Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua bán hàng hoá theo luật thương m...

Tài liệu Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua bán hàng hoá theo luật thương mại 2005 công ước viên 1980 về mua bán hàng hóa ( www.sites.google.com/site/thuvientailieuvip )

.PDF
36
90
62

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN ĐỀ ÁN MÔN HỌC LUẬT THƯƠNG MẠI ĐỀ TÀI ĐỀ ÁN : QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CÁC BÊN TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA THEO LUẬT THƯƠNG MẠI 2005 VÀ CÔNG ƯỚC VIÊN 1980 VỀ MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: PGS.TS. NGUYỄN HỢP TOÀN SINH VIÊN THỰC HIỆN : TÔ THỊ HẠNH NGUYÊN MÃ SỐ SINH VIÊN : CQ482057 LỚP LUẬT KINH DOANH K48 KHOA LUẬT HÀ NỘI, NGÀY 28 THÁNG 10 NĂM 2009 Liên tiếp trong những năm gần đây, những công ty đa quốc gia, tập đoàn kinh tế khổng lồ sát nhập, những khối thị trường chung như Liên minh châu Âu (EU), Khối mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA) và gần đây nhất là Khối mậu dịch tự do châu Á (AFTA) ra đời để có một qui mô lớn hơn, một sức mạnh bao trùm hơn, khả năng chi phối thị trường lớn hơn, một năng lực phát triển mạnh mẽ hơn, chứng tỏ một khuynh hướng ngày càng rõ nét và lan rộng trong kinh tế thế giới - khuynh hướng hội nhập để phát triển. Là một nước đang phát triên với GDP bình quân chỉ khoảng 500 đôla Mỹ trên đầu người, Việt Nam không thể đứng ngoài xu thể chung, cũng là cơ hội phát triển rất lớn này. Tuy nhiên, cơ hội lớn bao nhiêu, thách thức lớn bấy nhiêu, sự mạo hiểm và thậm chí là cả nguy cơ thất bại, thua thiệt nếu chúng ta nhập cuộc mà không được trang bị đủ kiến thức, non nớt về kinh nghiệm, vốn liếng mọi mặt không có nhiều. Các doanh nhân Việt Nam đã đi những bước đầu tiên trong hành trình hội nhập kinh tế toàn cầu với cả thành công và thất bại. Thực tế cho thấy còn rất nhiều doanh nhân Việt Nam còn chưa có điều kiện nghiên cứu kỹ lưỡng cả những giáo trình ngoại thương cơ bản, chưa nắm vững những khái niệm FOB, CIF,… nên không thể tránh khỏi những thất bại không đáng có. Đề tài “ Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua bán hàng hoá theo luật thương mại 2005 và Công ước Viên 1980 về mua bán hàng hóa quốc tế” đề cập tới một trong những vấn đề cơ bản đầu tiên của hoạt động ngoại thương mà bất cứ doanh nhân nào cũng phải hiểu rõ khi tham gia hoạt động thương mại quốc tế. Nhằm mục đích giúp các doanh nhân Việt Nam hiểu rõ quyền lợi cũng như nghĩa vụ của mình khi thiết lập các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Đề tài bao gồm 3 phần : I. CƠ SỞ LÝ LUẬN II. PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA III. Liªn hÖ thùc tiÔn Em xin cảm ơn TS. Nguyễn Hợp Toàn đã hướng dẫn em trong suốt thời gian làm đề án này. Do kiến thức thực tế không nhiều, đề tài của em không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong được sự góp ý của các thầy cô giáo để em có thể hoàn thiện hơn kiến thức của mình! I. CƠ SỞ LÝ LUẬN Mua bán hàng hóa là hoạt động thương mại, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hoá. Bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và sở hữu hàng hóa đó như thỏa thuận. Hoạt động thương mại quốc tế hiện nay không còn bị giới hạn trong việc trao đổi hàng hóa mà được mở rộng sang cả các lĩnh vực khác như thương mại dịch vụ, thương mại đầu tư, thương mại liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ. Công cụ pháp lý được sử dụng trong việc trao đổi hàng hóa chính là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế hay còn gọi là hợp đồng mua bán hàng hóa ngoại thương Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là hợp đồng mua bán hàng hóa có yếu tố quốc tế hay tính quốc tế. Mặc dù loại hợp đồng này đã được sử dụng trong thực tiễn thương mại ở nước ta, nhưng việc đưa ra một khái niệm rõ ràng, chính xác cho hợp đồng này chưa được quan tâm thích đáng trong khoa học pháp lý Việt Nam. Điều này cũng có thể là do Việt Nam mới tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế và trong thực tiễn chưa có vụ tranh chấp nào liên quan đến việc xác định luật áp dụng căn cứ vào tính quốc tế của hợp đồng. Các văn bản pháp luật của Việt Nam không sử dụng thuật ngữ “Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế” mà chỉ sử dụng thuật ngữ “Hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài”. Dưới góc độ pháp lý, hai thuật ngữ “Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế” và “Hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài” đều chỉ loại hợp đồng có cùng đặc điểm là có sự tham gia của thương nhân nước ngoài hay nói cách khác hợp đồng có yếu tố quốc tế. Xác định một hợp đồng mua bán hàng hóa là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế tức là xác định tính quốc tế của hợp đồng đó. Việc xác định tính quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hóa có ý nghĩa pháp lý và thực tiễn hết sức quan trọng bởi nó gắn liền với việc xác định luật để điều chỉnh quan hệ của các bên trong hợp đồng. Nếu hợp đồng là hợp đồng mua bán hàng hóa thông thường (hợp đồng nội địa) thì quyền và nghĩa vụ của các bên xuất phát từ hợp đồng đó sẽ được pháp luật trong nước điều chỉnh, ví dụ, pháp luật Việt Nam. Nếu là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế thì nó sẽ được điều chỉnh bởi luật do các bên lựa chọn: pháp luật của các quốc gia khác nhau, các điều ước quốc tế liên quan và trong nhiều trường hợp cả tập quán thương mại quốc tế, và trong trường hợp không có sự lựa chọn của các bên thì cần phải chọn luật của quốc gia nào theo các quy tắc của tư pháp quốc tế. Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là một hình thức pháp lý của quan hệ thương mại quốc tế, chính vì vậy nó bị sự điều chỉnh bởi nguồn luật thương mại quốc tế, bao gồm các điều ước về mua bán hàng hóa quốc tế, các tập quán quốc tế về thương mại, tiền lệ pháp và pháp luật quốc gia. Hợp đồng mua bán quốc tế còn gọi là hợp đồng xuất nhập khẩu hoặc hợp đồng mua bán ngoại thương là sự thoả thuận giữa các đương sự có trụ sở kinh doanh ở các nước khác nhau, theo đó một bên gọi là bên xuất khẩu (Bên bán) có nghĩa vụ chuyển vào quyền sở hữu của một bên khác gọi là bên nhập khẩu (Bên mua) một tài sản nhất định, gọi là hàng hoá; bên mua có nghĩa vụ nhận hàng và trả tiền hàng. Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là sự thoả thuận ý chí giữa các thương nhân có trụ sở kinh doanh đặt ở các quốc gia khác nhau, theo đó một bên gọi là Bên xuất khẩu có nghĩa vụ giao hàng và chuyển quyền sở hữu hàng hoá cho một bên khác gọi là Bên nhập khẩu và nhận thanh toán; và Bên nhập khẩu có nghĩa vụ thanh toán cho Bên xuất khẩu, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hóa theo thỏa thuận. Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là hợp đồng song vụ: mỗi bên ký kết hợp đồng đều có nghĩa vụ đối với nhau. Bên xuất khẩu có nghĩa vụ giao hàng cho Bên nhập khẩu còn Bên nhập khẩu có nghĩa vụ thanh toán cho Bên xuất khẩu Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là hợp đồng có đền bù: bên có nghĩa vụ thì cũng có quyền lợi và ngược lại. Bên nhập khẩu được hưởng quyền lợi nhận hàng và đổi lại phải có nghĩa vụ trả tiền cân xứng với giá trị đã được giao. Ngược lại, Bên xuất khẩu nhận được tiền phải có nghĩa vụ giao hàng. Bản chất của hợp đồng này là sự thoả thuận của các bên ký kết (các bên đương sự).  Chủ thể của hợp đồng là Bên bán (bên xuất khẩu) và bên mua (bên nhập khẩu). Họ có trụ sở kinh doanh ở các nước khác nhau. Bên bán giao một giá trị nhất định, và để đổi lại, bên mua phải trả một đối giá (Counter value) cân xứng với giá trị đã được giao (Contract with consideration).  Ðối tượng của hợp đồng này là tài sản; do được đem ra mua bán tài sản này biến thành hàng hoá. Hàng hoá này có thể là hàng đặc tính (Specific goods) và cũng có thể là hàng đồng loại (Generic goods).  Khách thể của hợp đồng này là sự di chuyển quyền sở hữu hàng hoá (chuyển chủ hàng hoá). Ðây là sự khác biệt so với hợp đồng thuê mướn (vì hợp đồng thêu mướn không tạo ra sự chuyển chủ), so với hợp đồng tặng biếu (vì hợp đồng tặng biếu không có sự cân xứng giữa nghĩa vụ và quyền lợi).  Ðiều kiện hiệu lực của hợp đồng mua bán quốc tế: Theo điều 81 của Bộ luật Thương mại Việt Nam. Hợp đồng mua bán quốc tế có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây: (a) Chủ thể của hợp đồng là bên mua và bên bán phải có đủ tư cách pháp lý. (b) Hàng hoá theo hợp đồng là hàng hoá được phép mua bán theo quy định của pháp luật. (c) Hợp đồng mua bán quốc tế phải có các nội dung chủ yếu mà luật pháp đã quy định. (d) Hình thức của hợp đồng phải là văn bản. Dưới đây chúng ta phân tích bốn (04) điều kiện nói trên. Về điều kiện (a): Chủ thể của hợp đồng mua bán quốc tế. Về phía Việt Nam, theo nghị định 57/1998/NÐ - CP ngày 31/7/1998, phải là doanh nghiệp đã có đăng ký kinh doanh (theo thủ tục thành lập doanh nghiệp) và đã đăng ký mã số kinh doanh XNK tại cục hải Quan tỉnh, thành phố. Doanh nghiệp không được phép xuất nhập khẩu những mặt hàng cấm xuất nhập khẩu. Ðối với mặt hàng được phép NK, XK có điều kiện, họ phải xin được hạn ngạch (trường hợp hàng thuộc nhà nước quản lý bằng hạn ngạch) hoặc được giâý phép (trường hợp hàng thuộc diện nhà nước quản lý bằng giấy phép kinh doanh XNK). Về điều kiện (b) đối tượng hợp đồng phải là hàng được phép xuất nhập khẩu theo các văn bản pháp luật hiện hành. Về điều kiện (c) nội dung của hợp đồng bao gồm những điều khoản, mà theo điều 50 của Luật thương mại, buộc phải có. Ðó là:  Tên hàng  Số lượng;  Quy cách chất lượng;  Giá cả;  Phương thức thanh toán;  Ðịa điểm và thời gian giao nhận hàng. Ngoài ra các bên có thể thoả thuận thêm những nội dung, những điều khoản cho hợp đồng. Về điều kiện (d) hình thức hợp đồng phải là hình thức văn bản. Ðó có thể là bản hợp đồng (hoặc bản thoả thuận ) có chữ ký của hai bên, cũng có thể là những thư từ, điện tín, điện chữ, thư điện tử bao gồm: Chào hàng + Chấp nhận chào hàng = Hợp đồng đã giao kết Hoặc Ðặt hàng + Xác nhận đặt hàng = Hợp đồng đã giao kết Nội dung chủ yếu của một hợp đồng mua bán quốc tế Một hợp đồng mua bán quốc tế thường gồm có hai phần: Những điều trình bày (representations) và các điều khoản và điều kiện (terms and conditions) Trong phần những điều trình bày, người ta ghi rõ: a. Số hợp đồng (contract No.). b. Ðịa điểm và ngày tháng ký kết hợp đồng. Ðiều này có thể được ghi ngay trên cùng như: Hà Nội June 20th 2003 hoặc “The present contract was made and entered into at Hanoi on this June 20th 2003 by and between”. Cũng có nhiều trường hợp, người ta lại ghi địa điểm và ngày tháng ký kết ở phần cuối hợp đồng. Ví dụ: The present contract was made at Hanoi on June 20th 2003 in quadruplicate of equal force, two of which are kept by each party”. c. Tên và địa chỉ của các đương sự. d. Những định nghĩa dùng trong hợp đồng. Những định nghĩa này có thể rất nhiều, ví dụ hàng hoá có nghĩa là thiết kế có nghĩa là. Chí ít, người ta cũng đưa ra định nghĩa sau đây: “ABC company, address…, Tel … represented by Mr. … herein-after referred to as the Seller (or the Buyer)” e. Cơ sở pháp lý để ký kết hợp đồng. Ðây có thể là hiệp định chính phủ ký kết ngày tháng , cũng có thể là Nghị định thư ký kết giữa Bộ nước với Bộ.. nước. Chí ít, người ta cũng nêu ra sự tự nguyện của hai bên khi ký kết hợp đồng. Ví dụ: “It has been mutually agreed that the Seller commits to sell and the Buyer commits to buy the undermentioned goods on the following terms and conditions”. *Trong phần các điều khoản và điều kiện người ta ghi rõ các điều khoản thương phẩm (như tên hàng, số lượng, phẩm chất, bao bì); Các điều khoản tài chính (như giá cả và cơ sở của giá cả, thanh toán, trả tiền hàng, chứng từ thanh toán); Các điều khoản vận tải (như: điều kiện giao hàng, thời gian và địa điểm giao hàng); Các điều khoản pháp lý (như: Luật áp dụng vào hợp đồng, khiếu nại, trường hợp bất khả kháng, trọng tài) II. PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA Điều ước quốc tế về thương mại là sự thỏa thuận bằng văn bản giữa các quốc gia và các chủ thể của luật quốc tế, trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng, nhằm ấn định, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ thương mại quốc tế. Căn cứ vào chủ thể, điều ước quốc tế được phân thành hai loại là điều ước quốc tế song phương và điều ước quốc tế đa phương. Hiện nay, một số điều ước sau được áp dụng cho việc mua bán hàng hóa quốc tế là: Công ước Viên về mua bán hàng hóa quốc tế (còn gọi là Công ước CISG - United Nations Convention on Contracts for the International Sales of Goods) được ký ngày 11/4/1980 tại Viên, cho đến nay đã có hơn 60 nước phê chuẩn. Tuy nhiên, Việt Nam chưa tham gia công ước Viên 1980, nên về nguyên tắc Công ước không có hiệu lực ràng buộc đối với các chủ thể là thương nhân Việt Nam trong quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài; Công ước Lahay ngày 15/6/1955 về luật áp dụng đối với hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Theo Công ước này, hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế phải tuân thủ theo luật mà các bên lựa chọn. Nếu không có sự thỏa thuận thống nhất của các bên về luật áp dụng thì luật của nước nơi người bán thường trú sẽ được áp dụng trừ một số trường hợp ngoại lệ; Công ước Rome ngày 19/6/1980 về luật áp dụng đối với các nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng. Công ước này được ký kết bởi 9 nước thành viên châu Âu, sau đó có sự tham gia của 6 nước châu Âu khác. Các quy định của Công ước được áp dụng đối với các nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng liên quan đến trường hợp lựa chọn luật của các nước khác nhau; Các hiệp định thương mại song phương giữa Việt Nam với các nước mà điển hình là Hiệp định về quan hệ thương mại với Hoa Kỳ ngày 16/10/2001. Hiệp định buôn bán hàng dệt may Việt Nam - EU và gần 100 hiệp định thương mại song phương mà Việt Nam đã ký với các nước khác. Tập quán thương mại (lex mercatoria) là các thói quen thương mại được hình thành từ lâu đời, có nội dung rõ ràng, được áp dụng liên tục trong thương mại quốc tế, được chấp nhận có giá trị pháp lý bắt buộc. Thông thường, tập quán, tập quán thương mại quốc tế trở thành luật áp dụng chung đối với hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế khi các bên lựa chọn. Một trong những tập quán thông dụng trong thương mại quốc tế hiện nay là các điều kiện thương mại quốc tế - Incoterms (International Commercial Terms) do Phòng thương mại quốc tế - ICC ban hành năm 1936, được sửa đổi bổ sung năm 1953, 1967, 1980, 1990 và gần đây nhất là năm 2000; Quy tắc chung về tập quán và thực hành tín dụng chứng từ (UCP 500); Bộ nguyên tắc của UNIDROIT; Luật mẫu của trọng tài UNCITRAL ban hành năm 1985; Công ước New York năm 1958… Tiền lệ pháp (án lệ) về thương mại là các quy tắc pháp luật hình thành từ thực tiễn xét xử của Tòa án được gọi là tiền lệ pháp và chủ yếu được áp dụng tại các nước theo hệ thống luật Anh - Mỹ (Anglo Saxon), tại đây các Tòa án thường sử dụng một hoặc một số phán quyết của Tòa án đã được công bố để làm khuôn mẫu áp dụng cho việc giải quyết tranh chấp tương tự. Pháp luật quốc gia với tư cách là nguồn luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa của quốc gia đó. Luật quốc gia trở thành luật áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế trong các trường hợp sau: Khi các bên ký kết hợp đồng thỏa thuận trong điều khoản luật áp dụng của hợp đồng về việc chọn luật của một bên hoặc bên thứ ba để điều chỉnh hợp đồng; Khi điều khoản về luật áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được quy định trong các điều ước quốc tế liên quan, luật quốc gia đương nhiên trở thành luật áp dụng; Khi có quy định của pháp luật quốc gia. Theo pháp luật Việt Nam thì tư cách pháp lý của mỗi bên tham gia hợp đồng và hình thức của hợp đồng được quy định tại Bộ luật dân sự 2005 (BLDS) và Luật thương mại 2005 (LTM). Trong quá trình đàm phán ký hết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, các chủ thể có quyền tự do lựa chọn luật áp dụng để điều chỉnh các quan hệ trong hợp đồng (lex voluntaties). Việc này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các bên trong việc chọn luật để điều chỉnh phù hợp với ý chí của mình khi có tranh chấp xảy ra. Đây là nguyên tắc lựa chọn luật áp dụng được luật quốc tế và luật của nhiều quốc gia thừa nhận. Trong pháp luật Việt Nam, nguyên tắc tự do xác định luật được áp dụng tại Điều 759 BLDS và Khoản 2 Điều 5 LTM. Bên cạnh đó, nguyên tắc xác định luật áp dụng trên cơ sở mối quan hệ gắn bó cũng được sử dụng cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Theo đó, nguyên tắc này được áp dụng khi các bên không có sự thỏa thuận chọn luật áp dụng khi ký kết hợp đồng (trong hợp đồng không có điều khoản hay nội dung nào về việc chọn luật áp dụng). Theo quy định của pháp luật Việt Nam, việc xác định luật áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được quy định tại BLDS; LTM; Bộ luật hàng hải năm 2005 (BLHH); Luật hàng không dân dụng Việt Nam 1992 (LHKDD), được sửa đổi, bổ sung năm 1995; Pháp lệnh trọng tài Thương mại 2003 (PLTTTM). Theo đó, Điều 758 BLDS quy định quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là quan hệ dân sự có ít nhất một trong các bên tham gia là cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc là các quan hệ dân sự giữa các bên tham gia là công dân, tổ chức Việt Nam, nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài. Điều 4 và Điều 5 LTM quy định về các loại nguồn pháp luật có thể áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Điều 3 BLHH quy định về pháp luật áp dụng cho quan hệ hợp đồng hàng hải trong thương mại. Điều 4 LHKDD quy định tổ chức, cá nhân Việt Nam có thể thỏa thuận với tổ chức, cá nhân nước ngoài về việc áp dụng pháp luật nước ngoài khi ký kết hợp đồng vận chuyển, dịch vụ hàng không với điều kiện không vi phạm điều cấm của pháp luật và phong tục tập quán Việt Nam. Điều 5 quy định về việc xác định pháp luật áp dụng khi có xung đột pháp luật. Điều 7 PLTTTM quy định các bên trong quan hệ hợp đồng thương mại có quyền tự do thỏa thuận lựa chọn pháp luật áp dụng cho quan hệ hợp đồng và cơ quan trọng tài sẽ áp dụng pháp luật do các bên lựa chọn để giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng. Tuy nhiên, quyền tự do lựa chọn luật của các bên bị hạn chế. Ngoài ra, khoản 5 Điều 49 của PLTTTM còn quy định ngoài quyền tự do lựa chọn và áp dụng pháp luật nước ngoài, các bên còn có quyền thỏa thuận chọn tập quán thương mại quốc tế để điều chỉnh quan hệ tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài. III. CÁC CHỦ THỂ CỦA HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA 1. THEO LUẬT THƯƠNG MẠI 2005 a. NGƯỜI BÁN TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA a.1. Quyền của người bán - Trường hợp chỉ có thỏa thuận về thời hạn giao hàng mà không xác định thời điểm giao hàng cụ thể thì bên bán có quyền giao hàng vào bất kỳ thời điểm nào trong thời hạn đó và phải thông báo trước cho bên mua. - Bên bán không chịu trách nhiệm về bất kỳ khiếm khuyết nào của hàng hoá nếu vào thời điểm giao kết hợp đồng bên mua đã biết hoặc phải biết về những khiếm khuyết đó; - Nếu hợp đồng chỉ quy định thời hạn giao hàng và không xác định thời điểm giao hàng cụ thể mà bên bán giao hàng trước khi hết thời hạn giao hàng và giao thiếu hàng hoặc giao hàng không phù hợp với hợp đồng thì bên bán vẫn có thể giao phần hàng còn thiếu hoặc thay thế hàng hoá cho phù hợp với hợp đồng hoặc khắc phục sự không phù hợp của hàng hoá trong thời hạn còn lại. - Bên bán không phải chịu trách nhiệm về những khiếm khuyết của hàng hoá mà bên mua hoặc đại diện của bên mua đã biết hoặc phải biết nhưng không thông báo cho bên bán trong thời hạn hợp lý sau khi kiểm tra hàng hoá. a.2 Nghĩa vụ của người bán - Bên bán phải giao hàng, chứng từ theo thỏa thuận trong hợp đồng về số lượng, chất lượng, cách thức đóng gói, bảo quản và các quy định khác trong hợp đồng. Trường hợp không có thỏa thuận cụ thể, bên bán có nghĩa vụ giao hàng và chứng từ liên quan theo quy định của Luật thương mại. - Bên bán có nghĩa vụ giao hàng đúng địa điểm đã thoả thuận. Trường hợp không có thoả thuận về địa điểm giao hàng thì địa điểm giao hàng được xác định như sau: a) Trường hợp hàng hoá là vật gắn liền với đất đai thì bên bán phải giao hàng tại nơi có hàng hoá đó; b) Trường hợp trong hợp đồng có quy định về vận chuyển hàng hoá thì bên bán có nghĩa vụ giao hàng cho người vận chuyển đầu tiên; c) Trường hợp trong hợp đồng không có quy định về vận chuyển hàng hoá, nếu vào thời điểm giao kết hợp đồng, các bên biết được địa điểm kho chứa hàng, địa điểm xếp hàng hoặc nơi sản xuất, chế tạo hàng hoá thì bên bán phải giao hàng tại địa điểm đó; d) Trong các trường hợp khác, bên bán phải giao hàng tại địa điểm kinh doanh của bên bán, nếu không có địa điểm kinh doanh thì phải giao hàng tại nơi cư trú của bên bán được xác định tại thời điểm giao kết hợp đồng mua bán. - Bên bán phải thông báo cho bên mua về việc đã giao hàng cho người vận chuyển và phải xác định rõ tên và cách thức nhận biết hàng hoá được vận chuyển trong trường hợp hàng hóa được giao cho người vận chuyển nhưng không được xác định rõ bằng ký mã hiệu trên hàng hóa, chứng từ vận chuyển hoặc cách thức khác. - Trường hợp bên bán có nghĩa vụ thu xếp việc chuyên chở hàng hoá thì bên bán phải ký kết các hợp đồng cần thiết để việc chuyên chở được thực hiện tới đích bằng các phương tiện chuyên chở thích hợp với hoàn cảnh cụ thể và theo các điều kiện thông thường đối với phương thức chuyên chở đó. - Trường hợp bên bán không có nghĩa vụ mua bảo hiểm cho hàng hoá trong quá trình vận chuyển, nếu bên mua có yêu cầu thì bên bán phải cung cấp cho bên mua những thông tin cần thiết liên quan đến hàng hoá và việc vận chuyển hàng hoá để tạo điều kiện cho bên mua mua bảo hiểm cho hàng hoá đó. - Bên bán phải giao hàng vào đúng thời điểm giao hàng đã thoả thuận trong hợp đồng. Nếu bên bán giao hàng trước thời hạn đã thỏa thuận thì bên mua có quyền nhận hoặc không nhận hàng nếu các bên không có thoả thuận khác. - Bên bán phải chịu trách nhiệm về khiếm khuyết của hàng hóa phát sinh sau thời điểm chuyển rủi ro nếu khiếm khuyết đó do bên bán vi phạm hợp đồng. - Bên bán có nghĩa vụ giao chứng từ liên quan đến hàng hoá cho bên mua trong thời hạn, tại địa điểm và bằng phương thức đã thỏa thuận. - Bên bán phải giao chứng từ liên quan đến hàng hoá cho bên mua trong thời hạn và tại địa điểm hợp lý để bên mua có thể nhận hàng nếu không có thỏa thuận về thời hạn, địa điểm giao chứng từ liên quan đến hàng hoá cho bên mua. - Bên bán phải chịu trách nhiệm về những khiếm khuyết của hàng hoá mà bên mua hoặc đại diện của bên mua đã kiểm tra nếu các khiếm khuyết của hàng hoá không thể phát hiện được trong quá trình kiểm tra bằng biện pháp thông thường và bên bán đã biết hoặc phải biết về các khiếm khuyết đó nhưng không thông báo cho bên mua. - Bên bán phải bảo đảm: Quyền sở hữu của bên mua đối với hàng hóa đã bán không bị tranh chấp bởi bên thứ ba; Hàng hóa đó phải hợp pháp; Việc chuyển giao hàng hoá là hợp pháp. - Bên bán có nghĩa vụ bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ đối với hàng hoá - Trường hợp hàng hoá được bán là đối tượng của biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự thì bên bán phải thông báo cho bên mua về biện pháp bảo đảm và phải được sự đồng ý của bên nhận bảo đảm về việc bán hàng hóa đó. - Nghĩa vụ bảo hành hàng hoá Trường hợp hàng hoá mua bán có bảo hành thì bên bán phải chịu trách nhiệm bảo hành hàng hoá đó theo nội dung và thời hạn đã thỏa thuận. Bên bán phải thực hiện nghĩa vụ bảo hành trong thời gian ngắn nhất mà hoàn cảnh thực tế cho phép. Bên bán phải chịu các chi phí về việc bảo hành, trừ trường hợp có thoả thuận khác. b. NGƯỜI MUA TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA b.1 Quyền của người mua - Bên mua có quyền từ chối nhận hàng nếu hàng hoá không phù hợp với hợp đồng theo quy định tại khoản 1 điều 39 luật thương mại 2005. - Trường hợp bên bán giao thừa hàng thì bên mua có quyền từ chối hoặc chấp nhận số hàng thừa đó. - . Bên mua có quyền tạm ngừng việc thanh toán nếu có bằng chứng về việc bên bán lừa dối - Bên mua có quyền tạm ngừng thanh toán cho đến khi việc tranh chấp đã được giải quyết, bên mua có bằng chứng về việc hàng hóa đang là đối tượng bị tranh chấp. - Bên mua có bằng chứng về việc bên bán đã giao hàng không phù hợp với hợp đồng thì có quyền tạm ngừng thanh toán cho đến khi bên bán đã khắc phục sự không phù hợp đó b.2 Nghĩa vụ của người mua - Bên mua có nghĩa vụ thanh toán tiền mua hàng và nhận hàng theo thỏa thuận. - Bên mua phải tuân thủ các phương thức thanh toán, thực hiện việc thanh toán theo trình tự, thủ tục đã thỏa thuận và theo quy định của pháp luật. - Bên mua vẫn phải thanh toán tiền mua hàng trong trường hợp hàng hoá mất mát, hư hỏng sau thời điểm rủi ro được chuyển từ bên bán sang bên mua, trừ trường hợp mất mát, hư hỏng do lỗi của bên bán gây ra. - Bên mua phải thanh toán cho bên bán vào thời điểm bên bán giao hàng hoặc giao chứng từ liên quan đến hàng hoá; - Bên mua không có nghĩa vụ thanh toán cho đến khi có thể kiểm tra xong hàng hoá trong trường hợp có thỏa thuận - Bên mua có nghĩa vụ nhận hàng theo thoả thuận và thực hiện những công việc hợp lý để giúp bên bán giao hàng. 2. THEO CÔNG ƯỚC VIÊN 1980 a. NGƯỜI BÁN TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ a.1 Quyền của người bán - Trong trường hợp giao hàng trước thời hạn, người bán có quyền, cho tới trước khi hết hạn giao hàng, giao một phần hay một số lượng thiếu, hoặc giao hàng mới thay cho hàng đã giao không phù hợp với hợp đồng, hoặc khắc phục mọi sự không phù hợp của hàng hóa đã giao với điều kiện là việc làm đó của người bán không gây cho người mua một trở ngại hay phí tổn vô lý nào. Tuy nhiên người mua có quyền đòi hỏi bồi thường thiệt hại chiếu theo Công ước này. - Người bán có thể yêu cầu người mua trả tiền, nhận hàng hay thực hiện các nghĩa vụ khác của người mua, trừ phi họ sử dụng một biện pháp bảo hộ pháp lý khác không thích hợp với các yêu cầu đó. - Người bán có thể chấp nhận cho người mua một thời hạn bổ sung hợp lý để thực hiện nghĩa vụ của mình Trừ phi nhận được thông báo của người mua cho biết sẽ không thực hiện nghĩa vụ trong thời gian ấy, người bán, trước khi mãn hạn, không thể viện dẫn bất cứ một biện pháp bảo hộ pháp lý nào mà họ được sử dụng trong trường hợp người mua vi phạm hợp đồng. Tuy nhiên, do sự việc này, người bán không mất quyền đòi bồi thường thiệt hại vì người mua chậm thực hiện nghĩa vụ. - Người bán có thể tuyên bố hủy hợp đồng: Nếu sự kiện người mua không thi hành nghĩa vụ nào đó của họ theo hợp đồng hay Công ước hay cấu thành một sự vi phạm chủ yếu hợp đồng, hoặc. Nếu người mua không thi hành nghĩa vụ trả tiền hoặc không nhận hàng trong thời hạn bổ sung mà người bán chấp nhận cho họ chiếu theo khoản 1 điều 63 hay nếu họ tuyên bố sẽ không làm việc đó trong thời hạn ấy - Nếu theo hợp đồng người mua phải xác định hình dáng, kích thước hay những đặc điểm khác đặc trưng của hàng hóa và nếu người mua không làm điều ấy vào thời hạn đã thỏa thuận hay trong một thời hạn hợp lý kể từ lúc nhận được yêu cầu của người bán, thì người bán có thể tự mình xác định hàng hóa chiếu theo nhu cầu của người mua mà họ có thể biết mà không làm hại đến các quyền lợi khác. - Nếu chính người bán tự mình thực hiện việc xác định hàng hóa, họ phải báo chi tiết cho người mua biết nội dung việc xác định và cho người mua một thời hạn hợp lý để người này có thể xác định khác. Nếu, sau khi nhận được thông báo của người bán mà người mua không sử dụng khả năng này trong thời hạn nói trên, thì sự xác định hàng hóa do người bán thực hiện có tính chất bắt buộc. a.2 Nghĩa vụ của người bán - Người bán có nghĩa vụ giao hàng, giao chứng từ liên quan đến hàng hoá và chuyển giao quyền sở hữu về hàng hoá theo đúng quy định của hợp đồng và của Công ước Nếu hợp đồng mua bán quy định cả việc vận chuyển hàng hoá thì người bán phải giao hàng cho người chuyên chở đầu tiên để chuyển giao cho người mua Nếu trong những trường hợp không dự liệu bởi điểm nói trên, mà đối tượng của hợp đồng mua bán là hàng đặc định hoặc là hàng đồng loại phải được trích ra từ một khối lượng dự trữ xác định hoặc phải được chế tạo hay sản xuất ra và vào lúc ký kết hợp đồng, các bên đã biết rằng hàng đã có hay đã phải được chế tạo hoặc sản xuất ra tại một nơi nào đó thì người bán phải có nghĩa vụ đặt hàng dưới quyền định đoạt của người mua tại nơi đó. Trong các trường hợp khác, người bán có nghĩa vụ đặt hàng dưới quyền định đoạt của người mua tại nơi nào mà người bán có trụ sở thương mại vào thời điểm ký kết hợp đồng. - Nếu chiếu theo hợp đồng hay công ước này, người bán giao hàng cho một người chuyên chở, và nếu hàng không được cá biệt hoá một cách rõ ràng dành cho mục đích của hợp đồng bằng cách ghi ký mã hiệu trên hàng hoá, bằng các chứng từ chuyên chở hay bằng một cách khác, thì người bán phải thông báo cho người mua biết về việc họ đã gửi hàng kèm theo chỉ dẫn về hàng hoá. - Nếu người bán không có nghĩa vụ phải bảo hiểm hàng hoá trong quá trình hàng chuyên chở, thì họ phải cung cấp cho người mua, nếu người này yêu cầu, mọi thông tin cần thiết mà họ có thể giúp người mau ký kết hợp đồng bảo hiểm. - Nếu người bán phải có nghĩa vụ phải giao các chứng từ liên quan đến hàng hoá thì họ phải thi hành nghĩa vụ này đúng thời hạn, đúng địa điểm và đúng hình thức như quy định trong hợp đồng. - Người bán chịu trách nhiệm chiếu theo hợp đồng và Công ước này, về mọi sự không phù hợp nào của hàng hóa mà sự không phù hợp đó vào lúc chuyển giao quyền rủi ro sang người mua, ngay cả khi sự không phù hợp của hàng hóa chỉ được phát hiện sau đó. - Người bán cũng chịu trách nhiệm về mọi sự không phù hợp của hàng hóa xảy ra sau thời điểm đã nói ở điểm trên và là hậu quả của việc người bán vi phạm bất cứ một nghĩa vụ nào của mình, kể cả việc không thể hoàn toàn đảm bảo rằng trong một thời hạn nào đó, hàng hóa vẫn thích hợp cho mục đích sử dụng thông thường hay mục đích cụ thể hoặc vẫn duy trì được những tính chất hay đặc tính đã quy định. - Người bán phải giao những hàng hóa không bị ràng buộc bởi bất cứ quyền hạn hay yêu sách nào của người thứ ba trừ trường hợp người mua đồng ý nhận loại hàng bị ràng buộc vào quyền hạn và yêu sách như vậy. - Người bán phải giao những hàng hóa không bị ràng buộc bởi bất cứ quyền hạn hay yêu sách nào của người thứ ba trên cơ sở sở hữu trí tuệ khác mà người bán đã biết hoặc không biết vào thời điểm ký kết hợp đồng, với điều kiện nếu các quyền và yêu sách nói trên được hình thành trên cơ sở sở hữu công nghiệp hoặc sở hữu trí tuệ khác. - Người bán phải gánh chịu mọi sự gia tăng phí tổn để thực hiện việc thanh toán do sự thay đổi địa điểm của trụ sở thương mại của mình sau khi hợp đồng được ký kết. b. NGƯỜI MUA TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ b.1 Quyền của người mua - Trong trường hợp người bán giao chứng từ trước kỳ hạn, thì họ có thể, trước khi hết thời hạn quy định sẽ giao chứng từ, loại bỏ bất kỳ điểm nào không phù hợp với chứng từ với điều kiện là việc làm này không gây cho người mua một trở ngại hay phí tổn vô lý nào. Tuy nhiên, người mua vẫn có quyền đòi người bán bồi thường thiệt hại chiếu theo Công ước này. - Quyền khiếu nại về việc hàng hóa không phù hợp hợp đồng nếu người mua thông báo cho người bán những tin tức về việc không phù hợp đó trong một thời hạn hợp lý kể từ lúc người mua đã phát hiện ra sự không phù hợp đó. - Người mua có quyền đòi bồi thường thiệt hại khi người bán đã không thực hiện một nghĩa vụ nào đó của họ phát sinh từ hợp đồng mua bán hay Công ước này - Người mua có thể cho người bán thêm một thời hạn bổ sung hợp lý để người bán thực hiện nghĩa vụ. hoặc nếu người bán tuyên bố sẽ không giao hàng trong thời gian được gia hạn này. - Người mua có thể tuyên bố hủy hợp đồng: Nếu việc người bán không thực hiện một nghĩa vụ nào đó của họ phát sinh từ hợp đồng hay từ Công ước này cấu thành một vi phạm chủ yếu đến hợp đồng, hoặc: Trong trường hợp không giao hàng: Nếu người bán không giao hàng trong thời gian đã được người mua gia hạn thêm cho họ. - Nếu người bán giao hàng trước thời hạn quy định thì người mua được quyền lựa chọn hoặc chấp nhận hoặc từ chối việc giao hàng đó. - Nếu người bán giao một số lượng nhiều hơn số lượng quy định trong hợp đồng, thì người mua có thể chấp nhận hay từ chối việc giao số lượng phụ trội, nếu người mua chấp nhận toàn bộ hoặc một phần số lượng phụ trội nói trên thì người mua phải trả tiền hàng phụ trội. Nếu người mua chấp nhận toàn bộ hoặc một phần số lượng phụ trội nói trên thì người mua phải trả tiền hàng phụ trội theo giá hợp đồng quy định. b.2 Nghĩa vụ của người mua Người mua có nghĩa vụ thanh toán tiền hàng và nhận hàng theo quy định của hợp đồng và của Công ước này. - Người mua phải kiểm tra hàng hóa hoặc bảo đảm đã có sự kiểm tra hàng hóa trong một thời hạn ngắn nhất mà thực tế có thể làm được tuỳ tình huống cụ thể. - Nghĩa vụ thanh toán tiền hàng của người mua bao gồm các việc áp dụng các biện pháp tuân thủ các thủ tục mà hợp đồng hoặc luật lệ đòi hỏi để có thể thực hiện được thanh toán tiền hàng. - Trong những trường hợp, nếu hợp đồng đã được ký kết một cách hợp pháp, nhưng trong hợp đồng không quy định giá cả một cách trực tiếp hoặc gián tiếp, hoặc không quy định cách xác định giá thì được phép suy đoán rằng, các bên, trừ phi có quy định trái ngược, đã có ngụ ý dựa vào giá đã được ấn định cho loại hàng hóa như vậy khi hàng hóa này được đem bán trong những điều kiện tương tự của ngành buôn bán hữu quan. - Nếu người mua không có nghĩa vụ phải thanh toán tiền hàng tại một địa điểm quy định nào đó thì họ phải trả tiền cho người bán: Tại nơi có trụ sở thương mại của người bán hoặc: Tại nơi giao hàng hoặc chứng từ nếu việc trả tiền phải được làm cùng lúc với việc giao hàng hoặc chứng từ. Nếu người mua không có nghĩa vụ phải trả tiền vào một thời hạn cụ thể nào nhất định, thì họ phải trả khi, chiếu theo hợp đồng và Công ước này, người bán đặt dưới quyền định đoạt của người mua, hoặc hàng hóa hoặc các chứng từ nhận hàng. Người bán có thể đặt điều kiện phải thanh toán như vậy để đổi lại việc họ giao hàng hoặc chứng từ. Người mua không có nghĩa vụ phải thanh toán tiền hàng trước khi họ có thể kiểm tra hàng hóa, trừ những trường hợp mà có thể thức giao hàng hay trả tiền do các bên thỏa thuận không cho phép làm việc đó. Người mua phải trả tiền vào ngày thanh toán đã quy định hoặc có thể được xác định theo hợp đồng và Công ước này, mà không cần có một lời yêu cầu hay việc thực hiện một thủ tục nào khác về phía người bán. - Nghĩa vụ nhận hàng của người mua gồm: Thực hiện mọi hành vi mà người ta có quyền chờ đợi ở họ một cách hợp lý để cho phép người bán thực hiện việc giao hàng và. Tiếp nhận hàng hóa. III. LIÊN HỆ THỰC TIỄN Trong thực tiễn, khi quyền và nghĩa vụ của các bên bị xâm hại, hoặc một trong số các bên thực hiện không đúng điều khoản đã thỏa thuận trong hợp đồng, tất yếu sẽ dẫn tới tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể của quan hệ mua bán hàng hóa. Để hiểu rõ hơn những kiến thức cơ bản về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa, ta cùng tìm hiểu những vụ việc xảy ra trong thực tiễn giao kết hợp đồng giữa các bên chủ thể : Tranh chấp về nghĩa vụ vận chuyển trong hợp đồng C&F Các bên:   Nguyên đơn: Công ty Bỉ Bị đơn: Công ty Bỉ là thành viên của một tập đoàn Nhật Bản Các vấn đề được đề cập:      Bán C&F: Thời điểm chuyển giao rủi ro, Lỗi của người vận chuyển Thiệt hại: Đánh giá thiệt hại, Nghĩa vụ giảm thiểu thiệt hại Thời điểm bắt đầu tính lãi Đồng tiền trong tài khoản và Đồng tiền thanh toán Bán hàng để xuất khẩu Tóm tắt vụ việc: Nguyên đơn ký kết một hợp đồng mua của bị đơn 500 tấn thép theo các điều kiện C&F Karachi. Hợp đồng quy định bốc hàng lên tàu khởi hành từ "bất kỳ cảng nào của Châu Âu" và theo "bất kỳ đường biển nào" theo lựa chọn của bị đơn, người bán. Tuy nhiên, khoảng một tháng sau khi hợp đồng được ký kết, nguyên đơn gửi cho bị đơn yêu cầu của người mua lại Pakistan theo đó "hàng phải được chở bằng tàu theo tuyến thông thường" đến thẳng Karachi. Bị đơn đã chuyển các yêu cầu mới này đến người trung gian vận chuyển của mình và nêu rõ "tuyến đường yêu cầu: tàu chở hàng theo tuyến thông thường, đi trực tiếp đến Karachi". Không may là chiếc tàu được người trung gian vận chuyển của bị đơn thuê đã không tới được Karachi. Chuyến tàu này xuất phát từ Anvers với số thép bán cho nguyên đơn, dừng lại ở Rotterdam vài ngày rồi đến Dunkerque để dỡ khoảng 12.000 tấn đường chở trên tàu. Tuy nhiên, tàu này đã không thể rời cảng Dunkerque vì bị các chủ nợ của chủ tàu tịch thu để bán đấu giá sau khi tất cả hàng hoá trên tàu bao gồm cả số hàng bán cho nguyên đơn đã được dỡ xuống và lưu kho theo quyết định của Chánh án Toà Thương mại Dunkerque. Do không nhận được số thép nói trên nên người mua Pakistan của nguyên đơn đã quyết định huỷ hợp đồng với nguyên đơn. Nguyên đơn thông báo với bị đơn rằng bị đơn phải chịu trách nhiệm cho mọi thiệt hại vì tàu đã không đi tuyến trực tiếp từ Anves đến Karachi và nói rõ rằng để giảm thiểu thiệt hại nguyên đơn sẽ cố gắng thu xếp với người mua Pakistan. Việc dàn xếp này đã kết thúc bằng việc nguyên đơn bồi thường cho người mua Pakistan. Và cũng để giảm thiệt hại, nguyên đơn đã bán lại lô hàng nói trên với sự chấp thuận của bị đơn, bị đơn cũng tự nguyện mua lại 3/5 số hàng này. Nguyên đơn yêu cầu Uỷ ban Trọng tài buộc bị đơn bồi thường toàn bộ thiệt hại mà nguyên đơn đã phải gánh chịu, bao gồm: Khoản chênh lệnh giữa giá của hợp đồng với giá mà nguyên đơn thu được sau khi phải bán lại lô hàng tại Dunkerque, Khoản tiền đã bồi thường cho người mua Pakistan, Các chi phí chi tại Dunkerque, Các chi phí vận chuyển hàng cho những người mua mới, Các chi phí đi lại đến Karachi. Nguyên đơn cũng yêu cầu rằng những thiệt hại tính bằng USD và Franc Pháp phải được quy đổi sang Franc Bỉ theo tỷ giá quy đổi hiện hành vào thời điểm thanh toán hoặc vào ngày nguyên đơn phải thực hiện các chi phí đó do hợp đồng không được thực hiện. Bị đơn đã bác bỏ yêu cầu của nguyên đơn và lập luận rằng trong các hợp đồng mua bán C&F mọi rủi ro xảy ra sau khi bốc hàng lên tàu thuộc trách nhiệm của người mua và hợp đồng giữa nguyên đơn và bị đơn không quy định bị đơn phải thuê một chuyến tàu đi thẳng đến Karachi. Hơn nữa, bị đơn cho rằng nguyên đơn chỉ có quyền đòi các thiệt hại là khoản chênh lệch giữa giá hợp đồng và giá bán cho người mua Pakistan. Bị đơn cũng cho rằng việc quy đổi các khoản tiền tính bằng USD, Franc Pháp chỉ phải thực hiện vào thời điểm thi hành phán quyết. Phán quyết của Trọng tài: 1. Về việc xác định bị đơn có lỗi hay không theo các thông lệ điều chỉnh hợp đồng mua bán theo C&F: Các bên thừa nhận rằng khi mua bán theo C&F nghĩa vụ của người bán cũng giống như các nghĩa vụ của người bán trong hợp đồng mua bán CIF và chỉ khác một điểm là người bán không có nghĩa vụ bảo hiểm cho hàng hoá. Cụ thể hơn, người bán C&F có nghĩa vụ vận chuyển hoặc nhờ một chủ thể khác vận chuyển hàng hoá theo các điều kiện vận chuyển đã thoả thuận giữa người bán và người mua với chi phí do người bán chịu. Tuy nhiên mọi rủi ro trong quá trình vận chuyển hàng hải lại thuộc về trách nhiệm của người mua tính từ khi xếp hàng lên tàu. Các học thuyết cũng như án lệ đều thừa nhận rằng khi các bên không đưa vào hợp đồng (HĐ) những quy định cụ thể liên quan đến điều kiện vận chuyển thì người bán có nghĩa vụ vận chuyển hàng hoá theo các điều kiện theo thông lệ tại cảng xếp hàng trên tàu có chất lượng phù hợp với tính chất của hàng hoá đó. Pháp luật cũng cho phép các bên thoả thuận về các yêu cầu cụ thể khác liên quan đến cách thức và điều kiện vận chuyển mà người bán có nghĩa vụ tuân thủ. Theo nguyên đơn thì 2 bên đã thoả thuận thông qua các sửa đổi đối với HĐ rằng bên bán phải thuê tàu theo chuyến thông thường đi thẳng tới Karachi. Bên bán đã không thực hiện nghĩa vụ này, gây ra việc dỡ hàng và các thiệt hại liên quan. Bị đơn lại lập luận ngược lại rằng bị đơn đã thực hiện chính xác các nghĩa vụ của người bán trong HĐ C&F và không hề vi phạm hợp đồng. Thứ nhất, HĐ chưa hề được sửa đổi bởi một thoả thuận chung nào và những hướng dẫn mà nguyên đơn đưa ra sau đó về việc tàu phải đi theo tuyến thông thường và đến thẳng Karachi chỉ là một mong muốn mà bị đơn sẽ cố gắng thực hiện nhưng việc không thực hiện được mong muốn này thì cũng không thể coi đó là một sự vi phạm hợp đồng. Thứ 2, ngay cả khi đây là một nghĩa vụ bắt buộc thì bị đơn cũng đã hoàn thành nghĩa vụ này thông qua việc chuyển cho đại lý vận chuyển uỷ thác của mình những hướng dẫn của nguyên đơn và đã yêu cầu phải ký HĐ vận chuyển hàng hóa với tàu chuyến thông thường đi thẳng tới Karachi.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan