Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Phương pháp quy nạp của francis bacon...

Tài liệu Phương pháp quy nạp của francis bacon

.PDF
80
104
132

Mô tả:

Tóm tắt Làm rõ điều kiện lịch sử - xã hội ra đời về phương pháp quy nạp trong tư tưởng của Bacon. Làm rõ nội dung cơ bản của các loại ngẫu tượng đó trong tác phẩm “Bộ công cụ mới”. Từ khoá Phương pháp quy nạp, Bộ công cụ mới, Triết học Bacon, Triết học Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA TRIẾT HỌC KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP Đề tài: Phương pháp quy nạp của Francis Bacon Sinh viên : Phan Hoàng Hoàng MSSV: 15031545 Lớp: K60 Triết học Hà Nội – 05/2019 1 MỤC LỤC MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 3 NỘI DUNG........................................................................................................... 7 CHƯƠNG 1: BỐI CẢNH NẢY SINH PHƯƠNG PHÁP QUY NẠP CỦA FRANCIS BACON ................................................................................................................ 7 1.1. Francis Bacon và tác phẩm “Bộ công cụ mới” ..................................... 7 1.2. Nội dung chính trong triết học Bacon ................................................... 9 1.2.1. Quan niệm của Bacon về bản chất, nhiệm vụ của triết học và khoa học. 9 1.2.2. Quan niệm của Bacon về thế giới .................................................... 10 1.2.3. Nhân bản học và quan niệm về tôn giáo .......................................... 12 1.3. Khái niệm về quy nạp và những đặc điểm của phương pháp quy nạp 13 CHƯƠNG 2: NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG PHƯƠNG PHÁP QUY NẠP CỦA FRANCIS BACON .............................................................................................................. 17 2.1. Phương pháp quy nạp của Aristotle và sự phê phán tam đoạn luận – diễn dịch của Francis Bacon ................................................................................. 17 2.1.1. Phương pháp quy nạp của Aristotle................................................. 17 2.1.2. Sự phê phán tam đoạn luận – diễn dịch của Francis Bacon ............ 20 2.2. Học thuyết về ngẫu tượng ...................................................................... 22 2.2.1. Các loại ngẫu tượng ......................................................................... 22 2.2.2. Giá trị của học thuyết ngẫu tượng của Bacon.................................. 33 2.3. Phương pháp ba bảng của Francis Bacon .............................................. 34 KẾT LUẬN ........................................................................................................ 77 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 80 2 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài khóa luận Đúng như tiên đoán của C.Mác, khoa học ngày nay đã trở thành “ lực lượng sản xuất trực tiếp”, trở thành nhân tố mang tính quyết định đối với sự phát triển của xã hội hiện đại. Tiến bộ khoa học đã và đang trở thành một trong những vấn đề triết học có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng, cấp bách. Nghiên cứu vấn đề này, chúng ta không thể không quay lại với di sản lý luận của F.Bacon. Chính Ông được C.Mác coi là ông tổ của chủ nghĩa duy vật Anh và khoa học thực nghiệm hiện đại. F.Bacon chính là người có đóng góp lớn lao trong việc phát triển khoa học và triết học của thời kỳ cận hiện đại nói riêng và của nhân loại nói chung. Tinh thần hăng say khám phá và phục hưng khoa học của F.Bacon đã ảnh hưởng lớn và sâu rộng đến các trào lưu triết học Anh - Tây Âu thế kỷ XVII – XVIII với những tác phẩm có giá trị và ý nghĩa vạch thời đại. Với tuyên bố: “Tri thức là sức mạnh” có ý nghĩa quan trọng và trở thành tuyên ngôn của thời đại lịch sử mới – thời đại văn minh khoa học và công nghệ, F.Bacon đã khẳng định vai trò của tri thức là không thể thiếu được trong đời sống xã hội hiện nay, vai trò ấy vẫn đã và đang là đề tài được tranh luận trong các suy lý triết học phương Tây hiện đại. Ngày nay, khi khoa học và kỹ thuật đã trở thành yếu tố quyết định của sự phát triển xã hội, là lực lượng sản xuất trực tiếp của nền kinh tế toàn cầu, khoa học càng trở thành đối tượng quan trọng trong nghiên cứu của nhiều ngành khoa học (xã hội học, kinh tế học, chính trị học, v.v.), trong đó có triết học với tên gọi là “triết học về khoa học”. Điều này được phản ánh rõ trong việc hoạch định các chính sách và chiến lược phát triển khoa học, kỹ thuật và kinh tế của nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào trình độ phát triển cụ thể của từng nước mà xây dựng chiến lược, chính sách phát triển khoa học kỹ thuật mang tính đa dạng và đặc thù đối với từng giai đoạn phát triển cụ thể phù hợp với hoàn cảnh, 3 điều kiện cơ sở vật chất của mỗi quốc gia. Và điều nổi bật rút ra ở các chiến lược, chính sách đó ở tất cả các nước trên thế giới từ những nước có nền kinh tế hiện đại đứng hàng đầu thế giới, như Mỹ, Nhật, Pháp, v.v. cho đến những nước có nền kinh tế chậm phát triển và lạc hậu như Việt Nam, Lào , Campuchia, một số nước Trung Đông, - đó chính là quan điểm rằng, sự phát triển khoa học và kỹ thuật là một định hướng quan trọng mới, có tính quyết định trong việc phát triển kinh tế quốc gia. Bởi vậy việc nghiên cứu, tổng kết, xác định vị trí và vai trò của khoa học trong xã hội hiện đại có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các nước trên con đường công nghiệp hoá - hiên đại hoá. Nghiên cứu triết học của F.Bacon nói chung và tư tưởng triết học về khoa học của ông nói riêng có ý nghĩa vô cùng quan trọng, ngoài việc tái hiện và chỉ ra những luận điểm tích cực của F.Bacon, với việc khẳng định khoa học là chìa khóa, là điểm khởi đầu cho việc sử dụng khoa học như là: “Lực lượng sản xuất trực tiếp” quyết định sự thành bại của một quốc gia, mà còn thông qua đó để khẳng định vị trí, vai trò của khoa học kỹ thuật là yếu tố cốt tử đối với sự phát triển của xã hội và chỉ ra những hạn chế của F.Bacon trong tác phẩm “Công cụ mới” dưới ánh sáng của xã hội hiện đại, kể cả những vấn đề của xã hội việt nam đang tồn tại. Triết học của F.Bacon nói chung và đặc biệt là tư tưởng triết học về khoa học của ông trong tác phẩm “Công cụ mới” chưa được nghiên cứu đầy đủ và sâu sắc ở ta, do vậy việc tìm hiểu nó trở thành một nhiệm vụ tất yếu và quan trọng đối với những người nghiên cứu và giảng dạy triết học. Xuất phát từ những vấn đề lý luận và thực tiễn nêu trên, tác giả chọn chủ đề “Phương pháp quy nạp của Francis Bacon” làm đề tài nghiên cứu. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Các công trình có nghiên cứu và đề cập đến tiền đề khoa học tự nhiên cho sự ra đời của triết học F.Bacon có thể khái quát ở một số tác phẩm sau: Cuốn “ những chủ đề cơ bản của triết học phương Tây”, tác giả Phạm Minh Lăng, Nxb. 4 Văn hóa thông tin, Hn, 2001, tr121 -122; Lịch sử triết học phương Tây trước Mác, của tác giả Trần Văn Phòng- Dương minh Đức, Nxb. Đại học sư phạm, 2003, tr 68; Những công trình đề cập đến tiền đề triết học bao gồm: Luận văn “ học thuyết của F.bacon về nhận thức” của Nguyễn Thị Hồng Diệp, khoa triết học – Đại học khoa học xã hội nhân văn, 2012, tr 22- 25; Cuốn Lịch sử triết học của tác giả Phương kỳ Sơn, NXB chính trị quốc gia, HN, 2000; Lịch sử triết học của tác giả Nguyễn Hùng Hậu, NXB Chính trị - Hành chính, 2010. Có thể nói, cho dù có nhiều công trình nghiên cứu về tư tưởng triết học của F.Bacon trên các phương diện khác nhau của nó, song có một nghịch lý là cho tới nay chưa có công trình nghiên cứu nào đi vào phân tích giải pháp của F.Bacon cho một trong những vấn đề cấu thành nội dung cơ bản của triết học trung cổ và có tác động không nhỏ đến quá trình hình thành và phát triển của triết học Phục hưng, - đó là vấn đề quan hệ giữa khoa học với tôn giáo trong tư tưởng triết học về khoa học của F.Bacon. Khi có tính đến lịch sử của vấn đề này trong triết học trung cổ, triết học Phục hưng và bản thân triết học đương thời với F.Bacon, cũng như tính cấp bách của nó trong điều kiện hiện nay 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục tiêu nghiên cứu: Phân tích nội dung về Phương pháp quy nạp của Francis Bacon, đặc biệt trong tác phẩm “Bộ công cụ mới”. - Nhiệm vụ nghiên cứu: Làm rõ điều kiện lịch sử - xã hội ra đời về phương pháp quy nạp trong tư tưởng của Bacon. Làm rõ nội dung cơ bản của các loại ngẫu tượng đó trong tác phẩm “Bộ công cụ mới”. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Nội dung phương pháp quy nạp trong tư tưởng của Francis Bacon. 5 - Phạm vi nghiên cứu: Phương pháp quy nạp của Bacon, đặc biệt được thể hiện trong tác phẩm “Bộ công cụ mới” và các tài liệu đã được nghiên cứu trước đây. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận: Lý luận cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Lý luận cơ bản của tư tưởng triết học hiện đại. - Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp nghiên cứu chính là phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết; phương pháp lịch sử. Ngoài ra trong quá trình nghiên cứu, người nghiên cứu còn sử dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu, tham khảo các nguồn tài liệu có liên quan để nhận định rõ hơn về đối tượng nghiên cứu rồi tiến hành đánh giá đối tượng. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài niên luận Nghiên cứu giúp nắm rõ hơn về phép quy nạp trong tư tưởng triết học của Francis Bacon. Nghiên cứu có thể làm tài liệu tham khảo cho quá trình tìm ra phương pháp quy nạp đúng đắn cũng như là tài liệu cho các sinh viên, nhà nghiên cứu tham khảo, đóng góp ý kiến. 7. Kết cấu của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận gồm 2 chương lớn nằm trong nội dung chi tiết như sau: Chuơng 1. Bối cảnh nảy sinh phương pháp quy nạp của Francis Bacon. Chương 2. Nội dung cơ bản trong phương pháp quy nạp của Francis Bacon. 6 NỘI DUNG Chương 1: Bối cảnh nảy sinh phương pháp quy nạp của Francis Bacon 1.1. Francis Bacon và tác phẩm “Bộ công cụ mới” Francis Bacon là nhà triết học vĩ đại thời cận đại. Theo Mác, Bacon là ông tổ của chủ nghĩa duy vật Anh. Theo Mác, Bacon là ông tổ của chủ nghĩa duy vật Anh và khoa học thực nghiệm. Bắt đầu từ Bacon, lịch sử triết học Tây Âu bước sang một giai đoạn mới. Bacon sinh năm 1561 trong một gia định quý tộc Anh. Sau khi tốt nghiệp trường đại học tổng hợp Kembrigiơ, ông công tác nhiều năm về ngoại giao cho vương triều Xtiua. Mặc dù sống ở nước Anh thời kỳ trước cách mạng tư sản, nhưng Bacon vẫn nhiệt liệt ủng hộ những cải cách tư sản nhằm phát triển đất nước, ủng hộ sự phát triển khoa học và triết học Anh. Những tác phẩm lớn của ông là “Đại phục hồi các khoa học( 1605), Công cụ mới( 1620)… Bacon được phong tước hiệp sĩ năm 1603. Ông được biết đến là một nhân vật quan trọng của Cách mạng khoa học và được xem là cha của chủ nghĩa duy nghiệm và phương pháp khoa học. Mặc dù sự nghiệp chính trị của ông bị tiêu tan trong nỗi ô nhục, sức ảnh hưởng của ông vẫn còn mãi theo thời gian cùng với các tác phẩm của ông. Đáng chú ý nhất với vai trò một người ủng hộ triết học và một người thực hành phương pháp khoa học trong cuộc cách mạng khoa học. Bacon được gọi là cha đẻ của chủ nghĩa kinh nghiệm. Những tác phẩm của ông đã hình thành và phổ biến hóa phương pháp luật quy nạp đáp ứng cho yêu cầu khoa học, và thường được gọi là "Phương pháp Bacon", hay đơn giản là "phương pháp khoa học". Yêu cầu của ông về một phương pháp nghiên cứu sự vật hiện tượng tự nhiên một cách có kế hoạch đã đánh dấu một bước chuyển mới trong khuôn khổ mỹ từ và lý thuyết cho khoa học, phần lớn phương pháp mà ông phát minh ra 7 vẫn còn tồn tại bao hàm trong những quan niệm về phương pháp luận đúng đắn ngày nay. Francis Bacon qua đời đột ngột năm 1626, để lại New Atlantis cũng như dự án Đại phục hồi khoa học còn dang dở. Tuy nhiên, những gì ông đã đóng góp cho triết học và khoa học đều có ảnh hưởng rất lớn. Sự xuất hiện của Francis Bacon đóng vai trò như một gạch nối quan trọng, nối liền dòng chảy phát triển triết học nước Anh, vốn bị bỏ trống trong một thời gian dài, kể từ lúc những triết gia nổi tiếng như John Wycliffe và William xứ Ockham qua đời. Không những vậy, triết học Bacon, với tinh thần phê phán và khám phá, còn ảnh hưởng sâu rộng đến triết học Anh và Tây Âu thế kỷ XVII-XVIII. Những thành tựu mà ông tưởng tượng và phác họa trong New Atlantis như các công cụ đông lạnh dự trữ, đài thiên văn, hồ lọc nước ngọt… đều đã trở thành sự thật. Điều đó cho thấy tầm nhìn khoa học đúng đắn của Francis Bacon. Do đó, tuyên bố “Tri thức là sức mạnh” của ông như một lời khăng định về tầm quan trọng của tri thức, khoa học trong đời sống xã hội cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị. “Bộ công cụ mới” là cuốn sách nền tảng của phương pháp khoa học. Bacon đã nhấn mạnh về việc sử dụng các thí nghiệm nhân tạo để cung cấp các quan sát bổ sung các hiện tượng. Chính bằng cuốn sách này, Fracis Bacon đã được coi là “Cha đẻ của Triết học thực nghiệm”. Mặc dù các phương pháp thực nghiệm của Bacon đến nay không còn quá mới nhưng cuốn sách vẫn còn rất quan trọng bởi vì ông đã xem xét đến khía cạnh tâm lý của người nghiên cứu vốn rất dễ bị sa đà vào các lời giải thích siêu hình mà không dựa trên quan sát thực sự. Bộ công cụ mới của Francis Bacon hướng đến việc phát minh ra các lập luận, các mẫu thiết kế và bảng hướng dẫn cho công việc nghiên cứu khoa học. Ông phê bình hình thức tam đoạn luận là thiếu chặt chẽ và đề cao phương pháp quy nạp khi xử lý bản tính của các sự vật. Bởi theo Francis Bacon, phương pháp quy nạp là hình thức chứng minh chứng thực cho giác quan, những khái niệm 8 được rút ra theo phương pháp này đều xuất phát từ những tiên đề đã được xác thực rõ ràng. Bacon dành phần thứ nhất của Công cụ mới để làm công việc “dọn sạch mặt bằng”: vạch trần những nguyên nhân tâm lý gây ra lầm lẫn của con người. Những thái độ sai lầm – từ đó nảy sinh những lỗi tư duy – bị ông gọi là những ngẫu tượng (idole). Ngẫu tượng là một hình ảnh bám rễ rất sâu, chiếm lĩnh tinh thần con người, được tôn thờ nhưng lại không có thực chất nào cả và là những rào cản cho nhận thức. Ngẫu tượng là thần tượng giả mạo. Với cách đặt vấn đề như thế, Bacon không chỉ là người mở đầu cho thuyết duy nghiệm mà còn khai sinh môn tâm lý học hiện đại. Trong “Cách ngôn” thứ 39 thuộc phần đầu của quyển sách, F. Bacon viết: “Có bốn loại ngẫu tượng bắt đầu óc ta làm tù binh...: loại thứ nhất là ngẫu tượng Bộ lạc, loại thứ hai là ngẫu tượng cái Hang, loại thứ ba là ngẫu tượng cái Chợ và loại thứ tư là ngẫu tượng Sân khấu”. Ngẫu tượng Bộ lạc thuộc về bản tính chung của loài người. Ngẫu tượng cái Hang nảy sinh trong đầu óc cá nhân mỗi người. Loại thứ ba (cái Chợ) là những sai lầm liên quan đến ngôn ngữ, và loại thứ tư (Sân khấu) là do sự nguỵ biện và khiếm khuyết về học vấn. Ông dùng hình ảnh “sân khấu” với tấm màn nhung của nó như là một biểu trưng cho bao tấn trò đời. Không phải ngẫu nhiên khi cuối thế kỷ 19, người ta cứ nghĩ ông mới là tác giả đích thực của những vở kịch mang tên Shakespeare! 1.2. Nội dung chính trong triết học Bacon 1.2.1. Quan niệm của Bacon về bản chất, nhiệm vụ của triết học và khoa học. Theo Bacon, triết học là nền tảng của công cuộc canh tân đất nước. Chịu ảnh hưởng của quan niệm coi triết học là khoa học của các khoa học – quan niệm thống trị suốt thời cổ đại, Bacon hiểu triết học theo nghĩa: nó là tổng thể các tri thức lý luận của con người về Thượng đế, về giới tự nhiên và về bản thân 9 con người. Vì vây, triết học chia làm ba học thuyết: học thuyết về Thượng đế, học thuyết về giới tự nhiên và học thuyết về con người. Trong đó, học thuyết về Thượng đế được coi là thần học, nhưng chỉ có bộ phận thần học tự nhiên( tức học thuyết lý giải Thượng đế dưới góc độ nghiên cứu khoa học, vạch ra những khía cạnh hợp lý của nó) mới thuộc về triết học. Còn bộ phận thần học Thượng đế( tức xem xét Thượng dế dưới góc độ tôn giáo) thì thuộc về lĩnh vực tôn giáo, tín ngưỡng…Học thuyết về tự nhiên trong triết học được Bacon gần như đồng nhất với các khoa học tự nhiên, còn học thuyết về con người thì được coi là nhân bản học. Theo Bacon, khác với bộ môn lịch sử và các dạng nhận thức nghệ thuật chỉ đơn thuần dựa vào khả năng trí nhớ hay biểu tượng của con người, triết học và khoa học mang tính lý luận và khái quát cao. Tư duy triết học mang tính lý tính, mang tính trí tuệ cao nhất. Nhiệm vụ của triết học là “đại phục hồi các khoa học”, nghĩa là phải cải tạo toàn bộ các tri thức mà con người đạt được thời đó. Phê phán những ai coi khoa học như một nghề thủ công có lãi. Bacon cho rằng khoa học đem lại lợi ích cho toàn thể nhân loại nói chung chứ không riêng cho ai. Đánh giá cao vai trò của tri thức lý luận trong việc cải tạo xã hội, Bacon khẳng định “tri thức là sức mạnh”. 1.2.2. Quan niệm của Bacon về thế giới Trước tiên, theo Bacon, phải phủ nhận sự tồn tại của nguyên nhân mục đích của các sự vật, vì đó là điểm duy tâm của Aristotle. Mọi cái trên thế gian chỉ tồn tại ba nguyên nhân, là “hình dạng”, “vật chất” và “vận động”. Trong đó, hình dạng của sự vật nằm trong chính bản thân sự vật, là bản chất hoàn toàn khách quan của nó. Nhà duy vật Anh hiểu phạm trù “hình dạng” của sự vật theo mấy khía cạnh sau: Đây là nguồn gốc bên trong của sự vật, là cái mà nhờ đó sự vật là nó chứ không phải là cái khác. 10 Là nguyên nhân tất yếu và đầy đủ để sự vật đó xuất hiện. Đó là phạm trù thể hiện bản chất chung của một nhóm sự vật có cùng những tính chất giống nhau, là quy luật vận động vật chất trong các sự vật đó. Quan niệm của Bacon về “hình dạng” thể hiện ý đồ của ông muốn dung hợp giữa hai hướng trong cách hiểu phạm trù này trong triết học trước đó. Xu hướng thứ nhất giải thích được cả tính đa dạng lẫn tính thống nhất của thế giới, nhưng lại rơi vào quan niệm vật hoạt luận trong việc lý giải nguồn gốc của vận động – điều mà ông không muốn. Còn xu hướng thứ hai giải thích được nguồn gốc của vận động một cách duy vật, coi đó là sự va chạm các nguyên tử, nhưng lại không giải thích được sự đa dạng của thế giới. Từ nhận xét trên, Bacon muốn dung hòa cả hai xu hướng trên, tiếp thu những điểm hợp lý, đồng thời khắc phục những hạn chế của chúng. Nhưng ông đã không hoàn toàn thực hiện được điều đó. Vì thế, không tránh khỏi quan niệm vật hoạt luận. Tuy vậy, nhìn chung ông ngả về xu hướng thứ hai hơn. Khẳng định vận động là đặc tính của sự vật, Bacon cho rằng nhận thức bản chất của các sự vật là nhận thức sự vận động của chúng. Theo nhận xét của C.Mác và Ph.Ăngghen: Bacon đã hiểu rằng: “Trong những đặc tính vốn có của vật chất, vận động là đặc tính thứ nhất và quan trọng nhất, không phải chỉ với tính cách là vận động máy móc và toán học mà hơn nữa còn với tính cách là xu hướng, sức sống, sự khẩn trương…của vật chất”[2, 195]. Không dừng lại ở việc khẳng định tính tất yếu và phổ biến của vận động, Bacon đã tìm cách phân loại các dạng. Theo ông có 19 dạng vận động: 1) Vận động xung đối; 2) Vận động móc nối, kết hợp; 3)Vận động giải phóng mà thông qua đó sự vật hướng tới thoát khỏi áp lực; 4)Vận động, trong đó sự vật hướng tới khối lượng và kích thước mới; 5) Vận động liên tục; 6) Vận động có lợi; 7) Vận động tự hợp lại với quy mô lớn; 8) Vận động tự hợp lại với quy mô nhỏ; 9) Vận động từ tính; 10) Vận động sản sinh ra; 11) Vận động chạy 11 trốn; 12) Vận động thức tỉnh; 13) Vận động mô tả, ghi nhận; 14) Vận động ngoại tuyến; 15) Vận động theo xu hướng; 16) Vận động hùng tráng; 17) Vận động tự quay; 18) Vận động rung động; 19) Vận động đứng yên. Ở đây, về cơ bản, Bacon phân loại các dạng vận động theo cảm tính, chưa theo các cấp độ khác nhau về cấu trúc của vật chất, mà hầu như quy toàn bộ các dạng vận động thành các hình thức vận động cơ học. Tuy nhiên, việc coi đứng yên là một dạng vận động, cũng như coi vận động là đặc tính cố hữu của vật chất ở Bacon là một quan niệm duy vật và cách mạng trong bối cảnh lịch sử hồi đó. Ông là một trong những người đầu tiên nhận thấy tính bảo toàn vật chất của thế giới. 1.2.3. Nhân bản học và quan niệm về tôn giáo Con người, theo Bacon, là sản phẩm của tạo hóa. Do vậy, khoa học về con người cũng chính là khoa học về tự nhiên. Tiếp thu các quan niệm của Aristotle về con nguời, Bacon chia linh hồn con người thành các dạng “linh hồn thực vật”, “linh hồn động vật” và lý tính. Hai phần đầu thuộc về linh hồn cảm tính, có cả ở thực vật và động vật. Trong con người chúng ta là một dạng chất lỏng được pha loãng trong cơ thể. Chúng vận động theo các dây thần kinh tựa như các đường ống tác động lên các giác quan, điều khiển chức năng sống của cơ thể. Bộ phận cảm tính của linh hồn này có thể bị hủy hoại cùng với cơ thể, khi con người chết. Con người phần linh hồn lý tính thì có nguồn gốc từ Thượng đế. Đó là một khả năng kỳ diệu mà Chúa ban cho con người, và do vậy mang tính thần thánh. Và chính vì trong con người có cả hai dạng linh hồn cảm tính và lý tính, cho nên, một mặt, con người rất gần gũi với động vật, nhưng, mặt khác, lại là một cái gì đó siêu phàm. Vì xuất phát từ cả hai nguồn gốc trên( tức cả giới tự nhiên và Thượng đế) cho nên bên cạnh các hoạt động chính trị, khoa học, nghệ thuật,…con người còn cần đến tôn giáo. Bản tính của con người do vậy, không cho phép anh ta theo 12 hoàn toàn lập trường vô thần. Con người cần đến tôn giáo để vượt qua những lúc mềm yếu, bất lực. Tôn giáo đem lại cho người ta niềm tin. Nhưng mặt khác nhà thờ không được phép dùng các biện pháp chống lại các nhà vô thần, cũng như không được cản trở các hoạt động khoa học, nghệ thuật của con người. Nhìn chung, quan niệm của Bacon thể hiện sự thỏa hiệp của giai cấp tư sản Anh thời đó đối với các vấn đề tôn giáo. 1.3. Khái niệm về quy nạp và những đặc điểm của phương pháp quy nạp Quy nạp có nghĩa là quy về, dẫn về,…được hiểu là phương pháp tư duy mà mục dicdsh của nó là phân tích sự vận động của tri thức từ các phán đoán đơn nhất, riêng lẻ đến các phán đoán chung. Nó phản ánh bước chuyển tư tưởng từ những mệnh đề ít chung đến những mệnh đề có tính chung cao hơn. Có thể coi quy nạp là một dạng suy luận trong đó có sự thực hiện bước chuyển tri thức về những đối tượng riêng biệt của một lớp đến tri thức về toàn bộ lớp đó [9, 153]. - Các dạng suy luận của quy nạp Trước hết, người ta chia quy nạp ra thành quy nạp liệt kê hoàn toàn và quy nạp liệt kê không hoàn toàn. - Quy nạp liệt kê hoàn toàn Được thực hiện theo công thức sau: S1 là P S2 là P ……… Sn là P Biết rằng S1, S2,…Sn là toàn bộ các đối tượng của lớp S( n là số tự nhiên hữu hạn) 13 Do đó, kết luận : Tất cả S là P. Ví dụ : Tháng 10 ở Hà Nội có mưa, gió lạnh và ẩm Tháng 11 ở Hà Nội có mưa, gió lạnh và ẩm Tháng 12 ở Hà Nội có mưa, gió lạnh và ẩm Tháng 10, 11, 12 là các tháng của mùa đông. Do đó, mùa đông ở Hà Nội có mưa, gió lạnh và ẩm. Như vậy, quy nạp liệt kê hoàn toàn là một dạng suy luận quy nạp mà trong đó kết luận chung được rút ra trên cơ sở đã biết tất cả về các đối tượng của lớp cần nghiên cứu, không có ngoại lệ. Vị từ của các tiền đề và kết luận là cùng một cái. Quy nạp liệt kê hoàn toàn giống với các suy luận diễn dịch trong tính xác thực của kết luận. Trong loại quy nạp này, vị từ được chuyển từ loài sang giống, vì vậy, nó không đem lại tri thức về các đối tượng khác ngoài những cái có ở trong tiền đề. - Quy nạp liệt kê không hoàn toàn mà tại thời điểm rút ra kết luận không gặp mâu thuẫn Công thức sau : S1 là P S2 là P ………. Sn là P S1, S2,…, Sn là một phần lớp S Do đó, tất cả S là P 14 Chỉ cần một trường hợp trong phần lớp S mâu thuẫn là đủ làm cho kết luận của quy nạp liệt kê đó đã trở thành sai lầm. Một ví dụ kinh điển : “ Tất cả các thiên nga đều trắng ” trong suốt một thời gian dài tồn tại như một điều hiển nhiên đúng, nhưng khi ở Úc phát hiện ra một loại thiên nga có lông đen thì ví dụ trên đã không còn đúng nữa. Như vậy, kết luận của quy nạp liệt kê không hoàn toàn luôn mang đặc điểm xác suất. Bên cạnh đó, người ta còn phân chia các phương pháp quy nạp dựa trên việc thiết lập mối liên hệ nhân quả. Trong logic học, J.Mill( 1806 – 1873) là người đã xây dựng các phương pháp này một cách hoàn chỉnh. Ông đã đưa ra bốn phương pháp quy nạp dựa trên mối liên hệ nhân quả : - Phương pháp giống nhau duy nhất Các hoàn cảnh xảy ra Các hiện tượng quan sát trước( nguyên nhân) được( kết quả) 1 A, B, C a,b,c 2 A, D, E a, d, e Trường hợp Kết luận Khả năng, A là nguyên nhân của a Phương pháp này áp dụng với quan sát nhiều hơn là thực nghiệm. - Phương pháp khác biệt duy nhất Các hoàn cảnh xảy ra Các hiện tượng quan sát trước( nguyên nhân) được( kết quả) 1 A, B, C a,b,c 2 B, C b, c Trường hợp Kết luận Khả năng, A là nguyên nhân của a - Phương pháp phần dư 15 Hiện tượng cần nghiên cứu được chia thành các hiện tượng nhỏ cùng loại a, b, c, d. Người ta đã tìm ra những điều kiện có trước các hiện tượng trên là A, B, C, D. Biết : A là nguyên nhân của a B là nguyên nhân của b C là nguyên nhân của c Kết luận : Khả năng còn một hiện tượng D nào đó cùng loại với A, B, B là nguyên nhân của d. - Phương pháp cộng biến Những trường hợp xuất hiện như Hiện tượng cần được là những nguyên nhân nghiên cứu 1 A, B, C, D a 2 A1, B, C, D a1 3 A2, B, C, D a2 4 A3, B, C, D a3 Trường hợp Kết luận Khả năng A là nguyên nhân của a Thực chất của phương pháp này như sau : nếu cùng với sự thay đổi của hiện tượng A luôn kéo theo sự thay đổi của một hiện tượng a nào đó mà chúng ta quan tâm nghiên cứu và tất cả các hiện tượng khác B, C, D còn lại không thay đổi thì khả năng A là nguyên nhân của a [9, 167]. 16 Chương 2: Nội dung cơ bản trong phương pháp quy nạp của Francis Bacon 2.1. Phương pháp quy nạp của Aristotle và sự phê phán tam đoạn luận – diễn dịch của Francis Bacon 2.1.1. Phương pháp quy nạp của Aristotle Quy nạp được Aristotle nghiên cứu với tư cách là: 1) Hình thức suy luận xác thực, 2) Hình thức suy luận biện chứng, 3) Phương pháp nhận thức cái chung. Quy nạp với tư cách là phương tiện chứng minh tiền đề lớn của tam đoạn luận dạng hình I, tự nó được xác định thông qua một tam đoạn luận đặc biệt – được gọi là tam đoạn luận thông qua quy nạp. Loại tam đoạn luận quy nạp này khác với tam đoạn luận thông thường – được gọi là tam đoạn luận thông qua thuật ngữ giữa. Thuật ngữ về bản chất( B) là nguyên nhân hiện thực của một tính chất nào đó( A) của chủ từ G, được thể hiện trong kết luận. Như vậy, quy nạp là suy luận về nguyên nhân( B) của một tính quy định này hay khác( A) thông qua sự hiểu biết các tính chất của chủ từ G[8, 226]. Sơ đồ tam đoạn luận dạng I: MP Ví dụ: Mọi loài bò sát là động vật máu lạnh SM Rắn là một loài bò sát ----- -------------------------------------------- SP Vậy, rắn là một loài động vật máu lạnh Còn sơ đồ suy luận quy nạp có thể được thể hiện như sau: Giả sử A có nghĩa là sống lâu, B có nghĩa là không có mật, G là các động vật không có mật cụ thể như người, ngựa, la…Sơ đồ lúc này có dạng: 17 Bất kỳ động vật không có mật nào cũng sống lâu( B a A) Người, ngựa, la thực chất là những động vật không có mật( G a B) Vậy, người, ngựa, la sống lâu( G a A) Nếu thuật ngữ G không bao quát tất cả các động vật không có mật, thuật ngữ B không chu diên thì các tiền đề đã cho tất yếu rút ra theo dạng hình III( M P – M S → S P) của tam đoạn luận, kết luận lúc này chỉ là phán đoán bộ phận : Một số động vật không có mật, sống lâu( BiA). Trong trường hợp này là quy nạp không hoàn toàn. Kết luận của nó không là xác thực, mà chỉ là xác suất. Còn nếu thuật ngữ G bao gồm tất cả các động vật không có mật thì lúc này, theo hệ quả sẽ được gọi là quy nạp hoàn toàn. Quy nạp như vậy, về thực chất là một loại tam đoạn luận, và Aristotle gọi nó là “tam đoạn luận thông qua quy nạp”. Đối lập với nó là tam đoạn luận thông qua thuật ngữ giữa. Một cái như là kết luận thông qua tri thức về các tính chất của vật, đối lập với một cái như là suy luận về tính chất nào đó của chủ từ thông qua sự hiểu biết nguyên nhân của tính chất này. Bên cạnh đó, Aristotle cũng coi tam đoạn luận chứng minh là một dạng quy nạp khác. Đây là dạng không chứng minh, mà chỉ là lập luận chiện chứng, dẫn đến điều là : thừa nhận tri thức chung thông qua một tri thức bộ phận hoặc đơn nhất, nói cách khác, như là một dạng lập lập, đưa các trường hợp đơn nhất về chứng minh tính chân thực của cái chung [8, 229]. Dạng quy nạp này được Aristotle xem xét trong “ Topics ”. Ở chương 12, quyển I của “ Topics”, Aristotle viết : “ Sau việc này cần nghiên cứu xem, có bao nhiêu lập luận biện chứng. Một dạng quy nạp, còn dạng khác – tam đoạn luận. Tam đoạn luận là gì đã được nói đến trước đây. Còn quy nạp – là bước chuyển từ cái đơn nhất đến cái chung, ví dụ, nếu người cầm lái mà biết công việc, - là người tốt nhất, mà đồng thời người đánh xà ích – cũng là 18 người tốt nhất, thì nói chung người hiểu biết trong mỗi công việc – là người tốt nhất. Quy nạp có khả năng thuyết phục và cam kết, trong nhận thức, nó gần với tri giác cảm tính và được nhiều người nghiên cứu, còn tam đoạn luận – thì có tính bắt buộc hơn và hiện thực hơn trong mối quan hệ với những người chống đối – hay trong những cuộc tranh luận. Ở một chỗ khác của “Topics ”, Aristotle định nghĩa quy nạp như là bước chuyển từ cái đã biết nhiều hơn dựa trên cơ sở của tri giác cảm tính hay là dựa trên ý kiến của đa số mọi người, đến cái chưa biết ”. Hiển nhiên là, đối với Aristotle, kết luận quy nạp trong cả hai dạng của nó( quy nạp không hoàn toàn và quy nạp tam đoạn luận – hoàn toàn), là không chỉ sự liên kết có trong các phán đoán bộ phận và phán đoán đơn nhất, mà còn là dạng tri thức mới, đó chính là tri thức về cái chung, về nguyên nhân và về các hệ quả của nó, hoặc là tri thức về tính quy luật [8, 231]. Cũng vì vậy, mà tam đoạn luận : Bất kỳ người nào cũng là thực thể sống Dion là người Vậy, Dion là thực thể sống. Tam đoạn luận trên không mang lại tính hiệu quả, hay tri thức gì mới. Trong khi đó, theo Aristotle thì cái chung là nó mà không phải chỉ có giá trị “bây giờ và “ở đây”, mà nó “luôn luôn” và có ở “khắp nơi” – trong bất kỳ thời gian nào và ở bất kỳ vị trí nào. Vấn đề quy nạp như là phương pháp nhận thức cái chung xuất hiện ở Aristotle trong mối liên hệ với học thuyết của ông về tính nhận thức được cái chung thông qua cái đơn nhất và sự phủ định dứt khoát tính bẩm sinh của tri thức. Nếu cái chung không tồn tại ngoài cái đơn nhất và nhận thức được chỉ thông qua cái đơn nhất, thì phương pháp nhận thức cái chung có thể chỉ là đi từ đơn nhất đến cái chung, chỉ có quy nạp. 19 Từ đó, có thể thấy : vấn đề quy nạp như là một phương pháp khoa học. Và các nguyên tắc của phương pháp nghiên cứ bằng quy nạp các mối liên hệ nhân quả, lần đầu tiên được hình thành bởi người đặt nền móng cho chủ nghĩa duy vật Anh Francis Bacon dưới dạng các quy tắc xây dựng các bảng “ có mặt” , “vắng mặt ” và “ trình độ”. Nhưng một trong những khuyết tất cơ bản đầu tiên của Bacon đó là tính máy móc của các thủ pháp lựa chọn và kiểm tra. 2.1.2. Sự phê phán tam đoạn luận – diễn dịch của Francis Bacon Bên cạnh học thuyết về ngẫu tượng sẽ được trình bày ở phần sau, thì sự phê phán tam đoạn luận – diễn dịch là bước quá độ đi đến việc xây dựng phương pháp quy nạp của Bacon. Tam đoạn luận của Aristotle, đặc biệt là khi nó được các nhà triết học kinh viện sử dụng theo hướng kinh viện, tư biện thì chỉ dừng lại ở trình độ phân tích ngôn từ. Theo Bacon, điều này là vô tác dụng đối với việc nhận thức tự nhiên [6]. Theo Bacon, tam đoạn luận – diễn dịch cho chúng ta những kết luận về tri thức không thể vượt ra khỏi khuôn khổ nội dung tri thức chứa trong các tiền đề và không thể cho ta tri thức mới. Vì theo ông, tri thức mới là tri thức phải chứa đựng những nội dung phản ánh những hình thức của tự nhiên, chứ không phải do sức mạnh của tư duy sáng tạo ra. Suy cho cùng, tam đoạn luận – diễn dịch là kết quả của sự khái quát từ kinh nghiệm. Bacon cho rằng các nhà kinh viện khi sử dụng tư tưởng của Aristotle đã dựa vào quan sát một số chứng cứ hoàn toàn không đầy đủ để tạo nên những khái niệm rộng nhất và biến chúng thành cơ sở của tri thức. Họ dựa vào một vài bằng chứng, ví dụ vụn vặt để xây dựng nên các tiên đề và khẳng định một cách vô căn cứ về bản chất sự vật. Do đó, theo ông, bộ máy khái niệm của chủ nghĩa kinh viện không thể trở thành cơ sở thực tế cho việc nhận thức giới tự nhiên một cách khoa học [6]. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan