Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Mầm non - Mẫu giáo Mẫu giáo lớn Skkn một số biện pháp phát triển ngôn ngữ “đọc, viết” cho trẻ 5 6 tuổi ở trường ...

Tài liệu Skkn một số biện pháp phát triển ngôn ngữ “đọc, viết” cho trẻ 5 6 tuổi ở trường mầm non

.DOCX
27
60
134

Mô tả:

1. Phần mở đầu: 1.1. Lí do chọn đề tài: Chúng ta có thể khẳng định rằng: “Đọc, viết” là một hình thức của giao tiếp. Cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi làm quen với việc nói, “đọc, viết” không chỉ nhằm giúp trẻ biết được các mặt chữ cái để phát âm chính xác khi nói mà còn tạo ra cho trẻ hứng thú học tiếng mẹ đẻ, làm tiền đề cho trẻ thích ứng với việc đọc, viết ở lớp Một Thông qua việc cho trẻ làm quen chữ cái, chữ viết, vốn từ của trẻ được nâng cao, trẻ được tập nghe để phân biệt và tập phát âm các âm của tiếng việt, được làm quen với hình dáng, cách sắp xếp các chữ thành từ, cách phát âm được ghi lại bằng chữ cái. Cho trẻ làm quen chữ viết và chữ cái còn giúp trẻ hình thành và rèn luyện một số kỹ năng như cầm bút, cầm sách, mở từng trang sách, tư thế ngồi của học sinh....Nhờ vậy, trẻ được hình thành dần một số kỹ năng cần thiết cho việc học Tiếng Việt ở lớp Một. Tuy nhiên đã có nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học và các chuyên gia giáo dục đưa ra kết luận: Không nên dạy trước cho trẻ em 5 tuổi biết đọc, biết viết vì ở lứa tuổi này, cơ quan thần kinh của trẻ phát triển chưa toàn diện, cơ xương tay còn yếu, chưa phù hợp, bán cầu não phải của trẻ phát triển rất mạnh, giúp trẻ phát huy những môn năng khiếu như múa, hát, kể chuyện, đọc thơ còn bán cầu não trái, nơi tiếp thu những quy định, những kiến thức về văn hoá phát triển chậm hơn. Mặt khác, bên cạnh những lý do về sức khoẻ để không nên cho trẻ tập viết vào lứa tuổi mầm non, còn có những lý do về tâm lý như: nếu biết đọc, biết viết trước, trẻ sẽ không còn cảm giác bỡ ngỡ, thú vị với những kiến thức được học vì "mình đã biết trước hết rồi", lâu dần trẻ mất hứng thú trong học tập và thờ ơ với ngay cả những kiến thức nâng cao khác nữa. Tuy nhiên, cũng không thể phủ nhận một điều rằng nếu trẻ biết viết trước khi vào lớp Một sẽ khiến các em cảm thấy tự tin và không mấy vất vả trong việc học các chữ cái, ghép vần khi vào chương trình học chính thức ở tiểu học. Nhưng một vài năm gần đây, hiện tượng cha mẹ cho con đang ở độ tuổi chuẩn bị vào lớp Một (5 -6 tuổi) đến học công khai tại các "lò" dạy thêm, nhất là trẻ ở khu vực thành phố. Vì sao lại có hiện tượng đó? Thứ nhất là một phần do nhu cầu các bậc cha mẹ. Với tâm lý lo lắng thái quá, muốn chuẩn bị kỹ càng cho con trước khi đi học nên một số người đã cho con đi học sớm. Và sau đó nhiều người khác cũng lo sợ con mình bị tụt hậu, không theo kịp bạn đã biết chữ. Thứ hai là một số giáo viên tiểu học hiện nay mặc nhiên cho rằng trẻ vào lớp Một là đã biết đọc, biết viết và làm được một số phép tính cộng trừ đơn giản. Thêm vào đó những học sinh không học trước chương trình trở thành học sinh cá biệt, tâm lý hoang mang khi các bạn biết hết mà mình chưa biết, thậm chí còn bị giáo viên phân biệt đối xử nếu giáo viên đánh đồng trình độ theo số đông học trò. Vì vậy, khi trẻ lên 5 -6 tuổi học lớp mẫu giáo lớn, nhiều cha mẹ thường tìm đến các cô tiểu học gửi trẻ sau giờ đón các cháu ở trường mầm non về. Trước thực trạng đó, ngày 28 tháng 6 năm 2013, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Chỉ thị số 2325/CT trong đó yêu cầu “Tuyệt đối không tổ chức dạy trước chương trình lớp Một cho trẻ, không yêu cầu trẻ tập tô, tập viết chữ”. Chỉ thị được ban hành, nhiều ý kiến đưa ra. Có ý kiến đồng thuận, cho rằng trẻ 5- 6 tuổi đang tuổi ăn, tuổi chơi tại sao lại bắt trẻ học đọc-viết sớm. Nên hoàn toàn ủng hộ việc cấm dạy trẻ tập tô, tập viết chữ. Nhưng có ý kiến cho rằng giáo dục mầm non là giai đoạn quan trọng trong giáo dục. Trong giai đoạn này trẻ sẽ phát triển mạnh về nhận thức và trẻ học rất nhanh trong giai đoạn này. Vậy tại sao lại cấm dạy trẻ tập tô viết chữ? Tuy nhiên, chúng ta phải hiểu rõ chỉ thị của Bộ Giáo dục là “Tuyệt đối không tổ chức dạy trước chương trình lớp Một cho trẻ, không yêu cầu trẻ tập tô, tập viết chữ”. Tức là chúng ta vẫn có thể dạy chữ cho trẻ. Như trong chương trình giáo dục mầm non hiện nay có nội dung giúp trẻ hình thành những thành tố cơ sở cho viết chữ và đọc, đó là: nhận dạng chữ cái, làm quen với hướng đọc, hướng viết, tô, đồ các nét chữ, sao chép một số ký hiệu, chữ cái, tên của mình….các hoạt động để phát triển của các cơ tạo sự vận động khéo léo của bàn tay… Đây là những kỹ năng cần thiết để trẻ sẵn sàng vào lớp Một, chúng tôi cho rằng nên dạy trẻ những kỹ năng trên, hình thành cho trẻ sự hứng thú với đọc, viết. Việc dạy trẻ biết chữ trước khi vào lớp Một là cần thiết, nhưng tôi muốn làm rõ việc cho trẻ làm quen với chữ viết ở đây là không dạy theo kiểu “tiểu học hoá”. Phương án 0 tuổi của Giáo sư Phùng Đức Toàn (Trung Quốc) đã chỉ rõ cơ sở khoa học của vấn đề này. Theo ông, dạy chữ sớm cho trẻ sẽ tận dụng sự chú ý vô thức, rèn luyện khả năng quan sát, bồi dưỡng trí nhớ, phát triển khả năng tư duy và khả năng tưởng tượng, vun đắp tính cách tốt đẹp và bồi dưỡng niềm yêu thích đọc sách, bồi dưỡng khả năng và thói quen tự học cho trẻ. Ông cho rằng trước khi vào tiểu học, trẻ nên bắt đầu học cả 2 ngôn ngữ thính giác (nghe - nói) và ngôn ngữ thị giác (đọc viết). Những đứa trẻ được học cả 2 loại ngôn ngữ từ sớm, tư duy sẽ phát triển. Nhận thấy tầm quan trọng của hoạt động cho trẻ làm quen với chữ cái, chữ viết tiếng việt đồng thời đáp ứng được nguyện vọng của các bậc phụ huynh Ban giám hiệu nhà trường đã chỉ đạo bộ phận chuyên môn thực hiện việc thực hành các hoạt động dạy trẻ chữ cái nhằm giúp giáo viên nắm bắt quá trình chuyển tiếp cho trẻ mầm non lên tiểu học. Trước khi tiến hành các hoạt động dạy chuyển tiếp bản thân tôi nhận thấy việc cho trẻ làm quen với chữ viết ở trường mầm non hoàn toàn khác với học sinh tiểu học ở chỗ: Một là về tính chất không giống nhau: Trẻ mẫu giáo nhận biết chữ thông qua quá trình hoạt động rất tự nhiên, giáo viên lấy việc bồi dưỡng sự chú ý, hứng thú của trẻ với chữ và sách, từ đó nắm được công cụ ngôn ngữ thị giác làm xuất phát điểm. Còn học sinh tiểu học học chữ, học đọc là một phần truyền thụ tri thức văn hóa có hệ thống, nó quy định chặt chẽ bởi mục tiêu, nhiệm vụ, tiến độ và tài liệu dạy học. Mục tiêu của mỗi giai đoạn nhất định phải được hoàn thành và là yêu cầu chung cho tất cả học sinh tiểu học, không có sự phân biệt. Hai là tiêu chuẩn học chữ không giống nhau. Đối với trẻ nhỏ, từng phương diện âm, hình, nghĩa đều phải có yêu cầu khác nhau. Trẻ chỉ cần có ấn tượng và hiểu từng bước, sau đó sẽ đọc một cách tự nhiên. Còn đối với học sinh tiểu học, việc học chữ phải tiến hành “bốn kỹ năng kết hợp”, tức là nhận rõ mặt chữ, đọc chuẩn âm, hiểu ý nghĩa của chữ và biết viết. Tập tô các nét chữ ở mầm non nhằm mục đích luyện tập vận động của ngón tay, bàn tay, phát triển sự phối hợp cảm giác - vận động, làm quen với việc cầm bút, đặt vở, ngồi đúng tư thế, phát triển hứng thú với việc viết chữ chứ không nhằm hình thành kỹ năng viết chữ như ở lớp Một. Ba là, tài liệu và phương pháp dạy học khác nhau: Học sinh tiểu học học chữ trên lớp phải theo trình tự nhất định chứ không được tự ý thay đổi. Còn khi phát triển ngôn ngữ viết cho trẻ mầm non, tính linh hoạt, đa dạng của tài liệu, trang thiết bị và phương pháp dạy học chú ý tính hứng thú, thậm chí có thể tự ý thay đổi bất kỳ lúc nào, đặc biệt chú trọng đến yếu tố khích lệ động viên. Mỗi một trẻ có nhu cầu riêng. Chương trình Giáo dục mầm non không dạy trẻ những kỹ năng đọc viết thật sự, mà dạy trẻ những kỹ năng cơ bản như xem tranh, mô tả tranh, kể chuyện theo tranh, biết ngồi đúng, biết cách cầm bút tô, đồ. Từ sự chỉ đạo của nhà trường cũng như những nhận định của bản thân về tầm quan trọng của việc cho trẻ làm quen với việc nói, đọc, viết ở trẻ 5-6 tuổi bản thân tôi đã luôn tham gia đầy đủ các đợt hội thảo, tập huấn, tiến hành dạy thể nghiệm, dạy góp ý để rút kinh nghiệm trong cách tổ chức, thực hiện. Trong quá trình đó tôi nhận thấy một số thuận lợi và cũng còn nhiều khó khăn, vướng mắc. Chính vì vậy, tôi đã quyết định chọn đề tài: “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ “đọc, viết” cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non” 1.2. Điểm mới của đề tài, sáng kiến, giải pháp: Trên thực tế sẽ có đồng nghiệp đã viết về đề tài này. Tuy nhiên mỗi đề tài đề cập đến những khía cạnh khác nhau của việc phát triển ngôn ngữ “đọc, viết” cho trẻ phù hợp với tình hình thực tế ở từng đơn vị. Bên cạnh đó, qua việc vận dụng đề tài này vào thực tiễn rất nhiều giáo viên tỏ ra đam mê, yêu thích. Đặc biệt đối với trẻ có sự chuyển biến thật sự về kỹ năng nghe, nói, đọc, viết.Từ đó, trẻ tự tin, mạnh dạn, chủ động trong mọi hoạt động hơn. Điểm mới của đề tài: Tôi đã sử dụng một số biện pháp mới có tính khả thi cao, phù hợp với tình hình của nhà trường, tác động và có hiệu quả rất lớn về phát triển ngôn ngữ “đọc, viết” cho trẻ 5-6 tuổi trong toàn trường. 1.3. Phạm vi áp dụng đề tài, sáng kiến: Đề tài “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ “đọc, viết” cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non” được áp dụng cho các lớp thực hiện chương trình 5 - 6 tuổi trong nhà trường, sau đó áp dụng rộng rãi cho các đơn vị có điều kiện, đặc điểm tình hình giống trường mầm non chúng tôi. Hệ thống các giải pháp tôi đưa ra sau đây nó mang tính thực thi cao, phù hợp với điều kiện cơ sở vật chất, đặc thù vùng miền, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của trẻ 5-6 tuổi, phù hợp với nội dung chương trình chăm sóc giáo dục trẻ trong giai đoạn hiện nay. 2. Phần nội dung: 2.1. Thực trạng của nội dung cần nghiên cứu: Như chúng ta đã biết, ngôn ngữ là công cụ giao tiếp quan trọng của con người, thông qua ngôn ngữ con người có thể hiểu nhau, trao đổi với nhau những thông tin cần thiết. Đối với trẻ ngôn ngữ là công cụ giúp trẻ hoà nhập vào thế giới xung quanh, là cơ sở để hình thành và phát triển nhân cách toàn diện cho trẻ. Qua thời gian nghiên cứu đề tài, bản thân tôi gặp một số thuận lợi và khó khăn như sau: 2.1.1. Thuận lợi: Trong những năm học vừa qua, Phòng giáo dục đã tổ chức một số đợt chuyên đề, tập huấn nhằm giúp giáo viên rút kinh nghiệm trong quá trình cho trẻ làm quen với môi trường đọc, tập tô. Trong năm học 2017-2018 cũng như năm học này tôi được nhà trường phân công đứng lớp 5-6 tuổi, bản thân luôn được ban giám hiệu nhà trường quan tâm tạo điều kiện về cơ sở vật chất, các thiết bị phục vụ giảng dạy và cho trẻ làm quen. Bên cạnh đó, nhà trường đã tạo điều kiện xây dựng các hoạt động làm quen chữ cái áp dụng hình thức dạy chuyển tiếp cho giáo viên đứng lớp 5-6 tuổi học hỏi. Bản thân là một giáo viên có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, luôn yêu nghề mến trẻ, nhiệt tình trong công việc, luôn nâng cao vai trò tự học tập, nghiên cứu, tìm tòi những phương pháp đổi mới trong quá trình giảng dạy, chịu khó học hỏi, sách báo và ứng dụng công nghệ thông tin. Bản thân tự trang bị cho mình phương tiện dạy học tốt: Máy tính xách tay, 3G. Tôi cũng tham gia những hoạt động dạy kiến tập, dạy thể nghiệm để đúc rút kinh nghiệm. 2.1.2. Khó khăn: Mặc dù đã có nhiều thuận lợi nhưng trong việc tổ chức cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi tiếp cận với môi trường chữ cái, chữ viết làm tiền đề cho việc chuyển giao cho trẻ lên tiểu học tại lớp học của tôi còn gặp rất nhiều khó khăn. * Về phía giáo viên: - Khi thực hiện chương trình đổi mới hình thức tổ chức dạy trẻ 5 tuổi. Giáo viên thường quan tâm nhiều đến đồ dùng đồ chơi phục vụ cho hoạt động có chủ đích, chưa chú ý đến việc tạo môi trường chữ xung quanh trẻ. + Có những tuýp chữ để từ đầu năm, đến cuối năm không thay đổi, vì vậy không tạo được cảm giác mới mẻ để kích thích tính tò mò khám phá của trẻ. + Chữ cho trẻ làm quen chủ yếu là chữ in thường, còn chữ in hoa và chữ viết thường chỉ được giới thiệu qua trong hoạt động có chủ đích, vì vậy chữ in hoa và chữ viết thường trẻ rất hay nhầm lẫn. + Việc khai thác công nghệ thông tin và trò chơi lấy ý tưởng trong chương trình kidsmart, chương trình happykis, chương trình tự thiết kế tạo nguồn dữ liệu... còn hạn chế. * Về phía trẻ: - Việc nhận biết làm quen chữ in hoa và chữ viết thường là rất yếu. - Hầu hết trẻ không nhận được thứ tự của các chữ cái trong từ. - Trẻ chưa hiểu mối quan hệ giữa từ và lời nói. * Về phía phụ huynh: - Chưa phối kết hợp với giáo viên để dạy theo một phương pháp nhất định. - Chưa hiểu được việc tạo môi trường chữ xung quanh trẻ có tác dụng quan trọng trong việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5 tuổi như thế nào. 2.1.3. Nguyên nhân của thực trạng trên: Qua trao đổi với các đồng nghiệp và tìm hiểu thực tế ở trường, bản thân tôi nhận thấy sở dĩ có thực trạng trên là do một số nguyên nhân sau: Trẻ chưa hứng thú tích cực học tập và hứng thú đó không theo trẻ suốt quá trình học. Trẻ tiếp thu kiến thức khá khó khăn và rất chóng quên. Một trong những nguyên nhân đứng đầu chính là môi trường chữ viết chưa phong phú; các đồ dùng, đồ chơi không hấp dẫn trẻ; những trò chơi cho trẻ làm quen chưa có nhiều, phương pháp và hình thức tổ chức của giáo viên chưa linh hoạt, sáng tạo. Nhận thức của một số phụ huynh về hoạt động Làm quen chữ cái chưa được đề cao. 2.1.4. Quá trình điều tra thực tiễn: Ngay từ đầu năm học, tôi tiến hành khảo sát kết quả trên trẻ để đánh giá thực chất về tính tích cực, chủ động sáng tạo của từng cá nhân trẻ thể hiện ở trên tiết học. Tôi đánh giá các mức độ: Đạt hay chưa đạt để từ đó có kế hoạch bồi dưỡng cụ thể như sau: Mức độ Tổn Đạt Chưa Số T đạt Số Tỉ lượn ỉ lượn lệ g lệ g % 12 % 3 22 6 13 5 3 21 5 6 12 9 3 22 2 6 14 5 4 20 5 5 15 2 4 19 8 5 g số Tiêu chí Trẻ nhận biết và phát âm đúng chữ cái Tiếng Việt trẻ 34 Số trẻ nhận chữ cái trong từ và ghép đúng các chữ 34 thành từ có hình ảnh Số trẻ nhận biết chuẩn chữ in hoa, in thường, viết 34 thường Số trẻ ghi nhớ và "đọc" các từ có hình ảnh kèm theo 34 Biết cách cầm sách, mở sách ra xem và quy trình 34 đọc 5 5 Từ thực trạng đó, tôi suy nghĩ phải làm gì và làm như thế nào để giúp trẻ phát triển ngôn ngữ, đặc biệt có kiến thức cơ bản về làm quen với chữ viết, để trẻ tự tin khi bước vào trường tiểu học thật tốt. Đi tìm lời giải đó là cả quá trình không đơn giản. Từ thực tế giảng dạy, kết hợp với học tập nghiên cứu tài liệu và học tập bồi dưỡng chuyên đề do ngành chỉ đạo. Tôi đã rút ra được một số biện pháp thực hiện đạt kết quả tốt trong việc dạy trẻ ôn tập củng cố khả năng nhận biết từ và chữ cái Tiếng Việt thông qua việc tạo môi trường chữ xung quanh trẻ và đổi mới phương pháp giảng dạy trẻ. 2.2. Các biện pháp thực hiện: 2.2.1.Tạo môi trường chữ viết phong phú. Môi trường giáo dục trong lớp có tác dụng tốt đến quá trình giáo dục trẻ. Để trẻ được làm quen với chữ ở mọi không gian trong và ngoài lớp, cô giáo cần tạo môi trường chữ viết phong phú, hấp dẫn trẻ. Việc tạo môi trường trong lớp nên bám sát nội dung giáo dục của các chủ đề sẽ tạo điều kiện cho giáo viên trong việc tận dụng môi trường để tổ chức các hoạt động giáo dục trẻ. * Vì sao phải tạo môi trường chữ trong lớp học? Như chúng ta đã biết đối với trẻ mầm non lớp học chính là mái nhà thứ hai của trẻ. Cảm giác đầu tiên khi bé bước vào cửa lớp, phản xạ tự nhiên của bé là nhìn xung quanh xem có những gì và có đẹp không, đặc biệt những gì mới lạ? Vì vậy, các mảng chính trong lớp học đó là mảng chủ điểm, các góc hoạt động là đối tượng đầu tiên khi trẻ bước vào lớp. Để trẻ hứng thú với các mảng hoạt động, tôi đã tập trung trẻ cùng tham gia thảo luận dưới dạng kể chuyện sáng tạo. Cuối cùng cô và trẻ đi đến thống nhất chọn tên của từng góc chơi mỗi khi chuyển chủ điểm mới. Các tuýp chữ, có tên gọi ngây thơ, ngộ nghĩnh, gần gũi trẻ và bắt buộc phải có hình ảnh minh hoạ cho các tiêu đề ấy. Như vậy sẽ thu hút được sự chú ý của trẻ, từ đó mục đích ôn luyện chữ đã học, cung cấp vốn từ cho trẻ đạt hiêụ quả tối đa. Ví dụ: Chủ điểm ngành nghề: Tôi và trẻ cùng trò chuyện về chủ điểm ngành nghề, sau đó cô hướng trẻ vào câu chuyện: Tại cửa hàng búp bê có rất nhiều thứ, nào là đồ dùng cô giáo như: phấn, bảng, bút, vở, ...nào là đồ dùng bác thợ mộc, thợ xây...Búp bê rất muốn chúng mình đặt tên cho cửa hàng của búp bê đấy, nào chúng mình cùng nghĩ ra một cái tên nhé! Trẻ nghe, suy nghĩ và đưa ra ý kiến của mình như: cửa hàng của búp bê, siêu thị mi ni, siêu thị của búp bê, búp bê bán hàng...với nhiều cái tên ngộ nghĩnh như vậy và cả quá trình cô đàm thoại với trẻ. Chính lúc đó, trẻ đã tư duy xem mình đã bao giờ được đi siêu thị chưa, đã nghe thấy cái tên đó chưa và ngẫu nhiên cô đã cung cấp vốn từ cho trẻ. Hay với các góc khác cũng vậy, cô và trẻ cùng đàm thoại, thoải mái trao đổi để đặt tên như: kiến trúc sư tí hon, bé tập làm thợ xây, ngôi nhà mơ ước, thành phố tương lai...( đối với góc xây dựng). Từ những tên gọi gần gũi với trẻ mà chính cô và trẻ đặt tên, đã kích thích trẻ ghi nhớ từ đó lâu hơn, và trẻ đã phần nào hiểu về từ đó. Khi trang trí tên gọi các góc, tôi thường lựa chọn cỡ chữ cho phù hợp với góc, dán chữ ở độ cao vừa tầm nhìn của trẻ để trẻ dễ nhìn thấy. Đặc biệt kiểu chữ phải chuẩn, hầu hết các chữ này tôi thường để ở dạng chữ in thường, với màu sắc đẹp phù hợp với mảng hoạt động và hình ảnh minh hoạ của góc. Còn mảng hoạt động của trẻ ở phía dưới tôi thường gài nhựa trong, các chữ rời với mẫu chữ khác nhau như chữ in thường, viết thường, chữ in hoa để trẻ cùng bắt chước cô ghép tên góc. Khi chơi tôi thường hỏi chữ cái đầu tiên của từ là chữ gì? Chữ cái nào trong từ đã học rồi? Làm như vậy trẻ nhớ các từ đó rất lâu và lại một lần nữa trẻ được luyện phát âm, đặc biệt có trẻ đã thao tác ghép chữ nhiều lần thành quen và đã tự ghép mà không cần mẫu của cô. Ngoài ra tôi thường thay đổi tên gọi hình ảnh và các góc cho phù hợp với từng chủ điểm và tạo sự mới mẻ khoảng không gian hấp dẫn mỗi khi trẻ đến lớp: VD: Góc gia đình: Tôi thống nhất với trẻ đặt tên góc: “Tổ ấm gia đình”, “mái ấm 5A”...Trẻ được làm quen với từ " tổ ấm", và biết được từ " tổ ấm" có chữ cái đầu tiên là chữ T, chữ đã học là chữ: ô,a... Nhưng với chủ điểm ngành nghề: tôi và trẻ lại thỏa thuận nhất trí đưa ra tên: “bé tập làm nội trợ, bé nấu ăn”...ở đây trẻ được cung cấp thêm từ: “nội trợ” và từ; “nấu ăn”. Trẻ được ghép hoặc chép từ, được biết chữ cái đầu tiên của từ mới đó, biết thứ tự trong từ và ghép hoàn chỉnh các từ mới đó. Như vậy, qua mỗi chủ điểm tôi lại cung cấp thêm cho trẻ nhớ và tự biết được nhiều từ mới và ôn luyện nhiều chữ cái đã học. * Phát triển ngôn ngữ và làm giàu vốn từ cho trẻ qua việc gắn tên, gắn ký hiệu vào các đồ dùng đồ chơi trong lớp và các giá góc: Như chúng ta đã biết, đặc điểm tâm lý của trẻ mầm non là “dễ nhớ dễ quên”. Vì vậy, các kiến thức mới cung cấp cho trẻ, nếu không thường xuyên ôn luyện trẻ sẽ nhanh chóng quên ngay khi lĩnh hội kiến thức khác. Mặt khác, khi trẻ hoạt động trẻ thường cất đồ dùng đồ chơi nhanh nhưng không ngăn nắp, giáo viên thường mất nhiều thời gian sắp xếp lại đồ chơi cho trẻ sau khi chơi. Như vậy rất vất vả cho cô mà trẻ lại không có thói quen lao động tự phục vụ. Đặc biệt không được làm quen với tên gọi các từ, hay các chữ cái Tiếng Việt ghép thành từ đó. Để khắc phục tình trạng này, tôi xếp đồ dùng đồ chơi trên giá góc gọn, đẹp, khoa học, sao cho trẻ dễ lấy, đễ cất, các đồ dùng trên giá phải tuân theo một trật tự nhất định. Khi gắn tên cho đồ chơi tôi thường đàm thoại với trẻ: VD: Với đồ chơi; con thỏ, cái làn, ti vi,... Tôi hỏi trẻ đây là cái gì? chúng mình nhìn xem cô viết (hoặc ghép ) từ “thỏ”cho chúng mình xem nhé! Chữ cái đầu tiên trong từ “con thỏ”là chữ gì?...Cứ như vậy tôi cho trẻ tri giác trọn vẹn từ “con thỏ” và các chữ cái còn lại trên giá đồ chơi. Nhiều lần như vậy, trẻ ghi nhớ và thuộc các ký hiệu các chữ cái và sắp xếp thành từ có thể trẻ tự đọc được. Đối với các ngăn giá góc, tôi vẽ ký hiệu đồ dùng đồ chơi kèm theo từ (tên gọi của đồ dùng) và giới thiệu với trẻ: Khi chơi tôi thường trò chuyện với trẻ: Đây là khối gì? dưới khối chữ nhật có từ: “khối chữ nhật” và trong từ “khối chữ nhật”có chữ cái nào đã học, chữ cái nào chưa học? chữ cái đầu tiên của từ là chữ K, sau đó đến chữ h, tiếp đó là... Như vậy, hàng ngày trẻ được chơi được nhìn thấy từ, thứ tự các chữ cái trong từ, dần dần trẻ thuộc từ đó, có thể tự viết hoặc ghép chữ cái rời thành từ đó và phát âm, “đọc” rất thành thạo. Việc ghép tên các đồ vật đồ chơi trong lớp không những tác động lên giác quan của trẻ để nhớ các chữ-các từ lâu và chính xác mà còn giúp cho hoạt động có chủ đích phát triển ngôn ngữ làm quen với chữ viết được ôn luyện củng cố một cách thoải mái nhẹ nhàng. VD: Trong chủ điểm gia đình: cô dạy trẻ làm quen chữ: a, ă ,â. Khi tổ chức hoạt động có chủ đích, tôi cho trẻ ôn bằng cách: Tôi chuẩn bị các đồ vật có gắn từ tương ứng như: cái làn, cái bàn, ấm pha trà...Tôi yêu cầu trẻ tìm chữ vừa học (a, ă, â) trong các từ gắn với đồ vật ở xung quanh lớp. Và như vậy trẻ hoạt động rất tích cực, vận động thoải mái và tập trung chú ý cao độ để trẻ tìm thấy chữ đã học trong “thế giới của người lớn”. Ra ngoài cuộc sống gặp những hình ảnh, băng rôn, các từ, các chữ...trên đường phố trẻ sẽ tự tin hơn, mở rộng hiểu biết hơn về từ, chữ Tiếng Việt cho trẻ. Qua các chủ điểm, mỗi khi thay đổi đồ dùng đồ chơi, thay đổi các tiêu đề trên giá đồ chơi, tôi lại giới thiệu cho trẻ đồ dùng đồ chơi mới, giới thiệu chữ mới, từ mới. Kết hợp áp dụng thực tế bên ngoài xã hội, cùng với việc giới thiệu chữ cái của cô, trẻ có thể đọc được nhiều từ trong sách báo và thực tế. Và tôi thấy rằng đó thực sự là môi trường cho trẻ hoạt động phong phú và có hiệu quả. * Tạo cơ hội để trẻ được tiếp xúc với nhiều chữ thông qua các biểu bảng, danh sách lớp phân theo nhóm, tổ trong lớp học: Ngay từ đầu năm học, khi đã ổn định danh sách lớp, tôi tạo cơ hội để trẻ tiếp xúc với chữ, với từ, tên của mình bằng cách: Viết các danh sách của 4 tổ có kèm theo ký hiệu để trẻ biết tên mình ở tổ nào, có những bạn nào trong tổ của mình. Chữ của trẻ tôi thường viết ở dạng chữ in thường và chữ viết hoa ( vì đây là tên riêng). Trẻ được khắc sâu hình ảnh tên của mình và được làm quen với chữ viết thường và chữ viết hoa, trẻ có thể quan sát tập chép theo mẫu vào giờ hoạt động góc và giờ đón trẻ. Và trẻ nhận ra tên mình trong các ký hiệu của sách, vở, tập tô, khăn, trực nhật... Với các biểu bảng tôi nghĩ đây cũng là khoảng không gian không nhỏ tác động đến trẻ. Vì vậy, tôi đã trang trí tên gọi bằng chữ cái Tiếng Việt cơ bản để hàng ngày trẻ nhìn thấy, trẻ nhận mặt chữ và ghi nhớ các từ trong bảng và biết bảng đó là bảng gì có chữ gì, từ gì? VD: Bảng trực nhật, bảng theo dõi thời tiết, bảng điểm danh, biết hôm nay là thứ mấy ngày bao nhiêu, thời tiết như thế nào? Tận dụng tối đa không gian còn trống ở lớp như các ô cửa để tạo môi trường chữ cái rời với các kiểu chữ khác nhau: chữ in thường, chữ in hoa, chữ viết thường. Trẻ sẽ thường xuyên được tiếp xúc hình ảnh, nhận biết các dạng chữ khác nhau, giúp trẻ không thấy bỡ ngỡ khi bước vào lớp Một. Môi trường ngoài lớp học cũng là một không gian rất quan trọng để giúp trẻ tìm hiểu về các chữ cái: tranh tuyên truyền, hình ảnh mảng tường, các nội dung chơi, ... có gắn các chữ cái cũng là điều kiện cho trẻ được củng cố, khắc sâu về chữ viết và mở rộng vốn từ. Ví dụ: tên các con vật ngộ nghĩnh được viết tách rời. Trẻ vừa tìm hiểu được các chữ cái rời trong tên các con vật vừa tìm hiểu thứ tự các chữ cái trong tên gọi đó. Sự ngộ nghĩnh của các con vật, với màu sắc tươi sáng luôn là điểm thu hút trẻ tìm tòi, khám phá. Chính vì điều đó nên tôi đã thiết kế môi trường ngoài lớp học với những hình ảnh ngộ ngĩnh của các con vật đáng yêu xung quanh bé với hi vọng giúp trẻ biết thêm và khắc sâu những chữ cái đã học. Thực tế cho thấy trẻ đến trường ngoài hoạt động có chủ đích, hoạt động ăn, hoạt động ngủ, còn các thời gian khác trẻ hoạt động với môi trường bên ngoài như: góc thiên nhiên, mảng tuyên truyền, khu vực để đồ dùng cá nhân của trẻ. Đây là nơi trẻ thường xuyên hoạt động nên có tác dụng ôn tập củng cố chữ cái và từ rất tốt. Nơi để đồ dùng cá nhân của trẻ như: mũ, ba lô, giày dép, khăn mặt,...Tôi luôn gắn ảnh kèm theo tên của trẻ. Như vậy, hàng ngày trẻ cất đồ dùng hoặc sử dụng đồ dùng vừa đúng qui định, vừa biết tên của mình (của bạn), biết tên của mình có chữ gì? Biết thứ tự của từng chữ từ trái sang phải của các chữ như thế nào?Và trẻ còn viết tên của mình vào bài vẽ khi vẽ tạo hình. Mỗi một môi trường hoạt động của trẻ, tôi đều chủ động tạo môi trường để trẻ có cơ hội được luyện phát âm, ôn luyện chữ đã biết, làm quen chữ mới và làm quen từ một cách rất tự nhiên thoải mái không gò bó áp đặt trẻ. Khu vực tuyên truyền ngoài lớp học của trẻ là nơi không những tạo môi trường chữ cho trẻ mà còn mang tính tuyên truyền đến các bậc phụ huynh để phụ huynh hiểu biết về chữ mà con em mình đang học. Và từ đó phối kết hợp ôn luyện tại gia đình. Tránh trường hợp cô dạy chữ đúng phụ huynh lại dạy chữ chưa đúng. Chữ x đọc là “xờ”, chữ s đọc là “sờ”, nhưng có ông bà lại dạy là “ích xì” và “ét xì”. Hay chữ l, n, lại đọc là “e lờ” và “e nờ”...Và nếu không thống nhất trẻ sẽ giao động không biết như thế nào là đúng, hơn nữa nếu đã đọc sai thì rất khó sửa. Xác định được điều đó, mỗi góc tuyên truyền tôi đều có hình ảmh kèm theo chữ in hoa, in thường, viết thường ( chủ yếu là chữ in thường), tuyệt đối không viết chữ cách điệu, bay nhảy. Hay tên chủ điểm viết dạng: “thế giới thực vật”, các tranh ảnh cỏ cây hoa lá. ...có kèm theo từ để trẻ có thể phát âm, tự đọc. Ngoài ra tôi cho trẻ một mảng hoạt động để hàng ngày trẻ tập ghi số điện thoại, chép tên mình và địa chỉ cá nhân của mình...Từ đó trẻ ghi nhớ các từ, chữ, tên của mình của bạn, biết nhà bạn hoặc nhà mình ở đâu?... Góc thiên nhiên ngoài trời: Đây là nơi trẻ được tiếp xúc mọi lúc mọi nơi, mọi thời điểm trong ngày. Tạo môi trường chữ có kèm hình ảnh không những cho trẻ hiểu về thế giới các loài cây, loài hoa, biết các giai đoạn phát triển của cây, hiện tượng thử nghiệm khoa học...mà còn có thể ghi chép hiện tượng mà trẻ theo dõi hàng ngày. VD1: Tôi gắn tiêu đề cho góc : “vườn ươm cây cảnh” và tôi làm các biển cắm có chữ ghi tên cây có kèm hình ảnh. Khi cho trẻ tri giác chữ từ dưới mỗi hình ảnh trong biển cắm tôi đều yêu cầu trẻ tìm đúng từ “cây hoa cúc” gắn vào cây hoa cúc, và các loại cây khác cũng vậy, trẻ biết tên, chữ, từ, của cây đó, tập “đọc”tên các cây mà trẻ đã tìm đúng. VD2: Tôi chuẩn bị các mảnh rời và yêu cầu trẻ ghi chép lại sự phát triển của cây đó theo đúng thứ tự. Và như vậy trẻ được tri giác chữ - từ có hình ảnh tương ứng, trẻ lại được ôn luyện chữ cũ và được làm quen chữ mới ngay cả trong khi chơi, ngôn ngữ của trẻ phát triển, vốn từ của trẻ được mở rộng thêm. 2.2.2. Thu hút trẻ tham gia tạo môi trường chữ trong góc học tập, góc sách nhằm phát huy tính tích cực hoạt động của trẻ: Để phát huy tính tích cực của trẻ trong góc chơi, đặc biệt là góc thư viện. Đây là nơi trẻ được tiếp xúc nhiều với chữ cái, và rèn luyện kỹ năng tiền biết đọc, biết viết của trẻ như: cách lật giở sách, cách đưa mắt từ trái sang phải khi đọc, hoặc các từ mới như: tên truyện, tên các trang bìa, tên các album tự tạo....với các mẫu chữ khác nhau. VD1: Cô tạo cơ hội cho trẻ được hoạt động với truyện, thơ, tranh chữ to có sẵn, tự tạo... trẻ được xem tranh, tập kể chuyện, tập “đọc” chữ to trong truyện...và như vậy một lần nữa trẻ mở rộng vốn từ, phát triển ngôn ngữ, trẻ như được hoà nhập với thế giới của người lớn. Khi trẻ tiếp xúc với các loại sách, báo, tạp chí...có nhiều kiểu chữ khác nhau ở bất kỳ nơi nào trẻ cũng rất tự tin và có thể tự mình khám phá nội dung. VD2: Cô tổ chức cho trẻ cùng làm album và truyện tranh chữ to theo chủ điểm. Nếu là chủ điểm “Một số phương tiện và quy định giao thông” cô và trẻ sưu tầm album về các phương tiện: xe đạp, máy bay, tàu thủy,...Tôi yêu cầu trẻ tìm các chữ trong hoạ báo cắt và ghép từ “xe đạp”, “máy bay”, “tàu thủy”...dán dưới hình ảnh các phương tiện tương ứng. Một điều tôi luôn lưu ý nhắc trẻ là phải ghép chữ lần lượt từ trái sang phải, hết chữ này đến chữ khác, hết từ này đến từ khác bên cạnh phía phải và sau đó tôi yêu cầu trẻ phát âm các chữ, “đọc” các từ . Để trẻ hứng thú tích cực tham gia vào hoạt động tạo hình tôi cho trẻ làm tranh: VD: Cho trẻ sưu tầm các chữ có trong hoạ báo, lịch cũ,...trẻ cắt, tô màu và cùng ghép chữ với cô để tạo thành các tuýp chữ, các tiêu đề xung quanh lớp mỗi khi thay đổi chủ điểm. Với chủ điểm “thế giới thực vật”, cô yêu cầu trẻ ghép chữ mà trẻ sưu tầm được và xếp từng chữ từ trái qua phải: chữ t rồi đến chữ h rồi đến chữ ê...Trong suốt quá trình hoạt động tích cực như vậy, bản thân trẻ lại một lần nữa khắc sâu chữ cái và từ. Trẻ được tham gia hoạt động tích cực như vậy, trẻ rất hứng thú và biết trân trọng những sản phẩm mình làm ra. Đặc biệt các chữ, các từ mà trẻ tự tay sưu tầm được, thực tế cho thấy trẻ nhớ chữ, nhớ từ rất lâu. 2.2.3. Thiết lập các trò chơi cho trẻ làm quen chữ cái. Ở góc học tập, trẻ được thực hiện những bài tập mảng tường như: Sao chép từ, vòng quay kỳ diệu, trò chơi zíc zắc, tìm chữ cái đã học trong bài thơ - đồng dao - ca dao; các bài tập mặt sàn như xếp chữ cái từ bảng chun, hột hạt, ghép các nét rời thành chữ cái hoàn thiện…Thông qua các dạng bài tập trẻ nhận biết mặt chữ, biết thứ tự chữ cái trong từ và biết cách phát âm chữ cái-từ trọn vẹn. Ví dụ: Trò chơi “Sao chép từ” Chuẩn bị: Tranh có chứa từ mẫu, các thẻ chữ cái rời. Tiến hành: Cô cho trẻ tri giác các bức tranh và phát âm các từ dưới tranh, tách các chữ cái trong từ và phát âm từng chữ. Sử dụng chữ cái rời ghép thành từ hoàn chỉnh. Qua trò chơi này trẻ nhận biết từ hoàn chỉnh, các chữ cái có trong từ và thứ tự các chữ cái đó, giúp trẻ ghi nhớ từ lâu hơn. Ở góc sách, số lượng và chủng loại sách được lựa chọn phù hợp với trẻ, luôn dành các mảng tường mở với các bài tập sáng tạo, tái tạo để cho trẻ được làm các bài tập theo khả năng, sở thích của mình; trẻ tự in, tô vẽ các chữ đã học, tự vẽ các câu chuyện theo trí tưởng tượng sáng tạo và kể cho các bạn nghe. Ở mỗi câu chuyện cô chuẩn bị những quyển album mang tên câu chuyện với các kiểu chữ khác nhau giúp trẻ làm quen mà không cảm thấy áp lực của viêc học tập. Để rèn luyện cơ tay thuận tiện cho việc đọc viết của trẻ tôi đã tiến hành cho trẻ thực hành vẽ, tô màu nội dung câu chuyện theo trí tượng tượng của trẻ làm thành các quyển truyện tranh do bản thân trẻ tạo ra. Điều đó thúc đẩy niềm tự hào vì thành quả mà trẻ đã đạt được đồng thời trẻ được rèn luyện mà bản thân không hề hay biết. Đó chính là việc học qua chơi. Từ những bức tranh trẻ tạo ra trẻ có thể thực hành kể các câu chuyện theo ý tưởng của mình cho các bạn khác cùng nghe. Trẻ bắt đầu lật từng trang sách, kể từng nội dung, kể từ trang thứ nhất sang trang thứ hai, ba…kể từ đầu đến cuối quyển sách. Điều đó giúp trẻ hình thành thói quen giở sách, thực hành việc sử dụng sách, hoàn thành nội dung sách. 2.2.4: Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua việc làm quen công nghệ thông tin: Để đáp ứng nhu cầu nhận thức của trẻ, đồng thời thực hiện mục tiêu nhiệm vụ của nhà trường giao. Đó là việc ứng dụng công nghệ thông tin, giáo án điện tử vào giảng dạy thông qua việc khai thác trò chơi kidsmart và happykids, các nguồn dữ liệu thiết kế trên máy tính. Tôi lấy ý tưởng từ ngôi nhà sách của bailey's, trong chương trình kisdmart, tôi tổ chức cho trẻ được ôn luyện chữ bằng cách tìm tranh chứa chữ cái cô vừa dạy, tự in và gạch chân chữ vừa tìm được. Cũng ý tưởng từ ngôi nhà sách của bailey's, trong chương trình kisdmart, tôi cho trẻ ôn chữ đã học thông qua trò chơi: “đuổi hình bắt chữ”. Tôi thiết kế các hình ảnh ngộ nghĩnh phù hợp với các chủ điểm, các chữ minh hoạ cho các hình ảnh, yêu cầu khi chơi trẻ phải tìm đúng chữ với hình ảnh. VD: Hình ảnh hoa hồng ( trong chủ điểm thế giới thực vật), trẻ phải quan sát và ghi nhớ hình ảnh hoa hồng, từ “hoa hồng” có 7 chữ cái bắt đầu là chữ h, sau đó là o...trẻ tập phát âm chữ cái đó, từ đó, trẻ càng chơi nhiều lần càng nhớ lâu chữ đã học. Hay với các giờ dạy trẻ tô chữ, tôi tận dụng chương trình happykis, bằng cách cho trẻ thực hành điều khiển chuột trên máy tính để quan sát thao tác tô chữ trên máy tính với 3 kiểu chữ in hoa, in thường và viết thường. Trẻ được khắc sâu thao tác tô theo quy luật nhất định là tô từ trái sang phải, từ trên xuống dưới, trùng khít lên nét chấm mờ. Ngoài ra, tôi chủ động thiết kế tạo nguồn dữ liệu: + Dữ liệu chữ: in thường, in hoa, viết thường chuẩn của 29 chữ cái được scan và thiết kế trên powerpoint có màu sắc khác nhau: tất cả chữ in thường màu xanh, chữ in hoa màu đỏ, chữ viết thường màu vàng để trẻ dễ phân biệt. Hàng ngày giờ chơi hoạt động góc, giờ đón trả trẻ...Trẻ tự vào góc chơi theo ý thích của mình, tự dùng chuột điều khiển trò chơi: “tìm chữ”, tìm được chữ nào đọc to chữ ấy, hoặc tìm chữ theo yêu cầu của cô, của bạn, trẻ trao đổi và sửa cho nhau (nếu có). Hay tôi thiết kế trò chơi: “Bù chỗ còn thiếu”, “sắp xếp lô zích”...các đối tượng là các chữ cái mà trẻ đã được học trong các chủ đề. Như vậy, trẻ được cùng chơi, cùng ôn luyện nhẹ nhàng thoải mái. + Dữ liệu từ: sưu tầm tranh ảnh động trên mạng, scan các loại tranh ảnh tự vẽ hoặc mua đưa vào máy, phân loại theo từng chủ đề chủ điểm khác nhau. VD: Chủ điểm: “Quê hương- Đất nước- Bác Hồ”, tôi thiết kế trên máy tính các loại tranh ảnh về địa danh của Lệ Thủy như: Nhà lưu niệm Đại tướng Võ Nguyên Giáp, lễ hội đua thuyền trên sông Kiến Giang, suối Bang, lăng mộ Nguyễn Hữu Cảnh, hoặc tranh ảnh về các địa danh trong tỉnh như: Biển Nhật Lệ, Động Phong Nha, Cổng Bình Quan, tượng đài Mẹ Suốt, lăng mộ Đại tướng Võ Nguyên Giáp... Tranh ảnh về Đất nước như: phong cảnh Hà Nội, Huế, TP Hồ Chí Minh, Đà Lạt...Tranh ảnh về Bác Hồ như: chân dung Bác, Bác Hồ với các cháu, Bác Hồ đang trồng cây... dưới mỗi hình ảnh có các từ tương ứng kèm theo. Trẻ được chơi dưới hình thức chọn tranh theo yêu cầu của cô hoặc của bạn, trẻ quan sát phát âm chữ, “đọc” các từ dưới tranh và ngẫu nhiên trẻ được ôn luyện, phát triển ngôn ngữ rất nhẹ nhàng thông qua trò chơi này. Ngoài ra tôi còn thiết kế một số trò chơi nhận biết chữ cái giúp trẻ học thông qua các trò chơi trên máy vi tính dễ thao tác, dễ thực hiện: Trò chơi 1: Ô cửa kỳ diệu. + Trong các hình tam giác hãy quan sát xem những chữ cái bay vào hình tròn là chữ cái gì? Có số lượng là bao nhiêu? Trò chơi 2: Nối chữ cái giống nhau Trò chơi 3: Tìm chữ trong vườn quả. Trò chơi 4: Chọn đúng đường Đường ra cánh đồng có rất nhiều con đường khác nhau, nhưng chỉ có một con đường dành cho người đi bộ, đó là con đường u, ư. Hãy tìm con đường đó giúp bạn Thỏ? Trò chơi 5: Tìm nhóm chữ cái vừa được làm quen. 2.2.5. Đổi mới phương pháp cho trẻ làm quen với chữ cái, chữ viết. Phát huy tính chủ động, sáng tạo, vai trò trung tâm trong các hoạt động của trẻ. Để làm tốt biện pháp này bản thân tôi phải nắm bắt được trình độ và khả năng của trẻ để xác định mức độ, yêu cầu đặt ra cho phù hợp với nhận thức của trẻ và phát triển nó lên cao hơn. Theo quan điểm dạy học của Lép Vưgôtxki thì dạy trẻ là hướng trẻ đến “vùng phát triển gần nhất”. Đó là dạy trẻ cái cao hơn, xa hơn mức độ nhận thức hiện có của trẻ nhưng không nằm ngoài khả năng của trẻ. Trong quá trình dạy trẻ tôi nhận thấy trẻ hầu như đã nắm bắt được chữ cái in thường, tuy nhiên các mặt chữ in hoa, chữ viết thường trẻ chưa được tiếp xúc nhiều. Một điều cần lưu ý là mặc dù cùng cách phát âm nhưng các kiểu chữ lại có cấu tạo rất khác nhau. Vì vậy, để trẻ ghi nhớ lâu hơn thì không có cách nào khác ngoài việc thường xuyên cho trẻ tiếp xúc với chữ cái mà thôi. Để phát huy được hết những tiềm năng sẵn có của trẻ thì vai trò của cô và trẻ phải ngang bằng nhau. Trẻ hoạt động để tìm kiếm tri thức, cô là người tổ chức, định hướng các hoạt động đó. Như chúng ta đã biết, nhận thức của trẻ mầm non mang nặng tính cảm tính. Vì vậy khi cho trẻ làm quen, cách hướng dẫn của tôi được thay đổi từ chổ cô cùng trẻ tìm hiểu chữ cái theo cách cụ thể đến chổ cô để trẻ tự quan sát, trải nghiệm, tự tìm kiếm, tự phát hiện và tự tìm tri thức mới. Tôi chỉ là người hướng dẫn, chính xác hóa kiến thức trẻ thu nhận được. - Tạo tình huống và chuẩn bị hệ thống câu hỏi gợi mở phù hợp. Trong quá trình trẻ tìm hiểu, tôi cố gắng đặt ra hệ thống câu hỏi gợi mở cho trẻ (tùy theo mức độ nhận thức khác nhau: Nhóm khá-giỏi, trung bình, yếu- kém). Vào các thời điểm khác nhau: trước lúc trẻ tìm hiểu, trong khi tìm hiểu và sau khi trẻ nhận biết. Trước lúc trẻ tìm hiểu, cô đặt những câu hỏi để gây được hứng thú, đồng thời xác định được mức độ hiểu biết của trẻ về đối tượng (Câu hỏi thăm dò) để từ đó xác định mục đích của tìm hiểu. Ở phần này tôi thường đặt những câu hỏi ngắn gọn. Trong quá trình trẻ tìm hiểu cô đặt các câu hỏi nhằm mục đích tập trung sự chú ý của trẻ vào đối tượng. Những câu hỏi này xoay quanh đối tượng trẻ đang tìm hiểu (Câu hỏi vận dụng). Ở thời điểm này tôi sử dụng những câu hỏi mang tính chất khơi gợi buộc lòng trẻ phải tư duy, nhận xét, phán đoán, phân tích các hoạt động mình đang tìm hiểu, đồng thời kích thích trẻ diễn đạt suy nghĩ của mình nhằm phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ. Sau khi trẻ tìm hiểu, một lần nữa cô đặt các câu hỏi cho trẻ hệ thống lại kiến thức mình vừa có được nhằm cho trẻ khắc sâu điều cần ghi nhớ. Trong quá trình dạy trẻ việc tạo ra các tình huống trong khi chơi vừa kích thích hứng thú, không làm trẻ thấy chán vì nội dung đã nhận biết, trẻ đã thực hiện hết mà nó còn giúp trẻ phát huy khả năng tư duy sáng tạo, tích cực trong khi trẻ hoạt động. Chính vì vậy, tôi thường xuyên tạo các tình huống để trẻ tư duy. Ví dụ: Khi tôi tổ chức tiết LQCC: e,ê. *Hoạt động 1:Ổn định, trò chuyện, giới thiệu bài: -Các con ơi! Sắp đến ngày 20/10 ngày của bà, của mẹ và của cô giáo rồi! Không khí chào đón ngày thành lập Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam đang lan tỏa vào mọi nhà và khắp mọi miền trên đất nước của chúng ta đấy! Giờ cô cháu mình cùng hòa chung không khí đó qua bài hát: “Nhà của tôi” nhé!(trẻ hát múa theo nhạc) - Bài hát nói về điều gì? Các con ạ! Nhà không chỉ là nơi chở che cho chúng ta mà còn là nơi bình yên nhất với những phút giây sum vầy của mọi người trong gia đình đấy! Bây giờ cô cháu mình cùng đến ngôi nhà đó xem không khí ở đó như thế nào nhé! *Hoạt động 2:Làm quen chữ cái e,ê a.Làm quen chữ e: - Cô cho xuất hiện hình ảnh “nhà của bé”. - Các con nhìn xem trên màn hình cô có hình ảnh gì? - Dưới hình ảnh có từ “nhà của bé”. - Cả lớp đọc từ: nhà của bé - Cô cũng có các thẻ chữ cái rời ghép thành từ “nhà của bé” +Các con quan sát kĩ xem từ cô vừa gắn có giống với từ: “nhà của bé'” ở dưới bức tranh không? Cô đọc lại từ ở dưới bức tranh sau đó đọc từ vừa gắn - Trong từ “nhà của bé” có những chữ cái nào mà chúng ta đã được học, bạn nào giỏi lên tìm cho cô nào? Bạn đã tìm đúng chữ cái mà chúng ta đã được học các con cùng phát âm lại. - Trên tay cô cũng có thẻ chữ cái e giống với chữ cái trên màn hình. ( để phát âm đúng các con lắng nghe cô phát âm) - Cô phát âm chữ cái e (3 lần). - Cả lớp phát âm (3 lần). - Cho cả lớp phát âm chữ cái e - Tổ, nhóm, cá nhân phát âm. - Các con có nhận xét gì về chữ cái e? - Cô chốt lại: chữ e gồm có 1 nét thẳng ngang và 1 nét cong tròn hở phía phải. - Chữ e có rất nhiều cách viết khác nhau như chữ e in hoa, chữ e in thường và chữ e viết thường, nhưng đều có một cách phát âm là e các con cùng phát âm với cô nào. b. Làm quen chữ ê: Các con ơi! Nhà là nơi có ba, có mẹ luôn dành tình cảm yêu thương cho các con nữa đấy. Các con nhìn xem mẹ đang làm gì đây? À đúng rồi “mẹ đang bế bé” đấy - Dưới hình ảnh có từ "mẹ bế bé" - Cho trẻ đọc từ “ mẹ bế bé” - Cô ghép từ mẹ bế bé bằng các chữ rời. +Các con có nhận xét gì về từ cô vừa ghắn so với từ: “mẹ bế bé” ở dưới bức tranh? Cô đọc lại từ ở dưới bức tranh sau đó đọc từ vừa gắn - Trong từ “mẹ bế bé” có chữ cái nào mà các con đã được học? Trẻ phát âm lại. - Trong từ mẹ bế bé có chữ ê mà hôm nay cô sẽ cho các con làm quen đấy! - Trên tay cô cũng có thẻ chữ cái ê.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan