Đề tài "Một số biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động khám phá khoa học cho trẻ 5 – 6 tuổi" với mục tiêu nhằm giúp công tác giáo dục trẻ mầm non thì việc cho trẻ khám phá khoa học là không thể thiếu, có tác dụng về mọi mặt như: ngôn ngữ, đạo đức, trí tuệ, thẩm mỹ thể lực,...
THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động khám phá
khoa học cho trẻ 5 – 6 tuổi”
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Lĩnh vực phát triển nhận thức
3. Tác giả:
Họ và tên:
Bùi Thị Mai
Giới tính: Nữ
Ngày/ tháng/năm sinh: 20/07/1992
Trình độ chuyên môn: Trung cấp sư phạm
Chức vụ, đơn vị công tác: Giáo viên trường mầm non Cao An
Điện thoại: 0982014171
4. Đồng tác giả (nếu có), chịu trách nhiệm nội dung: Không có
5. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Trường mầm non Cao An
Địa chỉ: Cao An - Cẩm Giàng - Hải Dương
6. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu : Lớp mẫu giáo 5 – 6 tuổi
7. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: Nhà trường, giáo viên, các
cháu, phụ huynh, tài liệu liên quan đến sáng kiến
8. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: tháng 9 năm 2015.
TÁC GIẢ
XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ ÁP DỤNG
SÁNG KIẾN
(ký, ghi rõ họ tên)
XÁC NHẬN CỦA PHÒNG GD&ĐT
(đối với trường mầm non, tiểu học, THCS)
1
TÓM TẮT SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến
Những nghiên cứu về đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi trẻ mầm non cho
thấy: Tâm hồn trẻ rất ngây thơ và trong sáng , “trẻ chơi mà học, học mà chơi”,
thế giới xung quanh qua “lăng kính chủ quan” của trẻ tất cả đều mới lạ với biết
bao điều kỳ diệu và “vì sao lại thế?” hoặc “vì sao thể nhỉ” ....Luôn là những
câu hỏi thắc mắc , là những điều trẻ luôn khao khát muốn biết, muốn tìm hiểu
và khám phá. Trẻ càng lớn tuổi thì nhu cầu muốn tìm hiểu, khám phá thế giới
xung quanh trẻ càng cao và các câu hỏi, thắc mắc đặt ra cho người lớn càng
nhiều. Vì vậy việc giúp trẻ trả lời những thắc mắc và có những hiểu biết về thế
giới xung quanh là 1 nhiệm vụ vô cùng quan trọng đối với giáo viên mầm non.
Bởi thời gian trẻ ở với các cô trong ngày là nhiều nhất. Ở trường mầm non trẻ
không những được quan tâm chăm sóc mà trẻ còn được tham gia vào các hoạt
động học khác nhau như: làm quen với toán; Làm quen văn học; Phát triển thể
chất…Trong đó hoạt động khám phá khoa học có ý nghĩa quan trọng trong
việc phát triển nhận thức cho trẻ và hình thành các kỹ năng.
Khám phá khoa học sẽ giúp trẻ nuôi dưỡng, phát triển trí tò mò tự nhiên
của trẻ về thế giới. Mở rộng và trau dồi các kỹ năng quan sát, so sánh, phân
loại, dự đoán, suy luận, chia sẻ thông tin, giải quyết vấn đề, đưa ra quyết
định… nâng cao hiểu biết của trẻ về thế giới tự nhiên. Khoa học phù hợp với
mức độ phát triển của trẻ sẽ nuôi dưỡng, phát triển ở trẻ trí tò mò và mong
muốn khám phá mọi sự vật, hiện tượng xung quanh. Là cơ hội để trẻ bộc lộ nhu
cầu và khả năng nhận thức của bản thân. Được thực hành các kỹ năng quan sát,
so sánh, phân loại, dự đoán, thử nghiệm, thảo luận, chia sẻ và tiếp nhận thông
tin…Hình thành ở trẻ nền tảng kiến thức phong phú.
Do đó, trong công tác giáo dục trẻ mầm non thì việc cho trẻ khám phá
khoa học là không thể thiếu, có tác dụng về mọi mặt như: ngôn ngữ, đạo đức,
trí tuệ, thẩm mỹ thể lực…Nhất là đối với trẻ 5- 6 tuổi thì việc giúp trẻ khám
phá khoa học lại càng quan trọng. Đây là lứa tuổi có nhiều câu hỏi muốn hỏi
giáo viên nhất và nhu cầu, mong muốn được khám phá khoa học cao nhất. Khả
2
năng nhận thức của lứa tuổi này cao hơn các lứa tuổi khác nên mức độ, yêu cầu
về kiến thức của trẻ về khám phá khoa học cao hơn và có chiều sâu hơn nhiều
so với lứa tuổi dưới.
Vì vậy, tôi đã suy nghĩ và lựa chọn đề tài “Một số biện pháp nâng cao
chất lượng hoạt động khám phá khoa học cho trẻ 5 – 6 tuổi”.
2. Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến
Căn cứ vào yêu cầu của đề tài, tôi chọn đối tượng nghiên cứu là trẻ Mầm
Non 5 – 6 tuổi trường mầm non tôi công tác.
Trong phạm vi khả năng và trách nhiệm của mình. Tôi vận dụng vấn đề
mà bài viết này đề cập đến chương trình chăm sóc và giáo dục trẻ mầm non từ
5 – 6 tuổi ở chính đơn vị trường tôi đang công tác .
Đề tài được tiến hành từ tháng 9 năm 2015 đến tháng 5 năm 2016 tại lớp
mẫu giáo 5 tuổi C
3. Nội dung sáng kiến
Việc thực hiện đổi mới phương pháp giáo dục mầm non ngày càng giúp
phát huy tính sáng tạo của giáo viên và khuyến khích sự ham thích học hỏi của
trẻ mầm non đã đặt ra những yêu cầu mới với giáo viên mầm non trong quá
trình lựa chọn và tổ chức các hoạt động khám phá khoa học của trẻ. Nếu trong
chương trình giáo dục mầm non cải cách, giáo viên chủ yếu sử dụng phương
pháp dùng lời, trực quan để dạy thì chương trình mầm non mới lại đòi hỏi
người giáo viên phải tăng cường sử dụng các phương pháp thí nghiệm, thực
nghiệm giúp trẻ có cơ hội được trải nghiệm, tham gia khám phá các hoạt động
khám phá khoa học. Do vậy, bên cạnh biện pháp dùng lời và trực quan, tôi
luôn cố gắng tìm ra những biện pháp, hình thức để trẻ được tiếp thu , được
khám phá khoa học một cách chủ động bằng cách tăng cường cho trẻ được thí
nghiệm, thực nghiệm để nâng cao chất lượng khám phá khoa học cho trẻ 5 - 6
tuổi. Qua đề tài nghiên cứu giúp giáo viên có những định hướng phù hợp trong
công tác chăm sóc cho trẻ mầm non ở độ tuổi 5- 6 tuổi. Sau khi vận dụng đề tài
sẽ góp phần đắc lực cho quá trình hình thành nhân cách cho trẻ.
3
4. Khẳng định giá trị, kết quả đạt được của sáng kiến
Cho trẻ tham gia hoạt động khám phá khoa học là một hoạt động quan
trọng trong việc giáo dục trẻ ở tuổi mầm non, nó có tác dụng góp phần tích cực
vào việc giáo dục toàn diện, đặc biệt là giáo dục tình cảm trí tuệ, tình cảm thẩm
mỹ đạo đức. Qua một thời gian áp dụng sáng kiến tôi thấy đã đạt được những
kết quả như mong đợi, các cháu đã thích thú, tích cực với hoạt động khám phá
hơn, mạnh dạn đưa ra câu hỏi và các kỹ năng của trẻ được nâng cao rõ rệt. Đây
chính là động lực lớn để tôi tiếp tục thực hiện những bước tiến tiếp theo trong
kế hoạch chăm sóc và giáo dục các cháu.
5. Đề xuất kiến nghị để thực hiện áp dụng hoặc mở rộng sáng kiến.
Qua đây tôi khuyến nghị với nhà trường chú trọng và quan tâm đến trẻ 5
– 6 tuổi nhiều hơn, quan tâm nhiều hơn nữa về cơ sở vật chất để tạo môi trường
phong phú cho trẻ trải nghiệm, để các cháu nhận được sự chăm sóc - giáo dục
tốt nhất..
4
MÔ TẢ SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến
1.1. Cơ sở lý luận
Khám phá khoa học với trẻ nhỏ là quá trình trẻ tích cực tham gia hoạt
động thăm dò, tìm hiểu thế giới tự nhiên. Đó là quá trình quan sát, so sánh,
phân loại, thử nghiệm, dự đoán, suy luân, thảo luận, giải quyết vấn đề, đưa ra
quyết định...Mục tiêu của khám phá khoa học dành cho trẻ mầm non là: Nuôi
dưỡng, phát triển trí tò mò tự nhiên của trẻ về thế giới. Mở rộng và trau rồi các
kĩ năng quan sát, so sánh , phân loại, dự đoán, suy luân, chia sẻ thông tin, giải
quyết vấn đề, đưa ra quyết định... Nâng cao hiểu biết của trẻ về thế giới tự
nhiên. Khoa học phù hợp với mức độ phát triển của trẻ sẽ nuôi dưỡng, phát
triển ở trẻ trí tò mò và mong muốn khám phá mọi sự vật, hiện tượng xung
quanh. Là cơ hội để trẻ bộc lộ nhu cầu và khả năng nhận thức của bản thân.
Được thực hành các kĩ năng quan sát,so sánh , phân loại, dự đoán, xây dựng giả
thuyết, thử nghiệm, thảo luận, chia sẻ và tiếp nhận thông tin... Hình thành ở trẻ
nền tảng kiến thức phong phú.
Khoa học không chỉ là kiến thức mà còn là quá trình hay con đường tìm
hiểu, khám phá thế giới vật chất. Đối với trẻ lứa tuổi mầm non, khoa học chủ
yếu là học cách suy nghĩ chứ chưa phải là học những quy luật của khoa học
(vật lý, sinh vật...). Ở giai đoạn này, giáo viên không nhất thiết phải dạy hoặc
giải thích những kiến thức kkhoa học cho trẻ mà quan trọng hơn là giúp trẻ suy
nghĩ nhiều hơn về những gì chúng nhìn thấy và đang làm, kích thích trẻ quan
sát, xem xét, suy luận, phỏng đoán...về các sự vật hiện tượng xung quanh. Việc
dạy khoa học cho trẻ nhỏ nên trú trọng vào quá trình ( hoặc học thế nào) hơn là
vào kết quả (hoặc học gì). Điều đó cũng có nghĩa là trẻ cần được lôi cuốn vào
các quá trình và trau dồi các quá trình: quan sát,so sánh, phân loai, thử nghiệm,
phỏng đoán, suy luận...cho thích hợp với các tình huống của hoạt động cụ thể.
Cho trẻ làm quen với hoạt động khám phá khoa học là một hoạt động
quan trọng trong việc giáo dục trẻ ở tuổi mầm non, nó có tác dụng góp phần
5
tích cực vào việc giáo dục toàn diện, đặc biệt là giáo dục tình cảm trí tuệ, tình
cảm thẩm mỹ đạo đức.
Việc quan trọng nhất trong sự nghiệp trồng người là phải chăm sóc, giáo
dục các em ngay từ nhỏ để hình thành và phát triển nhân cách một cách toàn
diện. Đó chính là nhiệm vụ của ngành Giáo dục mầm non - mắt xích đầu tiên
trong hệ thống giáo dục quốc dân.
1.1. Cơ sở thực tiễn
Trong năm học 2015 – 2016 tôi được nhà trường phân công chủ nhiệm
nhóm lớp 5 – 6 tuổi. Đây là lứa tuổi đòi hỏi nhiều lượng kiến thức và thông tin
nhất. Khác với lứa tuổi dưới, ở lứa tuổi này trẻ lúc nào cũng muốn hỏi “ tại
sao?” “như thế nào?” và nhu cầu muốn trò chuyện cùng cô vô cùng cao. Đặc
biệt trẻ rất có hứng thú khi được tìm hiểu về thế giới xung quanh mình. Thấy
điều gì mới lạ là trẻ hỏi ngay và hỏi cho đến khi nào có kết quả mới dừng lại,
rồi lại tiếp tục đặt các câu hỏi tại sao không thế này? Tại sao không thế kia…
Trẻ rất thích thú khi được tìm tòi, khám phá về một một điều gì đó hay một sự
vật nào đó. Nhu cầu và khả năng nhận thức của trẻ tăng dần theo thời gian.
Phát triển nhận thức, đặc biệt là hình thành thái độ nhận thức và kĩ năng
nhận thức cho trẻ là một nhiệm vụ của giáo dục mầm non, nhằm hình thành nền
tảng cho việc học tập của trẻ trong tương lai.
Sự phát triển của trẻ về trí tuệ và sự gia tăng về khối lượng tri thức, sự
phong phú đa dạng của các nhu cầu, hứng thú nhận thức hiện nay đã đặt ra
những yêu cầu mới cho người lớn trong việc nuôi dạy và chăm sóc trẻ. Đặc biệt
nhu cầu nhận thức và phản ánh thế giới xung quanh của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi
rất lớn. Trẻ luôn muốn biết mọi thứ và thường đặt ra các câu hỏi để tìm hiểu
các sự vật, hiện tượng xung quanh. Tổ chức hoạt động khám phá khoa học
trong trường mầm non nhằm phát triển nhận thức của trẻ đã trở thành một nội
dung quan trọng trong chương trình giáo dục mầm non của nhiều nước tiên tiến
trên thế giới.
Ở trường mầm non trẻ không chỉ được chăm sóc mà còn được thực hiện
nhiều hoạt động khác nhau trong ngày. Trong đó hoạt động “Khám phá khoa
6
học” có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển nhận thức cho trẻ. Hoạt động
này nhằm thể hiện sự thích thú và đam mê khám phá sẽ nuôi dưỡng tình yêu
thiên nhiên trong trẻ chứ không phải chỉ là những kiến thức khoa học mà trẻ
thu lượm được. Đồng thời thông qua các hoạt động khám phá khoa học sẽ giúp
cho trẻ dần hình thành và phát triển các kỹ năng quan sát, kỹ năng tư duy, phân
tích, tổng hợp, khái quát và những đam mê được tìm hiểu khoa học.
Thông qua tổ chức hoạt động khám phá khoa học , giáo viên sẽ tạo cơ hội
cho trẻ được tìm tòi, khám phá, trải nghiệm. Tổ chức hoạt động khám phá khoa
học phù hợp sẽ giúp trẻ tìm ra cái mới, tiếp cận với những tri thức tiền khoa
học, tích cực hoạt động nhận thức. Trong thực tế, chương trình giáo dục mầm
non mới đang được triển khai đại trà trên toàn quốc, việc tổ chức chức hoạt
động khám phá khoa học cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi được triển khai tại các
trường mầm non như thế nào là vấn đề cần được quan tâm và làm rõ. Nhưng
làm thế nào để trẻ hứng thú hơn và chất lượng hoạt động khám phá khoa học
được nâng cao so với trước thì đó là điều mà tôi luôn suy nghĩ, luôn cố gắng
tìm ra những phương pháp để nâng cao chất lượng hoạt động khám phá khoa
học cho trẻ. Để trẻ có những kiến thức cần thiết, hiểu rõ hơn về thế giới xung
quanh, đồng thời phát triển những kỹ năng cần thiết cho trẻ.
Từ những lý do trên, tôi đã trăn trở, suy nghĩ, tìm tòi, nghiên cứu và lựa
chọn đề tài: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động khám phá khoa
học cho trẻ 5 – 6 tuổi”
2. Thực trạng của vấn đề
2.1 Tình trạng trước khi thực hiện đề tài
a)Thuận lợi :
- Phòng GD&ĐT và nhà trường thường xuyên quan tâm bồi dưỡng chuyên
môn cho giáo viên .
- Được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Ban giám hiệu nhà trường và
những lời nhận xét, góp ý của bạn bè đồng nghiệp sau mỗi giờ tổ chức hoạt
động khám phá khoa học.
7
- Bản thân luôn yêu nghề mến trẻ, ham học hỏi nâng cao chuyên môn. Tìm
tòi và tự làm một số đồ dùng, đồ chơi để phục vụ cho hoạt động khám phá khoa
học và vào hoạt động vui chơi của trẻ.
- Trẻ tích cực đến lớp, tích cực tham gia các hoạt động cùng cô và các bạn.
Trẻ thông minh, nhanh nhẹn, có nề nếp
- Nhà trường khang trang đẹp đẽ, có đầy đủ đồ dùng cho trẻ làm thí
nghiệm và không gian rộng để tổ chức hoạt động khám phá. Bên cạnh đó, Ban
Giám Hiệu nhà trường luôn ủng hộ, quan tâm đến các cháu.
- Phụ huynh nhiệt tình ủng hộ lớp nguyên vật liệu theo thông báo của giáo
viên.
b) Khó khăn :
- Góc tự nhiên còn nghèo, số cây ít, loại cây chưa phong phú
- Chưa có khu vực để nuôi các con vật: Chim, thỏ, bể cá.....
- Vốn hiểu biết của trẻ về môi trường xung quanh còn hạn chế .
- Phương pháp mà giáo viên sử dụng để tổ chức cho trẻ khám phá khoa
học chủ yếu là các phương pháp trực quan và dùng lời nên việc truyền thụ
những kiến thức khoa học trừu tượng cho trẻ gặp nhiều khó khăn.
- Tài liệu, sách báo về các thí nghiệm khám phá khoa học cho trẻ còn hạn
chế.
- Trẻ dễ tiếp thu nhưng thường dễ quên những kiến thức vừa học.
2.2. Khảo sát thực tế (số liệu điều tra trước khi thực hiện)
Trước khi thực hiện đề tài tôi đã có những hoạt động cho trẻ làm quen với
khám phá khoa học và tôi thấy vốn biểu tượng về thế giới xung quanh của trẻ
còn ít. Đặc biệt trẻ rất dễ nhầm lẫn khi gọi tên các con vật.
Ví dụ như : Tất cả các con vật biết bay, trẻ đều gọi là chim mà không gọi
được đó là chim én hay chim bồ câu...
Hay khi gọi tên đồ dùng dụng cụ của các nghề rất khó khăn.
Ví dụ: Dụng cụ của nghề nông, nghề xây dựng hay khi cho trẻ quan sát các
sự vật hiện tượng và làm các thí nghiệm đơn giản thì khả năng quan sát, phân
loại, so sánh, phán đoán, suy luận của trẻ gặp rất nhiều khó khăn.
8
Số liệu cụ thể qua từng hoạt động được tổng hợp trong bảng sau:
Bảng 1 : Kết quả tổng kết khả năng quan sát, so sánh, phân loại, phán
đoán, suy luận của trẻ.
(Tổng số trẻ là 32)
STT Các khả năng của trẻ
Kết quả (Tỉ lệ %)
Loại tốt
Loại khá
Loại TB Loại yếu
1
2
3
4
Khả năng quan sát
Khả năng so sánh
Khả năng phân loại
Khả năng phán đoán
15,6
12,5
9,4
9,4
25
15,6
12,5
9,4
25
34,4
31,2
31,2
34,4
37,5
46,9
50
5
Khả năng suy luận
6,3
15,6
37,5
40,6
Từ kết quả trên, tôi luôn băn khoăn, suy nghĩ và tìm nhiều biện pháp để
giờ hoạt động khám phá khoa học đạt hiệu quả cao hơn. Từ đó nâng dần khả
năng quan sát, so sánh, phán đoán và suy luận cho trẻ, làm phong phú biểu
tượng về môi trường xung quanh trong mỗi trẻ.
Dựa vào vốn kiến thức đã học và được bồi dưỡng chuyên môn, tôi đã tìm
ra một số biện pháp sau:
3. Biện pháp thực hiện
3.1 Nắm bắt được đặc điểm tâm sinh lý và khả năng nhận thức của trẻ 5 - 6
tuổi
Trước hết muốn giáo dục hay hướng dẫn trẻ trong bất kỳ hoạt động nào
thì điều mà giáo viên cần nắm rõ đầu tiên đó là phải biết được đặc điểm tâm
sinh lý của trẻ mà mình dạy. Từ đó, định hướng những khả năng nhận thức mà
trẻ trong độ tuổi ấy có thể tiếp thu được để đưa ra những hình thức, phương
pháp giáo dục phù hợp. Bởi ở mỗi lứa tuổi trẻ đều có đặc điểm tâm sinh lý và
nhận thức khác nhau nên các phương pháp, các hình thức mà giáo viên muốn
dạy trẻ là khác nhau. Nếu không nắm bắt rõ sẽ dẫn đến tình trạng hoặc kiến
thức quá tải, vượt quá khả năng của trẻ làm cho trẻ mệt mỏi. Hoặc những kiến
thức đó trẻ đã biết rồi mà không được cung cấp những kiến thức mới.
9
Do đó, việc nắm chắc đặc điểm tâm sinh lý và khả năng nhận thức của trẻ
là vô cùng quan trọng. Đặc biệt là đối với độ tuổi mẫu giáo lớn. Đây là độ tuổi
hiếu động nhất, tò mò nhất và cũng đòi hỏi kiến thức cao nhất.
Tính tích cực nhận thức của trẻ 5- 6 tuổi được nâng cao và có hiệu quả
khi giáo viên nắm vững những đặc điểm tâm sinh lý của trẻ ở giai đoạn này.
3.2 Tạo hứng thú cho trẻ tham gia hoạt động khám phá khoa học
Đây là việc làm cần thiết nhất, vì trẻ không hứng thú tham gia thì làm
sao có thể nâng cao chất lượng hoạt động khám phá khoa học được. Vì thế tôi
đề xuất những biện pháp kích thích sự tò mò, hứng thú của trẻ về khám phá
khoa học như sau:
3.2.1 Xây dựng môi trường lớp học phong phú, thu hút sự chú ý của trẻ
Môi trường lớp học ngăn nắp, gọn gàng, sắp xếp và trang trí khoa học
không chỉ tạo cho trẻ môi trường học tập trong lành, thỏa mãn nhu cầu vui
chơi, giao tiếp, nhận thức và hoạt động cùng nhau của trẻ mà còn tạo cơ hội
cho trẻ được chơi và hoạt động theo sở thích tích cực, độc lập, sáng tạo, vận
dụng những kỹ năng đó vào các hoạt động khác, các tình huống trong các hoạt
động. Việc xây dựng môi trường học và vui chơi cho trẻ sẽ là phương tiện, là
điều kiện giúp trẻ hình thành các kỹ năng quan sát, phân tích, và những đam mê
tìm hiểu khám phá.
Chính vì vậy, khi vào đầu năm học mới tôi đã rất chú ý đến việc xây
dựng môi trường lớp học, đặc biệt là góc khám phá “Bé với thiên nhiên” nhằm
giúp trẻ khơi dậy tính tò mò, óc sáng tạo, những hiểu biết về các sự vật, hiện
tượng xung quanh và giáo dục trẻ thái độ ứng xử đúng đắn với thiên nhiên. Góc
thiên nhiên là nơi dành cho các hoạt động thực hành chăm sóc cây cối: Nhặt cỏ,
bắt sâu, tưới nước, ngoài ra còn là nơi trẻ được quan sát kỹ lưỡng về sự phát
triển của cây một cách trực tiếp và cụ thể nhất. Đồng thời phát triển ở trẻ khả
năng quan sát, tư duy, so sánh, thảo luận…..Tại góc thiên nhiên tôi trồng các
cây xanh như: vạn niên thanh, hoa ngọc lan, hoa tóc tiên…. Ngoài ra tôi còn
chuẩn bị các chậu gieo hạt để trẻ được tự gieo trồng, chăm sóc và theo dõi sự
nảy mầm và lớn lên của cây
10
Đối với các góc khác, tôi bố trí đồ dùng gọn gàng, dễ thấy, dễ lấy. Nhất
là những đồ dùng phục vụ cho hoạt động khám phá khoa học (kính lúp, bảng
ghi chép quá trình theo dõi thời tiết hay sự nảy mầm của cây... tranh ảnh, lô
tô..)
Tôi bố trí giá sách chủ yếu là sách vẽ con vật, cây cối, hoa lá, quả hạt …
Tranh ảnh vừa tầm với của trẻ để trẻ có thể xem và đọc sách (có que chỉ cho
việc đọc sách). Tôi sắp xếp các hộp đựng vỏ cây khô, hoa lá ép khô, các loại
hạt… Có ngắn nhãn mác và hình ảnh rõ ràng để trẻ dễ nhận thấy, trẻ được chơi
và làm được những sản phẩm từ những đồ chơi ấy. Ngoài ra tôi cũng dùng vỏ
hến, ốc trai, sò … vỏ trứng (vỏ bọc bên ngoài của 1 loại kẹo) vệ sinh sạch sẽ
vừa làm đồ dùng, đồ chơi phong phú vừa rẻ tiền vừa dễ kiếm .
Các tranh, lô tô đều được phân loại để ở giá vừa dễ lấy, dễ tìm .
Ví dụ : Tôi phân loại lô tô :
- Lô tô con vật xếp vào một ô .
- Lô tô các loại quả xếp vào một ô.
Đối với tranh đều có chữ cái tương ứng ở dưới cũng được phân loại xếp
gọn gàng và dễ kiếm .
Tôi cố gắng tạo cho trẻ có góc chơi rộng rãi với các nguyên vật liệu khác
nhau để trẻ được trải nghiệm .
Thường xuyên trang trí lớp theo chủ đề, xây dựng nhiều góc mở để cho
trẻ hoạt động trong các giờ hoạt động góc.
3.2.2 Chuẩn bị đồ dùng, đồ chơi đầy đủ, đa dạng và đẹp mắt
Đồ dùng, đồ chơi có sức hút vô cùng lớn đối với trẻ. Càng là những đồ
chơi có màu sắc đẹp, mới lạ, thiết kế độc đáo, bắt mắt thì sức hút đối với trẻ lại
càng lớn và việc dùng những đồ dùng, đồ chơi đó vào các hoạt động lại càng
kích thích sự hứng thú của trẻ nhiều hơn. Do đó, công tác chuẩn bị đồ dùng, đồ
chơi cũng hết sức quan trọng.
Để cung cấp những cơ hội khám phá khoa học cho trẻ, giáo viên cần tạo
cho trẻ môi trường hoạt động khám phá khoa học phong phú, hấp dẫn với các
đồ dùng, đồ chơi , các nguyên vật liệu khác nhau.
11
Đồ dùng, trực quan, đồ chơi phục vụ tiết học như : Bàn, ghế, bảng, tranh,
mô hình, các từ gắn với mỗi hình ảnh, vật mẫu ... Cần phải đầy đủ cho cô và trẻ
cùng hoạt động.
Đồ dùng của trẻ cũng phải đẹp, hấp dẫn, phong phú sinh động nhằm kích
thích hứng thú, sự tò mò và lòng ham hiểu biết của trẻ. Tôi thường sử dụng đồ
thật, vật thật hoặc hình ảnh động.
Ngoài những đồ dùng, đồ chơi nhà trường cung cấp, tôi còn vận động
các bậc phụ huynh sưu tầm thêm đồ dùng, tranh truyện, đặc biệt là tranh, sách,
ảnh về các con vật, cây cối, hoa lá, quả ... Sưu tầm những câu ca dao, tục ngữ,
đồng dao để làm phong phú vốn hiểu biết về môi trường xung quanh của trẻ .
Với chính bản thân mình tôi tận dụng những nguyên vật liệu có sẵn ở địa
phương như: Chai nhựa, hộp sữa các loại, vải vụn làm rối, cọng rơm khô làm
mái nhà, sưu tầm lá khô với nhiều màu sắc, hoa ép khô, vỏ cây khô. Tận dụng
các hình ảnh ở đốc lịch, bìa, hoạ báo, ảnh cũ ... Vừa trang trí lớp vừa làm đồ
dùng, đồ chơi trong các hoạt động khám phá khoa học. Sưu tầm các loại hạt,
các loại vỏ trai ốc, hến sò ... để bổ sung giá đồ chơi của trẻ.
Bên cạnh đó, tôi sưu tầm những bài thơ về môi trường xung quanh, sau
đó dùng hình ảnh minh hoạ và có chữ viết đi cùng. Vừa giúp trẻ củng cố hình
ảnh, vừa để trẻ rèn luyện ngôn ngữ. Từ đó tư duy của trẻ cũng phát triển.
Với những đồ dùng, đồ chơi được phát và tự làm khi tôi đưa vào sử dụng
trong giờ hoạt động khám phá khoa học, tôi thấy trẻ rất hào hứng, hứng thú
học, trẻ hiểu biết nhiều, quan sát rất tốt, tìm rất nhanh các vật mẫu cô đưa ra, so
sánh và phân loại cũng rất rõ ràng, rành mạch, ngôn ngữ rất phát triển, trẻ thuộc
rất nhiều thơ ca dao, tục ngữ, đặc biệt là các câu đố về các con vật, các cây hoa,
các loại quả ... Tư duy của trẻ cũng nhanh và chính xác hơn .
3.2.3 Luôn tạo sự hứng thú cho trẻ trong suốt quá trình trẻ tham gia vào
hoạt động
Hứng thú của trẻ thường không bền vững, không ổn định. Trẻ dễ dàng di
chuyển hứng thú của mình từ đối tượng này sang đối tượng khác. Trẻ rất thích
cái mới lạ, hấp dẫn, sinh động. Còn những cái quen thuộc lặp đi lặp lại nhiều
12
lần gây cho trẻ sự nhàm chán. Nhất là đối với trẻ 5 - 6 tuổi, thời gian chú ý của
trẻ nhiều hơn những lứa tuổi dưới nhưng yêu cầu về sự hứng thú lại cao hơn
rất nhiều. Vì nhận thức của trẻ 5- 6 tuổi cao hơn, rộng hơn, khả năng tư duy sâu
hơn nên nếu những việc cô nói, những điều cô làm không có lực chú ý đối với
trẻ, không khiển trẻ phải tò mò, phải suy nghĩ, phỏng đoán thì trẻ rất nhanh mất
tập trung hoặc nhìn xuống dưới, hoặc nói chuyện với bạn hay ngồi thẫn thờ
nhìn ra ngoài…Do đó, việc luôn tạo được sự chú ý của trẻ trong suốt quá trình
trẻ tham gia hoạt động là điều vô cùng quan trọng, có ảnh hưởng trực tiếp đến
mục đích, kỹ năng mà cô đặt ra cho trẻ qua giờ học khám phá đó. Cho nên
trong quá trình dạy trẻ cô phải lựa chọn những hình thức sao cho sinh động,
hấp dẫn, sáng tạo và luôn có sự thay đổi để lôi cuốn sự chú ý của trẻ. Đặc biệt
là trong phần giới thiệu bài. Vì đây là phần để gây hứng thú cho trẻ nhiều nhất
trong giờ học.
Khi cho trẻ khám phá các đối tượng cô không nên đưa luôn ra ngay đối
tượng đó vì nó sẽ mang tính chất khô cứng, dập khuôn máy móc, không tạo
được sự hấp dẫn cho trẻ mà cô cần đưa ra những tình huống có vấn đề, những
hình thức sinh động, sáng tạo để lôi cuốn sự tập trung chú ý, khơi dậy tính tò
mò, khám phá của trẻ. Phần giới thiệu bài cô có thể đưa ra những hình thức như
cho trẻ chơi 1 trò chơi nhỏ, cho trẻ tham dự sinh nhật…. hoặc cô kể một câu
chuyện ngắn, hấp dẫn tạo ra tình huống có vấn đề để lôi cuốn trẻ, thu hút sự
chú ý của trẻ. Việc lựa chọn những hình thức để đưa vào trong phần giới thiệu
bài phải phù hợp với nội dung dạy sao cho sinh động, hấp dẫn với trẻ. Những
hình thức giới thiệu bài phải luôn thay đổi trong các giờ học để trẻ không bị
nhàm chán.
Ví dụ phần giới thiệu bài của hoạt động “Tìm hiểu một số loại rau, củ”
Cô có thể tổ chức cho trẻ chơi 1 trò chơi “đi siêu thị” cô chia lớp thành
từng nhóm và cho trẻ cùng nhau đi đến siêu thị (mô hình cô đã chuẩn bị) để
chọn những thực phẩm mà nhóm mình thích rồi mang về. Trẻ sẽ cảm thấy rất
thích khi được thi đua như vậy, hăng hái muốn kể về những cây rau, cây củ mà
13
trẻ mang về và mong muốn cùng cô và các bạn khám phá tìm hiểu về những
loại rau, củ đó.
Không chỉ phần giới thiệu bài phải lựa chọn những hình thức sinh động
sáng tạo và thay đổi thường xuyên mà trong các phần của hoạt động cũng phải
lựa chọn những hình thức sinh động và không được lặp đi lặp lại nhiều lần. Đối
với phần cung cấp kiến thức cho trẻ, thông qua việc cho trẻ tri giác đối tượng
cô cũng cần tạo ra sự mới lạ, hấp dẫn đối với trẻ. Khi đưa đối tượng ra cô
không cần đưa ra ngay để cho trẻ quan sát mà cô cần kích thích sự tò mò của
trẻ bằng cách: cô có thể dùng câu đố để trẻ đoán, có đối tượng cô có thể đọc 1
đoạn thơ, hát một đoạn bài hát nói về đối tượng. Có đối tượng cô cho vào túi,
vào hộp và giới thiệu đó là món quà tặng lớp để trẻ đoán… Bên cạnh đó cô cần
sử dụng giọng nói truyền cảm, mạch lạc, có độ nhấn sẽ hứng thú hơn so với
việc cô cứ nói đều đều và kiến thức mà trẻ ghi nhớ được qua mỗi lần cô nói
chậm mà nhấn mạnh ấy sẽ sâu hơn, rõ hơn.
Với những hình thức thay đổi trong cùng 1 hoạt động sẽ tạo cho trẻ cảm
giác mới lạ, trẻ sẽ thích thú và tập trung chú ý vào việc quan sát đối tượng,
mong muốn được tìm hiểu đối tượng. Trẻ sẽ dùng tất cả những khả năng của
mình để phân tích, tìm hiểu đối tượng. Từ đó phát triển ở trẻ khả năng quan
sát, so sánh, phân loại, phóng đoán, suy luận, kết luận.
Mặt khác để trẻ khắc sâu và củng cố lại kiến thức vừa tiếp nhận được
bằng việc tổ chức các trò chơi thì cô cũng nên sáng tạo, tổ chức trò chơi ấy thật
sinh động, vui vẻ để trẻ không bị nhàm chán, mất hứng thú và mệt mỏi sau quá
trình tập trung chú ý cao độ vào việc quan sát đối tượng.
3.2.4 Ứng dụng công nghệ thông tin vào các hoạt động khám phá khoa học
Trong thời đại công nghệ thông tin hiện nay, sự phát triển của hệ thống
mạng cùng với những tiện ích, ứng dụng phong phú đã tạo nên một cuộc cách
mạng trong mọi người, mọi ngành và đặc biệt là giáo dục. Chính vì vậy ngay từ
cấp học mầm non trẻ đã được làm quen với công nghệ thông tin như một phần
của hoạt động giáo dục không thể thiếu(chuyên đề công nghệ thông tin). Không
14
chỉ với người lớn mà đối với trẻ em mầm non thì công nghệ thông tin luôn
mang lại nhiều điều kì thú và hữu ích trong việc tiếp thu kinh nghiệm sống.
Hơn nữa trong việc giáo dục, truyền đạt kiết thức cho trẻ không phải sự
vật hiện tượng nào cũng có sẵn để trẻ được trực tiếp tri giác, nhất là với hoạt
động khám phá khoa học như tìm hiểu động vật sống dưới biển, quan sát máy
bay, các hiện tượng tự nhiên…hay chúng ta không thể có thời gian để chứng
kiến những hiện tượng trong tự nhiên xảy ra như tìm hiểu về cách sinh sản của
một số loại vật nuôi, quá trình phát triển của cây…chính vì vậy để trẻ được tìm
hiểu thế giới xung quanh một cách bao quát nhất thì ứng dụng công nghệ thông
tin vào tiết học là một việc cần thiết.
Được ưu thế là một giáo viên trẻ và có khả năng sử dụng công nghệ thông
tin khá thành thạo tôi rất quan tâm và thường xuyên sử dụng công nghệ thông
tin như các bài powerpoint, Elearning vào các hoạt động. Tôi nhận thấy khi sử
dụng công nghệ thông tin vào các hoạt động khám phá khoa học trẻ tỏ ra rất
hào hứng, thích thú và cũng giúp trẻ nhận biết sự vật- hiện tượng một cách rõ
ràng hơn.
Ví dụ 1: Hoạt động “Mưa có từ đâu?”
Tôi sử dụng bài powerpoint trình chiếu các quá trình tạo thành mưa (ánh
nắng chiếu xuống mặt nước – Nước bốc hơi- Tạo thành mây - Gió thổi mây
thành đám rồi rơi xuống thành mưa)
Sau khi tìm hiểu xong về quá trình tạo thành mưa tôi cho trẻ xem phim
hoạt hình “Đám mây đen xấu xí” vừa là phim vừa đáp ứng việc củng cố kiến
thức về quá trình tạo thành mưa cho trẻ.
Thông qua việc trình chiếu và xem phim hoạt hình trẻ vừa như được giải
trí và cũng là khi lượng kiến thức cần cung cấp cho trẻ đảm bảo trọn vẹn với
hình thức này.
Việc triển khai chuyên đề công nghệ thông tin trong trường mầm non nơi
tôi công tác được Ban giám hiệu và giáo viên rất quan tâm, đặc biệt là đối với
trẻ 5-6 tuổi. Các trò chơi thông minh trong “Vui học kidsmart” luôn làm trẻ tò
mò và hứng thú. Biết được điều đó tôi thường xuyên tìm hiểu những trò chơi
15
thông minh có liên quan tới chủ đề mà trẻ đang học vừa giúp trẻ thỏa mãn tính
tò mò cũng như củng cố, mở rộng hiểu biết về thế giới xung quanh với trẻ hơn.
Ví dụ 2: Trò chơi “Tìm lá cho hoa” chủ đề Thế giới thực vật.
Cách chơi: Trên màn hình xuất hiện những hình ảnh về 1 số cành hoa bất kì sau
đó biến mất chỉ xuất hiện hoa và lá riêng rẽ nhiệm vụ của trẻ di chuột sắp xếp
hoa và lá lại thành một bông hoa có cành lá chính xác.
Khi trẻ đã chơi thành thạo tôi nâng cao trí nhớ cũng như sự nhanh nhẹn
của trẻ bằng cách chỉnh thời gian xuất hiện hoa ban đầu nhanh hơn hoặc cao
hơn nữa là không có sự xuất hiện của cành hoa ban đầu mà đòi hỏi trẻ phải có
trí nhớ, kĩ năng từ những lần chơi trước tự xếp lá cho hoa đúng theo yêu cầu.
Qua công nghệ thông tin từ một trò chơi tôi đã giúp trẻ có thêm kĩ năng sử
dụng máy tính, đồng thời giúp trẻ củng cố, ghi nhớ bài học hơn và trẻ thích thú
hơn khi được tham gia vào hoạt dộng khám phá khoa học.
3.3 Tổ chức cho trẻ tham gia các hoạt động trải nghiệm qua các thí nghiệm
khoa học
Ngày nay khoa học kỹ thuật đã có những bước tiến quan trọng vì vậy trẻ
mầm non cũng cần trang bị cho mình những kiến thức bao quát và chính xác
về các lĩnh vực của tự nhiên và con người rất là cần thiết. Không phải thí
nghiệm nào cũng là 1 phát minh, tuy nhiên không có phát minh nào không là
không có thí nghiệm . Những thí nghiệm nhỏ, đơn giản, dễ tiến hành nhưng lại
hiệu quả và mang đến cho trẻ những hiểu biết về thế giới xung quanh, từng
bước trẻ sẽ có điều kiện để suy nghĩ, khám phá những bí ẩn của cuộc sống.
Dưới đây là 1 số thí nghiệm tôi đã tiến hành để trẻ được trải nghiệm:
* Giờ khám khoa học về đồ vật và chất liệu( Chủ đề gia đình thân yêu của
bé)
Để giúp trẻ khám phá đặc điểm , công dụng và cách sử dụng, mối liên hệ
đơn giản giữa đặc điểm cấu tạo với cách sử dụng của đồ dùng, đồ chơi quen
thuộc; một vài đặc điểm của các chất liệu gỗ, nhựa, kim loại, vải, ni lông….
Tôi thường xuyên trò chuyện với trẻ về tác dụng của các đồ dùng trong sinh
16
hoạt hàng ngày, cho trẻ miêu tả chất liệu của các đồ vật bằng từ chính xác. So
sánh và phân loại đồ dùng, đồ chơi ở các góc:
Ví dụ: giờ hoạt động góc cho trẻ so sánh, phân loại các đồ dùng gia
đình, đồ chơi bằng kim loại, bằng gỗ, bằng nhựa. Trẻ so sánh, phân loại các đồ
dùng theo tác dụng ở góc thiên nhiên(để xới đất, tưới nước, tỉa cành….)
Trong giờ hoạt động khám phá đồ dùng gia đình tôi tổ chức cho trẻ được
thử nghiệm chơi với nam châm để trẻ chủ động khám phá nhiều điều mói lạ và
gợi hứng thú cho trẻ.
Ví dụ: Hoạt động: Chơi với nam châm
Nam châm hút gì?
Mục đích:
- Cho trẻ biết nam châm có thể hút các vật làm từ sắt, còn những vật không làm
bằng chất sắt thì nam châm không hút.
- Phát triển khả năng quan sát, khả năng phán đoán.
Đối tượng:
Trẻ mẫu giáo lớn.
Chuẩn bị:
Một số nam châm, 01 cái đinh, 01 cái kéo, 01 cái thước nhựa, 01 thìa
nhôm, 01 cốc inox, 1 bát nhựa, 1quả bóng.
Cách tiến hành:
- Cho trẻ quan sát những đồ dùng đã chuẩn bị và gọi tên chúng.
- Mời 6 – 7 trẻ lên lấy 1 trong số những vật mà cô chuẩn bị hỏi trẻ:
+ Vật đó có tên là gì? làm bằng gì?
+ Cho trẻ đưa vật đó lại gần cục nam châm và trả lời xem chúng có hút
nhau không và vì sao?
- Lần lượt cô cho các trẻ được thí nghiệm với các vật xung quanh lớp và đưa ra
nhận xét, nam châm hút được những vật làm bằng gì?
Giải thích và kết luận
Nam châm chỉ hút được các vật làm bằng sắt ngoài ra không hút được
các vật làm từ các chất khác.
17
* Giờ khám khoa học về thực vật ( Chủ đề thế giới thực vật, tết, mùa xuân)
Để khơi dậy ở trẻ tính tò mò tự nhiên và tạo cơ hội cho trẻ khám phá về
đặc điểm nổi bật và ích lợi của cây cối, điều kiện sống của cây và một vài mối
liên hệ đơn giản giữa cây cối với môi trường sống, cách chăm sóc và bảo vệ
chúng. Đồng thời trau dồi óc quan sát, so sánh, nhận xét và phán đoán của trẻ,
hình thành ở trẻ tình cảm , thái độ đúng đắn đối với cỏ cây, hoa lá tôi thường
xuyên cho trẻ quan sát các loại cây, gọi tên, so sánh, nhận xét và thảo luận ở
mọi lúc mọi nơi. Cho trẻ quan sát, theo dõi sự lớn lên của cây( nảy mầm, ra lá,
và lớn lên). Cho trẻ làm các thử nghiệm.
Ví dụ: Hoạt động 1: Trong hạt có gì?
Mục đích:
Giúp trẻ hiểu rằng hạt có thể nảy mầm thành cây nếu biết cách gieo và
chăm sóc đúng cách. Ngoài ra trẻ biết thêm về đặc điểm bên ngoài và bên trong
của hạt.
Đối tượng:
Trẻ mẫu giáo lớn.
Chuẩn bị:
Một số loại hạt: hạt đậu đen, hạt đậu tương, hạt lạc, hạt
ngô, hạt rau muống,…
Cách tiến hành:
- Ngâm hạt vào nước ấm qua đêm
- Cho trẻ đoán xem bên trong hạt có gì?
- Cho trẻ tự làm thực nghiệm bóc vỏ hạt và tách làm đôi, cho trẻ quan sát và
nhận xét kết quả.
Giải thích và kết luận:
Trong hạt có cây con tí xíu, cây con tí xíu đó chính là mầm cây, nếu gieo
xuống đất nó sẽ mọc thành cây.
Hoạt động 2: Gieo hạt
Mục đích
- Trẻ biết được cây cũng cần thức ăn và nước mới sinh trưởng được.
18
- Trau dồi óc quan sát, khả năng phán đoán, suy luận và chú ý.
Đối tượng:
Trẻ mẫu giáo lớn.
Chuẩn bị:
Một vài hạt đậu tương, đậu đen…2 Khay nhỏ, một ít đất .
Cách tiến hành:
- Ngâm hạt vào trong nước ấm từ 1 đến 2 tiếng sau đó lấy ra đặt hạt vào
khay có sẵn đất. Hàng ngày hãy cho trẻ tưới nước vào một khay để lại một
khay không tưới và quan sát sau 3 đến 4 ngày sau cây trong khay được tưới
nước hàng ngày sẽ nảy mầm và lớn dần còn khay không tưới sẽ không nảy
mầm. Lúc này hãy cho trẻ giải thích hiện tượng nảy mầm và không nảy mầm
trên .
- Với trẻ mẫu giáo lớn hãy cho trẻ tự làm và nêu kết quả thực nghiệm của
bản thân
Cô hỏi trẻ: + Các hạt giống có mọc lên cùng một lúc không?
+ Điều gì xảy ra với khay không có nước?
+ Khay được tưới nước thì như thế nào?
19
(Hình ảnh bé gieo hạt)
(Hình ảnh bé quan sát sự nảy mầm ở 2 khay)
(khay bên trái là khay không có nước, khay bên phải là khay được tưới nước)
Giải thích và kết luận:
Cây nảy mầm được nhờ có thức ăn trong hạt và nước uống trong đất và
ngược lại.
Hoạt động 3: Sự phát triển của cây và hạt:
. Mục đích:
20
- Xem thêm -