả tương ứng với rừng cây xà nu qua nhiều thế hệ, thể hiện sự nối tiếp và trưởng thành của nhân dân Tây Nguyên trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước. a) Cụ Mết: Là thế hệ đi trước, tham gia chống giặc từ thời chống Pháp - Là cây xà nu đại thụ của làng Xô man (được miêu tả qua dáng vẻ, cách nói, bản lĩnh, tấm lòng yêu thương đối với dân làng, đối với quê hương…) à Hình ảnh biểu tượng biểu tượng cho sức mạnh tinh thần có tính truyền thống, cội nguồn của các dân tộc Tây Nguyên. - Là linh hồn của cuộc chiến đấu, là gạch nối giữa Đảng và dân làng đến với Cách mạng ; vững vàng, gan góc trong đấu tranh ; yêu thương chăm sóc thế hệ tương lai ; yêu qêu hương, tự hào về quê hương của mình…) à Cụ Mết tiêu biểu cho thế hệ già làng trong cuộc đấu tranh của dân tộc. b) Nhân vật Tnú: Được tác giả tập trung khắc họa tính cách lẫn số phận, mang ý nghĩa tiêu biểu cho số phận và con đường giải phóng của nhân dân Tây Nguyên. * Số phận: - Nhỏ: mồ côi cả cha lẫn mẹ, sống nhờ vào sự cưu mang đùm bọc của dân làng - Trưởng thành: Số phận của Tnú giống như số phận của người làng Xô man: · Có gia đình, vợ, con nhưng đều bị giặc sát hại dã man. · Bản thân Tnú cũng mang thương tích trên thân thể- hậu quả của những đòn tra tấn của kẻ thù: tấm lưng lằn ngang dọc, bàn tay cụt mười ngón. * Phẩm chất: - Là một chú bé gan góc, táo bạo, trung thực, trung thành với Cách mạng (giặc khủng bố dã man vẫn cùng Mai hăng hái vào rừng nuôi cán bộ, quyết tâm học tập để làm cán bộ, gan dạ dũng cảm khi làm giao liên, bị giặc bắt, bị tra tấn, quyết không khai, chỉ tay vào bụng Cộng sản ở đây…). Khi lớn lên, Tnú trở thành người lãnh đạo dân làng Xô man bình tĩnh vững vàng chống Mỹ Diệm. - Yêu thương vợ con, dân làng và quê hương (Chứng kiến cảnh vợ con bị kẻ thù hành hạ, biết là thất bại, anh vẫn xông ra cứu. Xa làng Tnú nhớ làng, nhớ âm thanh và nhịp điệu sinh hoạt của làng ; khi về, anh nhớ tất cả mọi người…). - Biết vượt lên mọi đau đớn và bi kịch cá nhân để dũng cảm chiến đấu, trả thù cho quê hương và gia đình (Khi xông ra cứu vợ con, anh bị bắt, bị đốt mười đầu ngón tay, Tnú quyết không kêu van à tiếng thét của anh trở thành hiệu lệnh cho dân làng giết giặc. Dù mất vợ con, dù hai bàn tay mỗi ngón chỉ còn hai đốt, Tnú vẫn nén đau thương, tham gia lực lượng vũ trang để góp phần giải phóng quê hương…). - Có tinh thần kỷ luật cao : Ba năm đi bộ đội, dù nhớ làng nhưng được phép cấp trên mới dám về thăm làng. Khi được về thăm làng, dù rất lưu luyến song anh chấp hành đúng qui định, ở lại một đêm rồi ra đi… * Tác giả đặc biệt miêu tả đôi bàn tay của Tnú, gây ấn tượng sâu sắc và đậm nét, qua đó hiện lên cả cuộc đời và tính cách nhân vật (bàn tay khi còn lành lặn là bàn tay trung thực, tình nghĩa: Cầm phấn học chữ, cầm đá mài giáo, đặt lên bụng khi bị tra tấn, cầm tay Mai; với hai bàn tay không xông ra cứu vợ con – Bàn tay bị giặc đốt cụt, trở thành muời ngọn đuốc trở thành chứng tích tội ác của kẻ thù – Bàn tay còn hai đốt vẫn cầm được súng để bảo vệ quê hương…). Tóm lại: - Tnú là nhân vật có tính chất sử thi: số phận và phẩm chất của anh tiêu biểu cho con người Xô man nói riêng và nhân dân Tây Nguyên nói chung. - Cảm hứng, giọng điệu chủ đạo là ca ngợi. - Làm phong phú thêm chân dung con người Vn anh hùng trong kháng chiến chống Mĩ. c) Dít: Cùng với Tnú là đại diện cho thế hệ thanh niên, là lực lượng chiến đấu chính của dân làng- những cây xà nu đã trưởng thành. - Phẩm chất gan dạ, dũng cảm. - Tôn trọng kỉ luật. d) Bé Heng: Đại diện cho thế hệ măng non sẵn sàng tiếp bước cha anh. Rất háo hức tham gia đánh giặc, rất thông thuộc, tự hào về trận địa của dân làng. Mai, Dít, bé Heng…là (sự dũng cảm của Mai, sự bình tĩnh, vững vàng của Dít và sự lạc quan trong sáng của bé Heng). Tóm lại: Các thế hệ nhân dân Xôman tiếp nối trong cuộc chiến đấu, càng về sau càng lớn mạnh. Nhà văn đã xây dựng được hệ thống nhân vật tiêu biểu, có tác dụng làm nổi bật chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân Tây Nguyên trong kháng chiến chống Mỹ. Đề 5: Phân tích phẩm chất anh hùng của các nhân vật trong Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành. Cụ Mết: Là cội nguồn, là lịch sử, “là Tây Nguyên của thời Đất nước đứng lên còn trường tồn cho đến hôm nay”. Cụ như một nhân vật huyền thoại từ hình dáng cho đến tính cách: quắc thước như xưa, râu dài tới ngực và vẫn đen bóng, mắt sáng xếch ngược, ở trần, ngực căng như một cây xà nu lớn. Một con người trầm tĩnh, sáng suốt, bền bỉ và vững chãi. Ngôn ngữ: cách nói của cụ cũng khác lạ (không bao giờ khen tốt, lúc vừa ý nhất cũng chỉ nói được). Tấm lòng của cụ với buôn làng, với Tnú, với cách mạng là tấm lòng thuỷ chung, cu mang đùm bọc, tình nghĩa. Cụ Mết là khuôn mẫu của ngời già Tây Nguyên, yêu buôn làng, yêu nước, yêu cách mạng, tuổi cao chí càng cao. Hình ảnh cụ còn sống mãi với câu nói bất hủ: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”. Tnú: Cuộc đời Tnú đã phải trải qua bao thử thách khốc liệt từ thuở ấu thơ. Anh đã được hoàn cảnh hun đúc thành một con người có nhiều phẩm chất đáng quý. Tnú có chữ, có văn hoá, lại sớm được giác ngộ cách mạng, một con người gan góc, trung thực.Dũng cảm, kiên cường, trung thành với cách mạng. Ngoài tình thương vợ con, Tnú còn là người nặng tình với buôn làng. Tnú cũng chịu bao đau thương dưới bàn tay tội ác của kẻ thù. Cuộc đời Tnú là một minh chứng hùng hồn rằng: “phải dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng”. Dít: Có vẻ đẹp trẻ trung, trong sáng. Gan góc, dũng cảm. Một cán bộ Đảng trẻ, có năng lực, nghiêm túc, tình cảm trong sáng, cao đẹp. Phác hoạ thành công một tập thể nhân vật anh hùng, Nguyễn Trung Thành đã làm nên thành công của Rừng xà nu. Họ là hiện thân của những phẩm chất anh hùng, đẹp đẽ của các thế hệ nhân dân, tượng trng cho các thế hệ tiếp nối nhau của dân làng Xô Man. Thông qua hệ thống nhân vật đó, tác giả đã thể hiện sinh động và nghệ thuật quy luật: có áp bức có đấu tranh, một chân lí của cách mạng miền Nam: “chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”. Đề 6 : Phân tích câu nói của cụ già Mết: “Nghe rõ chưa, các con, rõ chưa. Nhớ lấy, ghi lấy. Sau này tau chết rồi, bay còn sống phải nói lại cho con cháu: chúng nó đã cầm súng mình phải cầm giáo !” a.Ý nghĩa của câu nói: Phải cầm vũ khí của mình khi kẻ thù đã cầm vũ khí Phải sử dụng bạo lực của chính nghĩa để đáp lại bạo lực phi nghĩa của quân thù. b)Sự thể hiện qua hình tượng: Sẽ ra sao nếu kẻ thù đã cầm súng mà ta cha kịp cầm lấy giáo ? Khi đó ta vẫn có thể có lí tưởng cách mạng, chí trung kiên, lòng căm thù, sức mạnh và tinh thần dũng cảm, như Tnú đã từng có. Nhưng ta sẽ không thể bảo vệ được hạnh phúc, tình yêu. Cũng như Tnú đã không thể bảo vệ được mẹ con Mai, và bàn tay anh còn bị kẻ thù dùng nhựa xà nu thiêu cháy. Và sẽ ra sao khi ta cầm vũ khí đứng lên: Cuộc khởi nghĩa hùng tráng sẽ thắng lợi. Như làng Xô man đã chiến thắng trong tiếng chiêng vang trời và ánh lửa. Sự sống sẽ bảo tồn và phát triển. Mai và đứa con như sẽ tái sinh trong Dít và bé Heng. Kẻ thù sẽ phải đền tội ác. Tnú sẽ có thể diệt giặc - tên đồn trưởng - bằng chính bàn tay đã bị kẻ thù đốt cháy. c) Giá trị Đây là câu chuyện của một người, một làng. Nhưng đặt vào hoàn cảnh Rừng xà nu được viết ra, thì đó cũng là câu chuyện của một thời đại, một đất nước, một cuộc cách mạng. Và có thể còn lâu bền, lớn lao hơn thế nữa. Như vậy, đây là chân lí mang tầm lịch sử. Vì lẽ đó, nhà văn đã để cho nó được nói lên bằng giọng nói thiêng liêng, như để mãi mãi khắc sâu vào kí ức. Đề 7: Phân tích bài “Rừng xà nu” Nhà thơ Nguyên Ngọc (Nguyễn Trung Thành) là người có duyên với Tây Nguyên. Cả hai cuộc chống Pháp và chống Mỹ Nguyên Ngọc đã sống gắn bó với mảnh đất hùng vĩ và kiên cường này. Hai tác phẩm chính làm nên sự nghiệp văn học của Nguyên Ngọc là “Đất nước đứng lên” và “Rừng xà nu” được coi là một điểm son trong văn học Việt Nam thời chống Mỹ, là bản anh hùng ca về cuộc khởi nghĩa quật cường của đồng bào Tây Nguyên đánh Mỹ. Câu chuyện diễn ra ở làng Xôman, một góc Tây Nguyên hùng vĩ. Ở đó có những rừng xà nu bạt ngàn và người dân strá bất khuất, kiên cường hết lớp này đến lớp khác đang nối nhau cùng đánh Mỹ. Tác giả đã lựa chọn một loại cây họ thông mọc nhiều ở rừng núi Tây Nguyên gỗ và nhựa đều rất quý, có sức sống mãnh liệt và dẻo dai, rất gần gũi và thân thiết với đời sống của người Tây Nguyên để tượng trưng cho phẩm chất và sức mạnh, cho tinh thần bất khuất của dân làng Xôman nói riêng và các dân tộc Tây Nguyên nói chung. Hình ảnh cây xà nu đã tạo nên những liên tưởng bất ngờ và thú vị trong lòng người đọc. Lấy rừng xà nu làm nền cho câu chuyện, nhà văn đã tạo được một không khí rất Tây Nguyên, bởi giữa cây và người có những nét tương hợp kì lạ. Theo tác giả rừng xà nu là loại cây “hùng vĩ và cao thượng, man dại và trong sạch, vừa thanh nhã vừa rắn rỏi, tưởng như đã sống tự ngàn đời còn sống đến ngàn đời sau”. “Làng ở trong tầm đại bác…” Truyện của Nguyễn Trung Thành mở đầu là như vậy. Chỉ trong chưa đầy mười chữ mà đã dựng lên được cả một tư thế của sự sống trong sự đối diện cùng cái chết, của cái tồn sinh trong vòng đe dọa của sự hủy diệt bạo tàn, cái mở truyện thật gọn gàng, cô đúc mà vẫn đầy uy nghi, tầm vóc. Vì thế thiên nhiên trong “Rừng xà nu” cũng là một thứ thiên nhiên dưới tầm đại bác. Nó là đối tượng của sự tàn phá và hủy diệt. Nó đau đớn bởi “cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương”. Nhưng nó hào hùng ngay cả trong đau đớn “những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình”, chúng “đổ ào ào như một trận bão”. Nhưng đó chưa phải là điều quan trọng nhất. Điều quan trọng nhất ở đây vẫn là làng ở trong tầm đại bác… Và cây xà nu cũng tương tự như thế, có thể có cây có nhiều cây xà nu bị đại bác chặt đứt làm đôi. Nhưng dù có thế rừng xà nu vẫn sinh sôi, vẫn sống như chính sự tồn tại bền bỉ và kiêu hãnh của dân làng Xôman. Có loại xà nu mà đại chỉ có thể để lại trên thân thể cường tráng những vết thương chóng lành ra, tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quện thành từng cục máu lớn. Cũng có cây gục ngã. Song “cạnh một cây mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”. Bản năng tự tồn tại sự thèm khát vươn tới bầu trời và ánh sáng đã khiến rừng cây ấy chiến thắng sự tàn phá của đạn bom “nắng trong rừng rọi từ trên cao xuống từng luồng lớn thẳng tắp, lóng lánh vô số hạt bụi vàng từ nhựa cây bay ra, thơm ngỡ ngàng”. “Rừng xà nu” đó còn là kiểu ẩn dụ về chính con người, những con người sống dưới tầm đại bác. Và cũng như xà nu thân thể và trái tim họ đầy thương tích. Và cũng có đời người giống như những cây xà nu nào đó bị cái chết chặt đứt ngang giữa đời xuân. Song con người Xôman, con người Tây Nguyên, con người Việt Nam trong những ngày đánh giặc vẫn sống, bền bỉ, kiêu hùng, đầy khao khát trong niềm ham muốn mãnh liệt ánh sáng mặt trời, trong tư thế phóng lên để tiếp lấy nguồn sống trong ánh nắng. Khúc lịch sử Xôman được cụ mết kể trong một đêm dài bên bếp lửa cũng gần giống với rừng xà nu trong đầu tác phẩm. Đó là một chuỗi dài của những đau thương mà tiêu biểu nhất ở đây là cuộc đời của Tnú và Mai. Tnú và Mai được nhà văn hào phóng đưa lại cho khá nhiều vẻ đẹp của con người lí tưởng. Với Mai đó là sự duyên dáng, linh lợi, giọng nói trong lanh lảnh và con tim thắm thiết, thủy chung. Còn với Tnú đó là sự khỏe mạnh với bộ ngực rộng rãi và hai cánh tay chắc khỏe như lim, là sự bất khuất can trường đã được thử thách qua tra tấn dã man và mấy năm trời tù ngục. Tnú cường tráng như một thân xà nu lớn chảy trong huyết quản anh là dòng máu anh hùng của xứ sở Tây Nguyên truyền lại từ Đam San, Xinh Nhã. Chứa đầy trong ngực anh là sức mạnh mênh mông và hoang dại của núi rừng. Anh thừa gan góc đến bướng bỉnh, thừa kiêu hãnh đến giàu tự ái. Anh là người không biết đến sợ hãi, không biết đến khuất phục, cho dù sự tàn bạo có hiện hình trong mũi súng, hay lưỡi dao chém ngang dọc trên lưng…Ngay từ nhỏ Tnú đã rất gan dạ, dám đi tiếp tế cho cán bộ, dám đi liên lạc cho cán bộ từ xã lên huyện. “Nó không thích lội chỗ nước êm, cứ lựa chỗ thác mạnh mà bơi ngang, vượt lên mặt nước, cưỡi lên thác băng băng như một con cá kình”. Bởi Tnú hiểu “Qua chỗ nước em thằng Mỹ - Diệm hay phục, chỗ nước mạnh nó không ngờ”. Sức mạnh Tnú còn hun đúc bởi một tình yêu lớn của một người con gái luôn luôn hiền dịu, nhịn nhường. Vậy mà với bằng ấy cái có, Tnú cũng không cứu sống được Mai và đứa con trai của mình khỏi bị kẻ thù sát hại. Vợ anh và đứa con chưa đầy tháng của anh đã chết dưới cây gậy bằng sắt của bọn giặc hung bạo. Cho dù Mai đã hết sức bảo vệ con bằng đức hi sinh tuyệt vời của người mẹ và tất cả sự dẻo dai của người con gái sinh ra ở núi rừng. “Mai thét lên một tiếng. Chị vội tháo tấm địu, vừa lật kịp đứa con ra phiá bụng lúc cây sắt giáng xuống trên lưng …Cây sắt thứ hai đập vào trước ngực Mai, chị lật đứa bé ra sau lưng. Nó lại đánh sau lưng, chị lật đứa bé ra trước ngực…”. Lúc đó, Tnú đứng cạnh một gốc cây vả. Anh đã bứt hàng chục trái mà không hay. Lòng căm thù đã dâng lên trong anh cực độ. Tnú lao vào lũ giặc…Nhưng anh không thể giằng được vợ con ra khỏi bàn tay của lũ ác nhân. Dẫu cho lòng căm thù đã biến “hai con mắt anh bay giờ là hai cục lửa lớn”, và anh đã xông vào chúng như một sức mạnh hùm thiêng. “Anh không biết đã làm gì chỉ thấy thằng lính giặc to béo nằm ngửa ra giữa sân, thằng giặc tháo chạy vào nhà ưng”. Thế nhưng, “Tnú không cứu được mẹ con Mai” Vì sao vậy? Vì Tnú chỉ có tay không giữa quân thù đầy vũ khí. Và khi chỉ có tay không thì Tnú không cứu được chính đời anh. Hình ảnh mười ngón tay Tnú rừng rực cháy lửa xà nu như mười ngọn đuốc không chỉ có ý nghĩa tố cáo tội ác quân thù hay nói lên lòng dũng cảm của người cách mạng mà còn nói lên lên một chân lí sâu sắc và tàn nhẫn khi một Tnú chỉ có tay không ngay thứ nhựa xà nu thân thiết, cái khối chất thơm ngào ngạt và như đọng nắng quê hương kia cũng có thể trở thành ngọn lửa hủy diệt chính những bàn tay vẫn hằng chăm sóc, vun trồng cho nương rẫy. Tnú không cứu được vợ con … “Nhớ không Tnú, mày cũng không cứu sống được vợ mày. Còn mày thì chúng nó bắt mày, trong tay mày chỉ có hai bàn tay trắng, chúng nó trói mày lại. Còn tau thì lúc đó tau đứng sau gốc cây vả. Tau thấy chúng nó trói mà bằng dây rừng. Tau không nhảy ra cứu mày. Tau cũng chỉ có hai bàn tay không!” Những lời nói ấy của cụ Mết như chứng minh cho một quy luật không thể chiến đấu với quân thù chỉ bằng tay không và lòng căm thù mù quáng. Dân làng đã đi tìm vũ khí và đã quay về với những lưỡi mác và cây rựa được mài bằng đá Ngọc Linh. Lúc đó, lửa xà nu sẽ tắt trên bàn tay Tnú. Lửa xà nu chỉ còn soi xác giặc chết ngổn ngang. Núi rừng Xôman sẽ ào ào rung động. “Tiếng chuông nổi lên…và lửa cáy khắp rừng”… “Nghe rõ chưa các con, rõ chưa. Nhớ lấy ghi lấy. Sau này tau chết rồi, bay còn sống phải nói lại cho con cháu chúng nó cầm súng mình phải cầm giáo…”. Đó là chân lí lớn của cách mạng miền nam phải dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng. Nguyên ngọc đã từng nói đại ý “Rừng xà nu” là “Truyện của một đời và được kể trong một đêm”. Nhưng xa hơn, đó cũng là câu chuyện của một thời, một dân tộc, một đất nước mà tiêu biểu ở đây là hình ảnh những thế hệ dân làng Xôman nối tiếp nhau cùng đứngđậy chiến đấu. Cụ Mết tượng trưng cho lịch sử, cho truyền thống của dân làng Xôman. Cụ là cây xà nu đại thụ giữa rừng xà nu bạt ngàn. Tuy già nhưng ông cụ vẫn quắc thước như xưa “Râu bây giờ đã dài tới ngực và vẫn đen bóng mắt vẫn sáng và xếch ngược, vết sẹo ở má bên phải vẫn láng bóng. Ngựccăng như một cây xà nu lớn”. Ông cụ là linh hồn của làng Xôman. Lịch sử của làng qua lời kể đêm đêm của cụ thắm sâu vào tim óc của các thế hệ. Cụ là chiếc cầu nối giữa quá khứ và hiện tại, là pho sử sống của làng. Tấm lòng của cụ Mết đối với đảng trước sau như một . Cụ từng nói với dân làng “Cán bộ là Đảng, Đảng còn, núi nước này còn”. Lời cụ đơn giản, rõ ràng như một chân lí. Chính cụ đã lãnh đạo dân làng tự phát vùng lên giết giặc tự cứu lấy mình. Người đọc không thể nào quên hình ảnh hào hùng của người thủ lĩnh già “Cụ mết chống giáo xuông sàn nhà, tiếng nói vang vang thế là bắt đầu rồi. Đốt lửa lên!” Lời nói của cụ đốt cháy lên ngọn lửa căm thù trong lòng mỗi người dân Xôman đối với bọn giặc tàn ác, thôi thúc họ vùng lên cầm vũ khí bảo vệ bản làng, bảo vệ quyền làm người tự do… Ở cụ, yêu ghét rõ ràng, minh bạch. Cụ Mết thương dân làng hết mực sống cuộc đời gắng bó máu thịt với quê hương và con người quê hương. Sau cụ Mết là Tnú, Mai và cả Dít cô bí thư chi bộ kim chính trị viên xã đội làng Xôman. Ba năm trước ngày Tnú ra đi. Dít “còn là một cô bé không có áo mặc, đêm lạnh không ngủ…”. Vậy mà khi Tnú trở về cô bé ấy đã đảm trách những công việc trọng yếu nhất của làng Xô man. Sự trưởng thành kì lạ của Dít không phải là ngẫu nhiên mà là một quá trình tự rèn luyện qua nhiều thử thách, Lúc còn nhỏ Dít là một đứa bé lanh lợi, rất gan dạ. Lần ấy, Dít bị giặc bắt “Chúng để con bé ở giữa sân, lên đạn tôm xông rồi từ từ bắn từng viên một, không bắn trúng, đạn chỉ sướt qua tai xém tóc, cày đất quanh hai chân nhỏ của Dít. Váy nó rách toạt từng mảng. Nó khóc thét lên nhưng đến viên đạn thứ 10 thì nó chùi nước mắt, từ đó im bặt. Nó đứng lặng giữa bọn lính, cứ mỗi viên đạn nổ, cái thân hình mảnh dẻ của nó lại quật lên một cái nhưng đôi mắt nó thì vẫn nhìn bọn giặc bình thản lạ lùng…”. Không chỉ gan góc, Dít còn là một cô bé gan nghị, chứng kiến cái chết đau thương của chị Mai, Dít lầm lì không nói gì cả, mắt ráo hoảnh trong khi mọi người, cả cụ già điều khóc. Cứ thế Dít lớn lên cùng với cuộc đấu tranh của dan làng Xôman. Trở thành người lãnh đạo cuộc chiến đấu của buông làng. Dít cũng tỏ ra là người có bản lĩnh, có sức thuyết phục quần chúng. Gặp lại Tnú, Dít không khỏi xúc động nhìn anh ấy rất lâu với “đôi mắt mở to bình thản trong suốt”. Âý vậy nhưng chị không quên trách nhiệm của mình khi hỏi “đồng chí về có giấy không?” khi tuyên bố dứt khoát “ không có giấy về thì không được, ủy ban phải bắt thôi”. Rồi sau khi xem kỹ giấy của Tnú chị lại buồn tiếc “ Sao anh về có một đêm thôi?”. Con người Dít là như vậy đó gan góc, cương vị nhưng cũng không kém phần tha thiết yêu thương, đành rằng bề ngoài tưởng như chỉ có lạnh lùng, bình thản… Tnú, Mai, Dít là thế hệ thanh nên tiêu biểu của làng Xôman. Từ lòng căm thù họ đến với cuộc sống của dân tộc, chính trong cuộc chiến đấu đó họ trưởng thành. Sự trưởng thành của họ có cội nguồn một mặt là do họ tự vượt mình qua những thử thách lớn lao, mặc khác là sự dìu dắt của cách mạng, của cha ông. Không chỉ có lớp người như Tnú, Lớp sau Tnú như bé Heng cũng lớn lên, lớn lên cùng cuộc chiến đấu ác liệt của làng Xôman. Với nhân vật bé Heng Nguyễn Trung Thành chỉ phát họa bằng vài ba đường nét mêu tả ngoại hình nhưng đủ tạo ấn tượng sâu sắc cho người đọc. Tuổi của bé Heng lẽ ra là tuổi phải đến trường với những trang sách, với những trò chơi vui nhộn. Nhưng đất nước còn giặc bé cũng phải góp sức mình vào cuộc chiến đấu của quê hương. Tuy còn bé, bé Heng đã có dáng vẻ “một người lính thực sự”. Nó đội một chiếc mũ sụp xin được của một anh giải phóng quân nào đó, mặc một chiếc áo bà ba dài phết đít, vẫn đóng khố, súng đeo chéo, vượt qua hố chông trở thành người liên lạc như Tnú ngày xưa. Thật là tự hào và tin tưởng với lớp người như pé Heng. Lớp người ấy đang lớn lên, trưởng thành, xứng đáng với thế hệ cha anh. Đến cuối truyện, hình ảnh cánh rừng xà nu lại trở về “Những rừng xà nu nối tiếp chạy đến tận chân trời”, với “vô số những cây con đang mọc lên”, bất chấp đại bác đêm qua lại bắn. Ta nghe thấy gì từ cái rồi sẽ được Nguyên Ngọc gọi là “Một vĩ thanh cứ xa mờ dần và bất tận” ấy nếu không phải là sức sống vô hạn và không thể gì tàn phá của một dân tộc thương đau là chiến thắng của tuổi trẻ, là lời hứa hẹn của tương lai. “Rừng xà nu” là câu chuyện của một người nhưng qua đó ta thấy số phận của một dân tộc. Đó là bức tranh hoành tráng, hoành tráng trong hình ảnh với vóc dáng vạm vỡ cao cả của núi rừng của con người và hoành tráng trong âm hưởng với lời văn đầy nhịp điệu, khi vang động, khi tha thiết, trang nghiêm./
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan