Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Pháp luật về bồi thường thiệt hại đối với vật nuôi khi nhà nước thu hồi đất thực...

Tài liệu Pháp luật về bồi thường thiệt hại đối với vật nuôi khi nhà nước thu hồi đất thực tiễn tại tỉnh sóc trăng

.PDF
44
344
80

Mô tả:

Thu hồi đất là một quá trình không phải tự nguyện, có tính cưỡng chế, không phải là sự đền bù ngang giá tuyệt đối. Từ đó thấy rằng công tác bồi thường được hiểu không chỉ là sự đền bù vật chất đơn thuần mà còn bảo phải thiểu tối đa những thiệt hại mà chủ thể bị thu hồi phải chịu, tạo mọi điều kiện để giúp cho chủ thể bị thu hồi ổn định đời sống, tiếp tục sản xuất. Công tác bồi thường thiệt hại vật nuôi khi Nhà nước thu hồi đất cũng không ngoài mục tiêu là làm giảm mức chênh lệch về sự thiếu ngang giá trong quá trình bồi thường, trả lại giá trị đã mất đi của tài sản gắn liền với phần đất bị thu hồi. Do đó, thu hồi đất là hoạt động hỗ trợ đắc lực nhất cho Nhà nước trong quá trình bồi thường thiệt hại. Mục đích thu hồi đất nhằm xác định rõ lý do của việc thu hồi cũng như việc sử dụng phần đất bị thu hồi trong tương lai. Việc xác định rõ mục đích thu hồi đất vừa bảo đảm tính dân chủ, công khai, minh bạch trong quá trình thu hồi đất, vừa khẳng định rõ nhu cầu cần thiết của việc thu hồi, không để xảy ra tình trạng đất đã thu hồi nhưng không biết sử dụng cho mục đích gì. Đồng thời phân biệt giữa thu hồi đất với cơ chế thoả thuận để nhận chuyển nhượng, thuê, nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất khi thực hiện dự án; tránh tình trạng lạm dụng thu hồi đất. Mục đích thu hồi đất khác nhau thì trình tự, thủ tục thu hồi đất, quyền lợi và nghĩa vụ của người có đât thu hồi cũng khác biệt. Cụ thể theo Luật đất đai năm 2013 thu hồi đấ được chia thành các nhóm cơ bản sau: (i) Thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng; (ii) Thu hồi đất do vi phạm pháp luật đất đai; (iii) Thu hồi đất do chấm dứt việc sử dụng đất theo pháp luật, tự nguyện trả lại đất, có nguy cơ đe doạ tính mạng con người. Mục đích thu hồi đất được nghiên cứu trong phần thứ hai của giáo trình là thu hồi đất vì mục đích quốc phòng an ninh (Điều 61 Luật đất đai năm 2013) và thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng (Điều 62 Luật đất đai năm 2013). Khoản 3 Điều 54 Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên đã quy định về mục đích thu hồi đất nêu trên, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho công tác thu hồi đất. Ở Việt Nam, mục đích thu hồi đất chỉ được quy định chi tiết từ giai đoạn Luật đất đai năm 1993 và cũng khẳng định việc thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng. Sau đó, mục đích phát triển phát triển kinh tế đã chính thức được quy định ở Luật đất đai năm 2003. Điều này đặt ra câu hỏi, liệu vì mục đích phát triển kinh tế mà thu hồi đất của người sử dụng đất như vậy có ổn hay không? Vì việc phát triển kinh tế là rất rộng và sẽ có một, một nhóm chủ thể được hưởng lợi từ việc sử dụng phần đất sau thu hồi. Mục đích phát triển kinh tế vẫn tiếp tục được quy định tại Luật đất đai năm 2013 nhưng phạm vi đã thu hẹp và xác định khá rõ mục đích của các dự án phát triển kinh tế này, đó là vì lợi ích quốc gia, công cộng. Quan niệm về mục đích thu hồi đất ở nước ta có điểm đáng lưu ý là sự xuất hiện và phát triển của mục đích phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng11. 1.3 Sơ lược sự hình thành và phát triển của việc bồi thường vật nuôi khi Nhà nước thu hồi đất. 1.3.1 Giai đoạn trước Lluật đất đai năm 1993 Nhìn chung giai đoạn này công tác giải phóng mặt bằng còn đơn giản, đặt lợi ích xã hội, cộng đồng lên lợi ích cá nhân một cách mạnh mẽ. Hơn nữa, người sử dụng đất trước năm 1993 có những quyền năng rất hạn chế, đất đai lại không được xem là một loại tài sản lưu thông trên thị trường nên nếu có “giải toả” cho những dự án công cộng, thì tài sản trên đất được bồi hoàn cho chủ sở hữu tài sản nhưng đất đai chủ yếu là hoán đổi. Do đất đai không được xem là tài sản “có giá” nên sự hoán đổi mang tính chất tượng trưng, cung cấp những điều “kiện hoán” đổi để người sử dụng đất có thể sống được”. Điều này dựa trên cơ sở lý luận: đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước quản lý; người sử dụng đất do Nhà nước giao, nên khi cần Nhà nước có thể “lấy lại” và “giao lại” một thửa đất khác (Phan Trung Hiền, 2003). Luật đất đai 1987 có quy định: “Khi đất đang sử dụng bị thu hồi vì nhu cầu của Nhà nước hoặc nhu cầu của xã hội, thì được đền bù thiệt hại thực tế và giao đất khác”12. Quy định này chỉ dừng lại ở mức độ khái quát chưa quy định cụ thể trường hợp nào được hay không được bồi thường; mức độ bồi thường như thế nào. Với sự thiếu sót đó ngày 31/5/1990 Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 186/HĐBT quy định về đền bù thiệt hại với đất nông nghiệp, đất có rừng khi chuyển sang sử dụng vào mục đích khác. Quyết định này có ý nghĩa là người sử dụng đất nông nghiệp, đất có rừng sử dụng vào mục đích khác thì phải đền bù thiệt hại về đất nông nghiệp, đất rừng cho Nhà nước và đền bù thiệt hại về tài sản cho người có đất bị thu hồi để giao cho người sử dụng. Mức đền bù do Nhà nước quy định theo từng loại đất và tài sản trên đất.
Pháp luật về bồi thường thiệt hại đối với vật nuôi khi nhà nước thu hồi đất thực tiễn tại tỉnh Sóc Trăng MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................................ 1 2. Mục tiêu nghiên cứu ...................................................................................................... 2 3. Phạm vi nghiên cứu ....................................................................................................... 2 5. Kết cấu của đề tài........................................................................................................... 3 CHƯƠNG 1. SƠ LƯỢC VỀ VẤN ĐỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI ĐỐI VỚI VẬT NUÔI KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT ....................................................................... 4 1.1 Một số khái niệm cơ bản ............................................................................................. 4 1.1.1 Khái niệm thu hồi đất .......................................................................................... 4 1.1.2 Khái niệm về vật nuôi và các loại vật nuôi. ........................................................ 5 1.1.3 Khái niệm về bồi thường thiệt hại vật nuôi khi Nhà nước thu hồi đất ............. 7 1.2. Vai trò và mục đích của Nhà nước khi thu hồi đất đối với vật nuôi ..................... 7 1.2.1 Vai trò của Nhà nước khi thu hồi đất đối với vật nuôi ..................................... 7 1.2.2 Mục đích của Nhà nước khi thu hồi đất đối với vật nuôi ................................. 9 1.3 Sơ lược sự hình thành và phát triển của việc bồi thường vật nuôi khi Nhà nước thu hồi đất......................................................................................................................... 10 1.3.1 Giai đoạn trước luật đất đai năm 1993 ................................................................ 10 1.3.2 Giai đoạn từ khi có luật đất đai năm 1993 đến khi có luật đất đai năm 2003 .... 11 1.3.3. Giai đoạn từ khi có luật Đất đai năm 2003 đến khi có luật Đất đai năm 2013 . 12 1.3.4. Giai đoạn từ khi có Luật đất đai 2013 đến nay ................................................... 13 CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI VỀ VẬT NUÔI KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT............................................................ 14 2.1 Chủ thể và điều kiện thực hiện về bồi thường thiệt hại đối với vật nuôi khi Nhà nước thu hồi đất ............................................................................................................... 15 2.1.1. Chủ thể thực hiện bồi thường thiệt hại, hỗ trợ đối với vật nuôi khi Nhà nước thu hồi đất .................................................................................................................. 15 2.1.2. Trường hợp vật nuôi được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ................ 18 2.1.3 Trường hợp vật nuôi không được bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đât ............................................................................................................................... 20 GVHD: PGS.TS.Phan Trung Hiền SVHT: Trần Sơn Nhất Pháp luật về bồi thường thiệt hại đối với vật nuôi khi nhà nước thu hồi đất thực tiễn tại tỉnh Sóc Trăng 2.2 Một số lưu ý khi xác định thiệt hại và bồi thường thiệt hại vật nuôi. ................... 23 2.2.1 Thời điểm xác định nuôi vật nuôi khi Nhà nước thu hồi đất .......................... 23 2.2.2 Đất đủ điều kiện bồi thường thiệt hại về vật nuôi khi Nhà nước thu hồi đất 23 2.2.3 Quy định về mật độ vật nuôi .............................................................................. 24 2.3 Quy định về giá bồi thường thiệt hại về vật nuôi theo quy định của pháp luật .. 25 2.4 Trình tự, thủ tục thực hiện bồi thường thiệt hại đối với vật nuôi khi Nhà nước thu hồi đất......................................................................................................................... 25 2.5 Khiếu nại khiếu kiện và xử lý vi phạm trong công tác bồi thường thiệt hại vật nuôi khi Nhà nước thu hồi đất ........................................................................................ 31 2.5.1 Khiếu nại khiếu kiện trong công tác bồi thường thiệt hại vật nuôi khi Nhà nước thu hồi đất. ........................................................................................................ 31 2.5.2 Xử lý vi phạm trong công tác bồi thường thiệt hại vật nuôi khi Nhà nước thu hồi đất ......................................................................................................................... 31 CHƯƠNG 3. THỰC TIỄN BỒI THUỒNG THIỆT HẠI VỀ VẬT NUÔI KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH..........................................................33 3.1 Những quy định triển khai chính sách bồi thường thiệt hại về vật nuôi đối với người dân bị thu hồi đất theo Luật đất đai trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng nói chung và quy định cụ thể của tỉnh về bồi thường thiệt hại với vật nuôi khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn Tỉnh Sóc Trăng. ................................................................................... 33 3.2 Thuận lợi và khó khăn trong công tác triển khai bồi thường thiệt hại về vật nuôi đối với người dân khi bị thu hồi đất trên địa bàn Tỉnh Sóc Trăng............................. 35 3.2.1 Thuận lợi trong công tác triển khai bồi thường thiệt hại về vật nuôi đối với người dân khi bị thu hồi đất trên địa bàn Tỉnh Sóc Trăng ....................................... 36 3.2.2 Khó khăn trong công tác triển khai bồi thường thiệt hại về vật nuôi đối với người dân khi bị thu hồi đất tại Tỉnh Sóc Trăng. ..................................................... 37 3.3 Giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại về vật nuôi khi nhà nước thu hồi đất......................................................................................................................... 38 3.3.1. Đối với cơ quan nhà nước ................................................................................ 38 3.4.2. Đối với người dân ............................................................................................. 39 KẾT LUẬN ...................................................................................................................... 41 GVHD: PGS.TS.Phan Trung Hiền SVHT: Trần Sơn Nhất Pháp luật về bồi thường thiệt hại đối với vật nuôi khi nhà nước thu hồi đất thực tiễn tại tỉnh Sóc Trăng LỜI MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong thời kỳ đất nước ngày càng phát triển, Việt Nam đang tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, hướng tới công nghiệp hoá hiện đại hoá phấn đấu đến năm 2020, đây chính là những mục tiêu cần đạt được. Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thì việc phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm. Trên đà phát triển của đất nước, nhất là trong thời kỳ hội nhập quốc tế, sẽ có nhiều dự án đầu tư xây dựng và nhiều hạng mục công trình khác xác lập, cần thiết cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Việc đầu tư cho các công trình này, chủ yếu dựa vào nguồn quỹ đất, đây là tiềm lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển. Nhưng công việc này không phải là vấn đề đơn giản, khi mà quỹ đất công hạn chế không đáp ứng đủ nhu cầu đề ra, buộc Nhà nước phải thực hiện phương án thu hồi đất từ dân, việc thu hồi này hoàn toàn đúng đắn, phục vụ cho sự phát triển, cho lợi ích chung của quốc gia, dân tộc; Tuy nhiên, người dân khi bị thu hồi đất phần lớn sẽ bị thiệt hại, cuộc sống thường nhật bị xáo trộn. Mặt khác, phần lớn đất bị thu hồi là đất nông nghiệp, nước ta tỉ lệ người dân làm nông nghiệp khá cao. Để khắc phục cho người dân những phần thiệt hại đó, trong thời gian gần đây Nhà nước ta đã có những chính sách thu hồi đất đi liền với bồi thường, hỗ trợ cho người dân; Nhưng thực tế cho thấy việc bồi thường không phải chỉ thiệt hại về đất, mà còn có những thiệt hại mà trong quá trình thu hồi đất gây ra, trong đó có vấn đề “thiệt hại về vật nuôi khi thu hồi đất”. Đây là vấn đề nhạy cảm và mang tính thời sự cao. Bởi cơ cấu đất sử dụng cho nông nghiệp của nước ta chiếm tỉ trọng cao, việc thu hồi đất đa phần là đất tốt, sẽ ít nhiều ảnh hưởng đến đất nông nghiệp và những sản phẩm nông nghiệp có trên đất. Vì thế có một số bộ phận không nhỏ trong số người dân bị thu hồi đất bức xúc do mức giá bồi thường chưa thật sự hợp lý, tương xứng với giá hiện tại của thị trường, chính sách bồi thường chưa phù hợp, việc hỗ trợ vật nuôi cho người dân chưa đạt hiệu quả cao, khi mà pháp luật bồi thường thiệt hại về vật nuôi của nước ta vẫn đang trong tiến trình hoàn thiện. Trong bối cảnh chung đó, tỉnh Sóc Trăng đã có những sự vươn lên vượt bậc trong công cuộc xây dựng và phát triển góp một phần vào tiến trình phát triển sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá của quê hương, đất nước. Trong đó, có nhiều hạng mục công trình được đầu tư xây dựng để phát triển cơ sở hạ tầng, mà chủ yếu được xây dựng trên đất sản xuất nông nghiệp của người dân, người dân trong các xã, huyện, thành phố đa GVHD: PGS.TS.Phan Trung Hiền Trang 1 SVHT: Trần Sơn Nhất Pháp luật về bồi thường thiệt hại đối với vật nuôi khi nhà nước thu hồi đất thực tiễn tại tỉnh Sóc Trăng phần phấn khởi, vui mừng trước sự thay da, đổi thịt của quê hương. Nhưng, trong quá trình triển khai chính sách bồi thường thiệt hại với vật nuôi trên địa bàn còn nhiều bất cập, ảnh hưởng không ít đến tiến độ giải phóng mặt bằng, làm chậm tiến độ dự án đầu tư, vì thế việc tìm ra những cơ sở lý luận, ưu diểm, khuyết điểm cùng với những đề xuất của người viết trong công tác bồi thường thiệt hại về vật nuôi Chính vì thế, người viết lựa chọn đề tài: “Pháp luật về bồi thường thiệt hại đối với vật nuôi khi Nhà nước thu hồi đất thực tiễn tại tỉnh Sóc Trăng” làm mục tiêu nghiên cứu của mình. 2. Mục tiêu nghiên cứu Trọng tâm của đề tài, người viết tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật về những vấn đề bồi thường thiệt hại về vật nuôi khi Nhà nước thu hồi đất thực tiễn áp dụng tại tỉnh Sóc Trăng, qua thực tiễn áp dụng đó ta có thể tìm ra được những thuận lợi và khó khăn trong quá trình áp dụng pháp luật vào thực tế, qua đó thấy được những thiếu sót, những trường hợp được bồi thường và không được bồi thường cũng như những trường hợp bị thiệt hại nhưng không được Nhà nước bồi thường thiệt hại về vật nuôi, nhằm khắc phục khó khăn hạn chế để đảm bảo quyền lợi chính đáng của người bị thiệt hại, trên cơ sở hài hòa lợi ích của các bên giữa người bị thu hồi đất, chủ đầu tư và Nhà nước. Góp phần hạn chế những bức xúc của người dân, tránh những tình trạng khiếu nại, khiếu kiện, tạo thành những điểm nóng của người dân bị thiệt hại do quá trình thu hồi đất gây nên. Tạo ra dư luận không tốt về các chính sách của Nhà nước, làm cho kẻ thù xuyên tạc, kích động, phá rối an ninh trật tự xã hội trên địa bàn. 3. Phạm vi nghiên cứu Người viết tập trung nghiên cứu các quy định về bồi thường thiệt hại về vật nuôi khi Nhà nước thu hồi đất, những văn bản pháp luật có liên quan và những yếu tố có ảnh hưởng đến việc bồi thường thiệt hại vật nuôi. Nghiên cứu ở cả hai phương diện lý luận và thực tế áp dụng pháp luật về bồi thường thiệt hại đối với vật nuôi trong địa bàn tỉnh Sóc Trăng. 4. Phương pháp nghiên cứu Để đạt được những mục tiêu nghiên cứu, người viết vận dụng và kết hợp các phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp, tài liệu, văn bản liên quan và xâm nhập thực tế qua điền dã, khảo sát... để tiến hành đánh giá, phân tích những quy định của pháp luật trong bồi thường thiệt hại về vật nuôi khi Nhà nước thu hồi đất. GVHD: PGS.TS.Phan Trung Hiền Trang 2 SVHT: Trần Sơn Nhất Pháp luật về bồi thường thiệt hại đối với vật nuôi khi nhà nước thu hồi đất thực tiễn tại tỉnh Sóc Trăng 5. Kết cấu của đề tài Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được chia làm 03 chương và trình bày như sau: Chương 1: Sơ lược về vấn đề bồi thường thiệt hại đối với vật nuôi khi Nhà nước thu hồi đất. Trong phạm vi của chương này người viết tập trung vào cơ sở lý luận chung về bồi thường thiệt hại về vật nuôi khi Nhà nước thu hồi đất như: các khái niệm về thu hồi đất, khái niệm vật nuôi và loại vật nuôi, song song đó người viết cũng nêu lên mục đích và vai trò của công tác bồi thường thiệt hại vật nuôi, sơ lược sự hình thành và phát triển của việc bồi thường vật nuôi khi Nhà nước thu hồi đất cũng như những lưu ý khi xác định thiệt hại về vật nuôi để tạo tiền đề làm cơ sở cho chương 2. Chương 2: Quy định của pháp luật về bồi thường thiệt hại vật nuôi khi Nhà nước thu hồi đất Trong chương này, ngoài việc trình bày quy định pháp luật, pháp luật về bồi thường thiệt hại đối với cây trồng vật nuôi khi Nhà nước thu hồi đất như điều kiện để được bồi thường, chủ thể thực hiện bồi thường, cách tính bồi thường, khiếu nại khiếu kiện và xử lý vi phạm trong công tác bồi thường thiệt hại vật nuôi khi Nhà nước thu hồi đất; Song song đó, có sự phân tích đánh giá những điểm hợp lý và chưa hợp lý của các quy định có liên quan, từ đó làm cơ sở cho chương 3 so sánh đối chiếu giữa lý luận và thực tiễn để tìm ra các giải pháp, góp phần hướng tới hoàn thiện pháp luật trong quá trình nghiên cứu. Chương 3: Thực tiễn pháp luật về bồi thường thiệt hại với vật nuôi khi Nhà nước thu hồi đất tại tỉnh Sóc Trăng Chương này, người viết nêu lên tình hình thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn Tỉnh Sóc Trăng, qua đó người viết đưa ra những thuận lợi, khó khăn khi thực hiện công tác bồi thường thiệt hại về vật nuôi, những thiệt hại về vật nuôi chưa được bồi thường từ đó đưa ra giải pháp khắc phục và hoàn thiện hơn. GVHD: PGS.TS.Phan Trung Hiền Trang 3 SVHT: Trần Sơn Nhất Pháp luật về bồi thường thiệt hại đối với vật nuôi khi nhà nước thu hồi đất thực tiễn tại tỉnh Sóc Trăng CHƯƠNG 1. SƠ LƯỢC VỀ VẤN ĐỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI ĐỐI VỚI VẬT NUÔI KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT 1.1 Một số khái niệm cơ bản 1.1.1 Khái niệm thu hồi đất Đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá có vai trò đặc biệt trong đời sống kinh tế-xã hội. Đất đai nước ta có cơ cấu phong phú và đa dạng như: đất rừng, đất nông nghiệp, đất công nghiệp, đất khai thác khoáng sản,... tất cả được quản lý, khai thác, sử dụng hợp lý, một cách khoa học sẽ giúp ích cho sự phát triển kinh tế xã hội của quốc gia, ở nước ta đất đai thuộc sở hữu của toàn dân, nên từ đó xuất hiện khái niệm giao và thu hồi đất. Về mặt pháp luật, theo Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 nêu rõ: “Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý”1 trong khi đó Luật Đất đai năm 2013 cũng quy định: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý”2. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của luật này. Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 là Hiến pháp đầu tiên ghi nhận cơ sở hiến định về thu hồi đất của Việt Nam, là cơ sở pháp lí quan trọng để Luật Đất đai năm 2013 quy định chi tiết các trường hợp thu hồi đất. Theo đó Luật Đất đai năm 2013 có quy định “Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước quyết định thu lại quyền sử dụng đất của người được Nhà nước trao quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất của người sử dụng đất vi phạm pháp luật về đất đai.” 3 Tuy nhiên việc thu hồi đất có rất nhiều nguyên nhân mà từ khái niệm ta có thể thấy thu hồi đất được chia làm hai nhóm: Nhóm 1 là thu hồi đất của các đối tượng được Nhà nước trao quyền sử dụng đất nay thu hồi lại vì mục đích quốc phòng, an ninh;4 phát triển kinh tế- xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng;5 Nhóm 2: Nhà nước thu hồi đất do vi phạm phạm pháp luật về đất đai6 hoặc do chấm dứt việc sử dụng đất theo pháp luật, tự nguyện trả lại đất, có nguy cơ đe dọa tính mạng con 1 Điều 53 hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Điều 4 Luật đất đai năm 2013. 3 Khoản 11, Điều 3 Luật Đất đai năm 2013. 4 Điều 61 Luật Đất đai năm 2013. 5 Điều 62 Luật Đất đai năm 2013. 6 Điều 64 Luật Đất đai năm 2013. 2 GVHD: PGS.TS.Phan Trung Hiền Trang 4 SVHT: Trần Sơn Nhất Pháp luật về bồi thường thiệt hại đối với vật nuôi khi nhà nước thu hồi đất thực tiễn tại tỉnh Sóc Trăng người7 nhưng trong phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ tập trung vào việc thu hồi đất vì mục đích quốc phòng an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Thu hồi đất được xem là thành phần cốt lõi trong quá trình thực hiện các dự án, kế hoạch đầu tư cho quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và phát triển kinh tế vì nó không những ảnh hưởng tới tiến độ dự án mà còn ảnh hưởng đến an ninh kinh tế ổn định về xã hội của khu vực bị thu hồi đất, Nhà nước thu hồi đất sẽ phải bồi thường về đất, bồi thường thiệt hại về tài sản mà trong đó có vật nuôi, trong khi tiến hành thu hồi đất mà có thiệt hại về vật nuôi thì được bồi thường, vì thế việc thu hồi đất là cơ sở để hình thành lên chế định bồi thường về vật nuôi. 1.1.2 Khái niệm về vật nuôi và các loại vật nuôi. Theo giáo trình giống vật nuôi của giáo viên Đặng Vũ Bình thì vật nuôi là các động vật đã được thuần hóa và chăn nuôi trong lĩnh vực nông nghiệp.Vật nuôi chủ yếu là gia súc và gia cầm. Hầu hết các vật nuôi ngày nay nhất là trong nước đều có nguồn gốc từ các động vật hoang dã. Quá trình biến các động vật hoang dã thành vật nuôi được gọi là quá trình thuần hóa, quá trình này được thực hiện bởi con người. Còn trong Luật Đất đai 2013 cũng có quy định vật nuôi được bồi thường là thuỷ sản. Vật nuôi là gia súc gia cầm: Giống vật nuôi là một tập hợp các vật nuôi có chung một nguồn gốc nhất định, chúng được hình thành trong quá trình chọn lọc và tạo gống của con người. Các giống vật nuôi có đặc điểm về ngoại hình, sinh lý, sinh hoá và các lợi ích kinh tế khác nhau. Căn cứ vào nguồn gốc các giống vật nuôi được chia làm 2 nhóm sau: + Giống địa phương: là giống có nguồn gốc địa phương, được hình thành và phát triển trong điều kiện kinh tế xã hội, tự nhiên của địa phương. Chẳng hạn lợn móng Cái, Bò Vàng, Vịt cỏ,... Là giống địa phương của nước ta. Các giống địa phương có khả năng thích ứng cao với điều kiện và tập quán chăn nuôi của địa phương, sức chống bệnh tốt xong năng suất thường bị hạn chế + Giống nhập là các giống có nguồn gốc từ các vùng khác hoặc nước khác, các giống nhập nội thường là giống có năng xuất cao hoặc có những đặc điểm tốt nổi bật so với địa phương. Tuy nhiên, do nguồn gốc xuất phát ở cùng có điều kiện môi trường khác biệt với nơi nhập vào nuôi, các giống nhập phải thích ứng với điều kiện sống mới. Điều 7 Điều 65 Luật Đất đai năm 2013. GVHD: PGS.TS.Phan Trung Hiền Trang 5 SVHT: Trần Sơn Nhất Pháp luật về bồi thường thiệt hại đối với vật nuôi khi nhà nước thu hồi đất thực tiễn tại tỉnh Sóc Trăng này tuỳ thuộc vào khả năng thích nghi của giống nhập vào những điều kiện mà con người tạo ra nhằm giúp chúng thích ứng với điều kiện sống ở nơi ở mới.8 -Vật nuôi là thuỷ sản: Thủy sản là một thuật ngữ chỉ chung về những nguồn lợi, sản vật đem lại cho con người từ môi trường nước và được con người khai thác, nuôi trồng thu hoạch sử dụng làm thực phẩm, nguyên liệu hoặc bày bán trên thị trường. Trong các loại thủy sản, thông dụng nhất là hoạt động đánh bắt, nuôi trồng và khai thác các loại cá. Một số loài cá là: cá trích, cá tuyết, cá cơm, cá ngừ, cá bơn, cá đối, cá hồi, hàu, tôm và sò điệp có năng suất khai thác cao. Trong đó ngành thủy sản có liên quan đến việc đánh bắt cá tự nhiên hoặc cá nuôi thông qua việc nuôi cá. Nuôi trồng thủy sản đã trực tiếp hoặc gián tiếp tác động lớn đến đời sống của hơn 500 triệu người ở các nước đang phát triển phụ thuộc vào nghề cá và nuôi trồng thủy sản. - Phân lại các loài thủy sản được dựa theo đặc điểm cấu tạo loài tính ăn và môi trường sống và khí hậu. + Nhóm cá (fish): Là những động vật nuôi có đặc điểm cá rõ rệt, chúng có thể là cá nước ngọt hay cá nước lợ. Ví dụ: cá tra, cá bống tượng, cá chình… + Nhóm giáp xác (crustaceans): Phổ biến nhất là nhóm giáp xác mười chân, trong đó tôm và cua là các đối tượng nuôi quan trọng. Ví dụ: Tôm càng xanh, tôm sú, tôm thẻ, tôm đất, cua biển. + Nhóm động vật thân mềm (molluscs): Gồm các loài có vỏ vôi, nhiều nhất là nhóm hai mảnh vỏ và đa số sống ở biển (nghêu, sò huyết, hàu, ốc hương,….) và một số ít sống ở nước ngọt (trai, trai ngọc). + Nhóm rong (Seaweeds): Là các loài thực vật bậc thấp, đơn bào, đa bào, có loài có kích thước nhỏ, nhưng cũng có loài có kích thước lớn như Chlorella, Spirulina, Chaetoceros,Sargassium (Alginate), Gracillaria… dùng lấy agar agar). + Nhóm bò sát hay lưỡng thê: thường được nuôi để lấy thịt, lấy da dùng làm thực phẩm hoặc dùng trong mỹ nghệ như đồi mồi (lấy vây), ếch (lấy da và thịt), cá sấu (lấy da),... Như vậy ta có thể thấy trong công tác đền bù về vật nuôi thì chỉ có vật nuôi là thủy sản mới có quyền được bồi thường thiệt hại còn các loại vật nuôi gia súc gia cầm không 8 Đặng Vũ Bình, Giáo trình giống vật nuôi. GVHD: PGS.TS.Phan Trung Hiền Trang 6 SVHT: Trần Sơn Nhất Pháp luật về bồi thường thiệt hại đối với vật nuôi khi nhà nước thu hồi đất thực tiễn tại tỉnh Sóc Trăng được bồi thường, trong khuôn khổ nghiên cứu đề tài vật nuôi được hiểu là các loài thủy sản. 1.1.3 Khái niệm về bồi thường thiệt hại vật nuôi khi Nhà nước thu hồi đất Bồi thường là hệ quả pháp lý do Nhà nước trực tiếp là hành vi thu hồi đất của Nhà nước gây ra. Trong mối quan hệ song phương giữa Nhà nước (Chủ thể có hành vi thu hồi đất) với bên là người dân (người chịu tổn hại về hành vi thu hồi đất do Nhà nước gây ra). Thiệt hại là bị mất mát hay tổn thất về người, về của cải vật chất hoặc tinh thần9. Thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất là những thiệt hại mà người dân phải gánh chịu có nguồn gốc trực tiếp hoặc gián tiếp từ hoạt động thu hồi đất. Theo Luật Đất đai năm 2013, việc thu hồi đất dựa trên căn cứ quan trọng nhất là kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện10. Quá trình này được tính từ khi Nhà nước công bố kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện - căn cứ thu hồi đất - đến khi người dân ổn định cuộc sống tại nơi ở mới (nếu có di chuyển chỗ ở). Dưới những tiêu chí, khía cạnh khác nhau, có thể phân chia thành các nhóm thiệt hại khác nhau. Theo khoản 11 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013, Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước thu lại quyền sử dụng đất của người được Nhà nước trao quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất của người sử dụng đất vi phạm pháp luật đất đai. 1.2. Vai trò và mục đích của Nhà nước khi thu hồi đất đối với vật nuôi 1.2.1 Vai trò của Nhà nước khi thu hồi đất đối với vật nuôi Thu hồi đất là vấn đề hết sức phức tạp và nhạy cảm, các quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư phải thường xuyên thay đổi để phù hợp với tình hình thực tế để tránh tình trạng bức xúc và dẫn đến tình trạng khiếu nại của người có đất bị thu hồi trong các dự án quy hoạch sử dụng đất, bởi thế trong công tác bồi thường thiệt hại về vật nuôi đóng một vai trò không nhỏ nhằm hài hoà lợi ích các bên. Thứ nhất, đối với nước ta là một quốc gia nông nghiệp và xuất khẩu nhiều mặt hàng nông, lâm, thủy sản xuất khẩu đứng nhất, nhì trong tốp đầu của thế giới, điều đó cho thấy nông nghiệp và đất đai có vai trò đặc biệt quan trọng trong sản xuất và phát triển kinh tế. Các chính sách về đất đai có ảnh hưởng to lớn đến sự ổn định và phát triển của nền kinh tế cũng như tình hình chính trị trong nước. Chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư là một trong những chính sách về đất đai được nhận rất nhiều sự quan tâm theo dõi của Đảng, Nhà nước, Các đoàn thể và nhân dân. Riêng mảng bồi thường thiệt hại về vật nuôi 9 Hoàng Phê (chủ biên), Từ điển tiếng Việt, Trung tâm Từ điển học, Nhà xuất bản. Đà Nẵng, 2006, tr.1214. Xem khoản 2, Điều 63 Luật Đất đai năm 2013. 10 GVHD: PGS.TS.Phan Trung Hiền Trang 7 SVHT: Trần Sơn Nhất Pháp luật về bồi thường thiệt hại đối với vật nuôi khi nhà nước thu hồi đất thực tiễn tại tỉnh Sóc Trăng ảnh hưởng trực tiếp lợi ích của các chủ thể bị thu hồi. Nếu đền bù, giải quyết không thỏa đáng hợp lý, sẽ là nguyên nhân tạo ra những điểm nóng và dẫn đến tình trạng khiếu nại, khiếu kiện vượt cấp, tụ tập biểu tình đông người, dễ bị những phần tử xấu lợi dụng gây mất an ninh, trật tự, ảnh hưởng đến đời sống, sự phát triển nền kinh tế. Ngược lại, nếu như giải quyết thỏa đáng sẽ nhận được sự ủng hộ nhiệt tình của người dân, chủ thể bị thu hồi đất nhanh chóng bàn giao đất tạo điều kiện cho chủ đầu tư thi công, công trình đẩy nhanh tiến độ hoàn thành dự án, hạn chế lãng phí thời gian và chi phí, tạo điều kiện phát triển kinh tế, củng cố nền chính trị. Thứ hai, đối với chủ thể bị thu hồi. Trong công tác bồi thường thiệt hại vật nuôi người bị ảnh ảnh hưởng trực tiếp nhiều nhất đó là nông dân vì mỗi một loại vật nuôi là một phần tài sản gắn liền với sự mưu sinh và là một phần không thể thiếu trong cuộc sống. Tuy Nhà nước chỉ thực hiện công tác thu hồi đất nhưng tài sản trên đất chính là thành quả, công sức mà người nông dân gây dựng họ đã bỏ vào đó công sức và tiền của nhưng vì lợi ích chung của cộng đồng, quốc gia, vì sự phát triển của đất nước họ buộc phải hi sinh một phần tài sản của mình và sự hi sinh ấy cần phải được bù đắp xứng đáng. Nếu Nhà nước thu hồi đất gây thiệt hại nhưng đền bù, hỗ trợ không thỏa đáng sẽ khiến người dân lâm rơi vào cảnh cùng cực và cuộc sống trở nên khó khăn. Nếu cơ quan thực hiện công tác bồi thường một cách nhanh chóng chính xác, xác định đúng thiệt hại, giải đáp những thắc mắc một cách hợp lí. Sự tin tưởng của người dân vào cơ quan quản lý ngày càng được củng cố, họ sẽ nhiệt tình phối hợp trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Nhanh chóng bàn giao đất tạo điều kiện thuận lợi cho công tác giải phóng mặt bằng và giao đất cho chủ đầu tư. Tránh lãng phí thời gian góp phần hạn chế khiếu nại, khiếu kiện. Thứ ba, đối với nhà đầu tư. Khi cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đưa ra khung giá đất, bảng giá đất, giá đất chi tiết thì luôn quy định giá đất nông nghiệp nói chung, đất trồng lúa nói riêng thường thấp hơn so với các loại đất khác nhằm mục đính bảo vệ đất lúa, đất nông nghiệp. Nhưng khi thực hiện các dự án, chủ đầu tư thường nhắm vào hai loại đất này để hạn chế chi phí khi bồi thường.Tuy nhiên thực tế cho thấy công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng vô cùng phức tạp và gặp rất nhiều khó khăn. Do đó, công tác bồi thường nói chung, bồi thường vật nuôi nói riêng ảnh hưởng rất lớn đến tiến độ hoàn thành dự án cũng như kinh phí thực hiện. Địa phương nào hoàn thành tốt công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng thì địa phương đó thu hút được nhiều nhà đầu tư. Ngược lại, công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng chậm trễ thì rất ít nhà đầu tư chịu vào đầu GVHD: PGS.TS.Phan Trung Hiền Trang 8 SVHT: Trần Sơn Nhất Pháp luật về bồi thường thiệt hại đối với vật nuôi khi nhà nước thu hồi đất thực tiễn tại tỉnh Sóc Trăng tư vì e ngại dự án bị đình trệ, chậm tiến hành, vốn đầu tư lâu thu hồi, lợi nhuận kém, đôi khi dẫn đến thua lỗ… 1.2.2 Mục đích của Nhà nước khi thu hồi đất đối với vật nuôi Thu hồi đất là một quá trình không phải tự nguyện, có tính cưỡng chế, không phải là sự đền bù ngang giá tuyệt đối. Từ đó thấy rằng công tác bồi thường được hiểu không chỉ là sự đền bù vật chất đơn thuần mà còn bảo phải thiểu tối đa những thiệt hại mà chủ thể bị thu hồi phải chịu, tạo mọi điều kiện để giúp cho chủ thể bị thu hồi ổn định đời sống, tiếp tục sản xuất. Công tác bồi thường thiệt hại vật nuôi khi Nhà nước thu hồi đất cũng không ngoài mục tiêu là làm giảm mức chênh lệch về sự thiếu ngang giá trong quá trình bồi thường, trả lại giá trị đã mất đi của tài sản gắn liền với phần đất bị thu hồi. Do đó, thu hồi đất là hoạt động hỗ trợ đắc lực nhất cho Nhà nước trong quá trình bồi thường thiệt hại. Mục đích thu hồi đất nhằm xác định rõ lý do của việc thu hồi cũng như việc sử dụng phần đất bị thu hồi trong tương lai. Việc xác định rõ mục đích thu hồi đất vừa bảo đảm tính dân chủ, công khai, minh bạch trong quá trình thu hồi đất, vừa khẳng định rõ nhu cầu cần thiết của việc thu hồi, không để xảy ra tình trạng đất đã thu hồi nhưng không biết sử dụng cho mục đích gì. Đồng thời phân biệt giữa thu hồi đất với cơ chế thoả thuận để nhận chuyển nhượng, thuê, nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất khi thực hiện dự án; tránh tình trạng lạm dụng thu hồi đất. Mục đích thu hồi đất khác nhau thì trình tự, thủ tục thu hồi đất, quyền lợi và nghĩa vụ của người có đât thu hồi cũng khác biệt. Cụ thể theo Luật đất đai năm 2013 thu hồi đấ được chia thành các nhóm cơ bản sau: (i) Thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng; (ii) Thu hồi đất do vi phạm pháp luật đất đai; (iii) Thu hồi đất do chấm dứt việc sử dụng đất theo pháp luật, tự nguyện trả lại đất, có nguy cơ đe doạ tính mạng con người. Mục đích thu hồi đất được nghiên cứu trong phần thứ hai của giáo trình là thu hồi đất vì mục đích quốc phòng an ninh (Điều 61 Luật đất đai năm 2013) và thu hồi đất để phát triển kinh tế xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng (Điều 62 Luật đất đai năm 2013). Khoản 3 Điều 54 Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên đã quy định về mục đích thu hồi đất nêu trên, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho công tác thu hồi đất. Ở Việt Nam, mục đích thu hồi đất chỉ được quy định chi tiết từ giai đoạn Luật đất đai năm 1993 và cũng khẳng định việc thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng. Sau đó, mục đích phát triển phát triển kinh tế đã chính thức được quy định ở Luật đất đai năm 2003. Điều này đặt ra câu hỏi, liệu vì mục đích phát triển kinh tế mà thu hồi đất của người sử dụng GVHD: PGS.TS.Phan Trung Hiền Trang 9 SVHT: Trần Sơn Nhất Pháp luật về bồi thường thiệt hại đối với vật nuôi khi nhà nước thu hồi đất thực tiễn tại tỉnh Sóc Trăng đất như vậy có ổn hay không? Vì việc phát triển kinh tế là rất rộng và sẽ có một, một nhóm chủ thể được hưởng lợi từ việc sử dụng phần đất sau thu hồi. Mục đích phát triển kinh tế vẫn tiếp tục được quy định tại Luật đất đai năm 2013 nhưng phạm vi đã thu hẹp và xác định khá rõ mục đích của các dự án phát triển kinh tế này, đó là vì lợi ích quốc gia, công cộng. Quan niệm về mục đích thu hồi đất ở nước ta có điểm đáng lưu ý là sự xuất hiện và phát triển của mục đích phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng11. 1.3 Sơ lược sự hình thành và phát triển của việc bồi thường vật nuôi khi Nhà nước thu hồi đất. 1.3.1 Giai đoạn trước Lluật đất đai năm 1993 Nhìn chung giai đoạn này công tác giải phóng mặt bằng còn đơn giản, đặt lợi ích xã hội, cộng đồng lên lợi ích cá nhân một cách mạnh mẽ. Hơn nữa, người sử dụng đất trước năm 1993 có những quyền năng rất hạn chế, đất đai lại không được xem là một loại tài sản lưu thông trên thị trường nên nếu có “giải toả” cho những dự án công cộng, thì tài sản trên đất được bồi hoàn cho chủ sở hữu tài sản nhưng đất đai chủ yếu là hoán đổi. Do đất đai không được xem là tài sản “có giá” nên sự hoán đổi mang tính chất tượng trưng, cung cấp những điều “kiện hoán” đổi để người sử dụng đất có thể sống được”. Điều này dựa trên cơ sở lý luận: đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước quản lý; người sử dụng đất do Nhà nước giao, nên khi cần Nhà nước có thể “lấy lại” và “giao lại” một thửa đất khác (Phan Trung Hiền, 2003). Luật đất đai 1987 có quy định: “Khi đất đang sử dụng bị thu hồi vì nhu cầu của Nhà nước hoặc nhu cầu của xã hội, thì được đền bù thiệt hại thực tế và giao đất khác” 12. Quy định này chỉ dừng lại ở mức độ khái quát chưa quy định cụ thể trường hợp nào được hay không được bồi thường; mức độ bồi thường như thế nào. Với sự thiếu sót đó ngày 31/5/1990 Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 186/HĐBT quy định về đền bù thiệt hại với đất nông nghiệp, đất có rừng khi chuyển sang sử dụng vào mục đích khác. Quyết định này có ý nghĩa là người sử dụng đất nông nghiệp, đất có rừng sử dụng vào mục đích khác thì phải đền bù thiệt hại về đất nông nghiệp, đất rừng cho Nhà nước và đền bù thiệt hại về tài sản cho người có đất bị thu hồi để giao cho người sử dụng. Mức đền bù do Nhà nước quy định theo từng loại đất và tài sản trên đất. 11 Giáo trình pháp Luật về quy hoạch và giải phóng mặt bằng, Trường Đại học Cần Thơ, Khoa Luật, tác giả (PGS.TS.Phan Trung Hiền (chủ biên), Ths.Châu Hoàng Thân, Ths.Trần Vang Phủ), trang 144. 12 Khoản 5, Điều 49 Luật Đất đai năm 1987. GVHD: PGS.TS.Phan Trung Hiền Trang 10 SVHT: Trần Sơn Nhất Pháp luật về bồi thường thiệt hại đối với vật nuôi khi nhà nước thu hồi đất thực tiễn tại tỉnh Sóc Trăng Luật đất đai năm 1987 gắn bó người nông dân với ruộng đất, giúp họ yên tâm đầu tư vào sản xuất, cải tạo và bảo vệ đất đai được nhà nước giao. Luật Đất đai năm 1987 đã bộc lộ những hạn chế sau: Luật chỉ mới tập chung điều chỉnh quan hệ sản xuất nông nghiệp theo hình thức tự cung tự cấp, mới điều chỉnh quan hệ pháp lý hành chính, chưa chú trọng đến quan hệ kinh tế, chua tạo được điều kiện để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phân công lao động mới ở nông thôn, dẫn tới đất đai không có giá, chỉ cấp phát để sử dụng. Cùng với sự phát triển của xã hội đẫ dẫn tới sự hình thành thị trường về đất đai, mua bán trá hình dưới hình thức dạng mua bán thành quả lao động, kết quả đầu tư, nhà cửa trên đất đai mà nhà nước không quản lý nỗi, gây ra nhiều sơ hỡ, tiêu cực, tham nhũng trong việc mua bán, sang nhượng, cấp phát đất đai ngoài sự kiểm soát của Nhà nước, gây tổn thất lớn cho ngân sách Nhà nước. Giai đoạn này nhiều chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước chưa phản ánh hết được tính phức tạp thực tiễn của quan hệ đất đai trong mối quan hệ bồi thường, hỗ trợ đối với người dân bị thu hồi đất. Chính vì vậy mà giữa thực tế cuộc sống với các văn bản pháp lý bắt đầu có những khoảng cách nhất định. 1.3.2 Giai đoạn từ khi có Luật đất đai năm 1993 đến khi có Luật đất đai năm 2003 Ngày 14/7/1993 Quốc hội khoá IX , kỳ họp thứ ba đã thông qua luật Đất đai năm 1993 nhưng trong Luật này vẫn chưa thấy điều luật nào quy định bồi thường thiệt hại đối với vật nuôi khi Nhà nước thu đất mà chỉ thấy quy định về quyền của người sử dụng đất là “ Đền bù cho người có đất bị thu hồi để giao cho mình”13, vậy người có đất bị thu hồi sẽ được được bồi thường thiệt hại khi bị thu hồi. Để bắt kịp thời đại, năm 1994 Đảng ta ban hành chính sách lớn về thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Luật Đất đai 1993 lại lỡ nhịp trong điều chỉnh quá trình chuyển dịch đất đai mà nội dung chủ yếu là chuyển một diện tích đất ngày càng rộng từ khu vực nông nghiệp sang sử dụng cho các dự án đầu tư, công tác đền bù ngày trở nên phức tạp hơn. Nhằm bắt kịp thời đại và khắc phục những thiếu sót trong quá trình đền bù thiệt hại khi thu hồi đất nên chính phủ đã ban hành Nghị định 90/CP ngày 17 tháng 8 năm1994 quy định về việc đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vì mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng thì vấn đề bồi thường thiệt hại về vật nuôi được quy định như sau: “ Mức đền bù đối với vật nuôi trên đất có mặt nước tính bằng giá trị sản lượng thu hoạch một vụ tính theo mức thu hoạch 13 Khoản 6, Điều 79 Luật Đất đai năm 1993. GVHD: PGS.TS.Phan Trung Hiền Trang 11 SVHT: Trần Sơn Nhất Pháp luật về bồi thường thiệt hại đối với vật nuôi khi nhà nước thu hồi đất thực tiễn tại tỉnh Sóc Trăng bình quân của 3 vụ trước đó theo giá thuỷ sản thực tế ở thị trường địa phương tại thời điểm đền bù.”14 Ngày 24 tháng 4 năm 1998 Nghị định số 22/1998/NĐ-CP của Chính phủ về đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng được ban hành tiếp nối Nghị định 90/CP quy định về vấn đề bồi thường thiệt hại về vật nuôi như sau: “Mức đền bù thiệt hại đối với vật nuôi trên đất có mặt nước được tính bằng giá trị sản lượng thu hoạch trong 1 năm theo năng suất bình quân của 3 năm trước đó với giá trung bình của thuỷ sản cùng loại ở địa phương tại thời điểm đền bù”15. So với Luật Đất đai năm 1987 thì Luật Đất đai năm1993 và những văn bản hướng dẫn có liên quan đã đề cập đến vấn đề bồi thường vật nuôi cũng như đã quy định chi tiết hơn về cách mức tính bồi thường cho từng trường hợp, từng dự án khác nhau. Như vậy so với nghị định 90/CP ngày 17 tháng 8 năm1994 thì nghị định số 22/1998/NĐ-CP ngày 24 tháng 4 năm 1998 đã có sự phân biệt về mức đền bù đối với vật nuôi trên đất có mặt nước được tính bằng giá trị sản lượng thu hoạch trong một năm theo năng xuất bình quân của 3 năm trước đó chứ không phải được tính bằng sản lượng thu hoạch một vụ trước kia. 1.3.3. Giai đoạn từ khi có Luật đất đai năm 2003 đến khi có Luật đất đai năm 2013 Luật Đất đai là công cụ pháp lý quan trọng để Nhà nước quản lý, điều tiết các mối quan hệ về đất đai. Qua gần 10 năm thi hành, Luật Đất đai năm 1993 đã phát huy khá tốt vai trò ổn định các mối quan hệ về đất đai. Tuy nhiên, nó cũng đã bộc lộ những hạn chế nhất định, dẫn đến việc thực thi pháp luật về đất đai còn nhiều bất cập, ảnh hưởng không tốt đến tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Do vậy Luật Đất đai 2003 được ban hành thay thế Luật Đất đai năm 1993. Sau khi Luật Đất đai 2003 ra đời, vấn đề bồi thường thiệt hại về vật nuôi đã được quy định cụ thể hơn kể cả trong luật và các nghị định hướng dẫn. Cụ thể nhất tại Nghị định 197/2004/NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2004 quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất quy định như sau: -Đối với vật nuôi (nuôi trồng thủy sản) được bồi thường theo quy định sau: + Đối với vật nuôi mà tại thời điểm thu hồi đất đã đến thời kỳ thu hoạch thì không phải bồi thường; 14 Điểm 1, Điều 13, Nghị định 90/CP ngày 17/8/1994 quy định về việc đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vì mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng. 15 Điều 23, Nghị định số 22/1998/NĐ-CP ngày 24/4/1998 của Chính phủ về đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng. GVHD: PGS.TS.Phan Trung Hiền Trang 12 SVHT: Trần Sơn Nhất Pháp luật về bồi thường thiệt hại đối với vật nuôi khi nhà nước thu hồi đất thực tiễn tại tỉnh Sóc Trăng + Đối với vật nuôi mà tại thời điểm thu hồi đất chưa đến thời kỳ thu hoạch thì được bồi thường thiệt hại thực tế do phải thu hoạch sớm; trường hợp có thể di chuyển được thì được bồi thường chi phí di chuyển và thiệt hại do di chuyển gây ra; mức bồi thường cụ thể do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quy định cho phù hợp với thực tế.16 Tiếp đến năm 2009, Nghị định 69/2009/NĐ- CP ngày 13 tháng 8 năm 2009 của Chính phủ quy định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ tái định cư được ban hành. Cũng theo nghị định này thì Nhà nước hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất “Hộ gia đình, cá nhân được bồi thường bằng đất nông nghiệp thì được hỗ trợ ổn định sản xuất, bao gồm: hỗ trợ giống vật nuôi cho sản xuất nông nghiệp, các dịch vụ khuyến nông, khuyến lâm, dịch vụ bảo vệ thực vật, thú y, kỹ thuật trồng trọt chăn nuôi và kỹ thuật nghiệp vụ đối với sản xuất, kinh doanh dịch vụ công thương nghiệp”.17 những sửa đổi, bổ sung trong nghị định này có ảnh hưởng khá lớn trong công tác bồi thường thiệt hại đối với vật nuôi. Vì vật nuôi cũng là một phần trong tổng tài sản gắn liền với đất, một mối quan hệ khó thể tách rời với thu hồi đất, bồi thường thiệt hại khi thu hồi đất. 1.3.4. Giai đoạn từ khi có Luật đất đai 2013 đến nay Trên cơ sở kế thừa những ưu điểm trong những quy định của Luật Đất đai năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành cũng như rút kinh nghiệm từ thực tiễn thi hành thì Luật Đất đai năm 2013 được Quốc Hội khoá XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2013 ra đời. Trong đó việc bồi thường thiệt hại đối với vật nuôi là thủy sản khi Nhà nước thu hồi đất được quy định như sau: - Đối với vật nuôi là thủy sản mà tại thời điểm thu hồi đất đã đến thời kỳ thu hoạch thì không phải bồi thường; - Đối với vật nuôi là thủy sản mà tại thời điểm thu hồi đất chưa đến thời kỳ thu hoạch thì được bồi thường thiệt hại thực tế do phải thu hoạch sớm; trường hợp có thể di chuyển được thì được bồi thường chi phí di chuyển và thiệt hại do di chuyển gây ra; mức bồi thường cụ thể do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định.18 Sau nhiều lần sửa đổi, bổ sung để phù hợp với những quan hệ xã hội về đất đai những quy định về bồi thường thiệt hại đối với vật nuôi từng bước hoàn thiện ngày càng 16 Điều 24, Nghị định 197/2004/ NĐ-CP ngày 03/12/2004 quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. 17 Khoản 4, Điều 20 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 quy dịnh bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hổ trợ tái định cư. 18 Khoản 2, điểm a,b Điều 90 Luật Đất đai năm 2013 GVHD: PGS.TS.Phan Trung Hiền Trang 13 SVHT: Trần Sơn Nhất Pháp luật về bồi thường thiệt hại đối với vật nuôi khi nhà nước thu hồi đất thực tiễn tại tỉnh Sóc Trăng rút ngắn khoảng cách chêch lệch giữa giá trị thiệt hại và giá trị đền bù cho người dân bên cạnh đó cũng có những chính sách xem xét hỗ trợ. Các khoản hỗ trợ bao gồm: Tiền hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất đồng thời hỗ đào tạo chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm đối với trường hợp thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp19. 19 Khoản 2, điểm a,b Điều 83 Luật Đất đai năm 2013 GVHD: PGS.TS.Phan Trung Hiền Trang 14 SVHT: Trần Sơn Nhất Pháp luật về bồi thường thiệt hại đối với vật nuôi khi nhà nước thu hồi đất thực tiễn tại tỉnh Sóc Trăng CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI VỀ VẬT NUÔI KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT 2.1 Chủ thể và điều kiện thực hiện về bồi thường thiệt hại đối với vật nuôi khi Nhà nước thu hồi đất 2.1.1. Chủ thể thực hiện bồi thường thiệt hại, hỗ trợ đối với vật nuôi khi Nhà nước thu hồi đất Trong thời kỳ đẩy mạnh Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng, ổn định chính trị. Những dự án lớn, công trình xây dựng được đầu tư với quy mô lớn được Nhà nước và các chủ đầu tư chú tâm. Nhưng mỗi công trình đó có những đặc điểm riêng biệt, nằm ở những vị trí khác nhau trên toàn quốc. Do đó cần có một tổ chức quản lý từng dự án, công trình xây dựng để việc thực hiện đạt hiệu quả cao. Thực tế có thể thấy không phải dự án nào, công trình xây dựng nào cũng được thực hiện trên quỹ đất có sẵn mà đa số phải dùng là quỹ đất thu hồi từ người sử dụng đất, thu hồi thì phải có bồi thường thiệt hại do vậy theo điều 68 trong Luật Đất đai năm 2013 thì tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng ở Việt Nam bao gồm tổ chức dịch vụ công về đất đai, Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu nói trên. Trước đây khi Luật Đất đai năm 2003 còn hiệu lực, thì Thông tư liên tịch số 01/2010/TTLT-BTNMT-BNV-BTC ngày 08 tháng 01 năm 2010 của Bộ Tài Nguyên và Môi trường, Bộ Nội vụ và Bộ Tài chính hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức và cơ chế tài chính của Tổ chức phát triển quỹ đất có quy định:“Tổ chức phát triển quỹ đất được thành lập ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh) và ở huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), có chức năng tổ chức thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư; tạo quỹ đất để đấu giá quyền sử dụng đất, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và ổn định thị trường bất động sản; nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất; phát triển các khu tái định cư; đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng trên đất; đấu giá quyền sử dụng đất; đấu thầu dự án có sử dụng đất; quản lý quỹ đất đã thu hồi, đã nhận chuyển nhượng, đã tạo lập, phát triển và thực hiện dịch vụ trong lĩnh vực bồi thường, giải phóng mặt bằng”20 Khi Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn có liên quan bắt đầu có hiệu lực thì Tổ chức dịch vụ công về đất đai thực hiện nhiệm vụ bồi thường và giải phóng mặt 20 Khoản 1, Điều 1, Thông tư liên tịch số 01/2010/TTLT-BTNMT-BNV-BTC ngày 08 tháng 01 năm 2010 của Bộ Tài Nguyên và Môi trường, Bộ Nội vụ và Bộ Tài chính hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức và cơ chế tài chính của Tổ chức phát triển quỹ đất GVHD: PGS.TS.Phan Trung Hiền Trang 15 SVHT: Trần Sơn Nhất Pháp luật về bồi thường thiệt hại đối với vật nuôi khi nhà nước thu hồi đất thực tiễn tại tỉnh Sóc Trăng bằng cũng chính là tổ chức phát triển quỹ đất. Vấn đề này được quy định rõ hơn tại Nghị định số 43/2014/NĐ-CP: “Tổ chức phát triển quỹ đất là đơn vị sự nghiệp công được thành lập theo quy định của pháp luật về thành lập, tổ chức lại, giải thể đơn vị sự nghiệp công lập; có tư cách pháp nhân, có trụ sở, con dấu riêng và được mở tài khoản để hoạt động theo quy định của pháp luật; có chi nhánh tại các quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Đối với địa phương đã có Tổ chức phát triển quỹ đất cấp tỉnh và cấp huyện thì tổ chức lại Tổ chức phát triển quỹ đất trên cơ sở hợp nhất Tổ chức phát triển quỹ đất cấp tỉnh và cấp huyện hiện có”21. Theo đó Tổ chức phát triển quỹ đất là đơn vị sự nghiệp công lập có thu, có tư cách pháp nhân, có trụ sở riêng, có con dấu riêng và có tài khoản riêng, do UBND quyết định thành lập. Nếu như trước đây có Tổ chức phát triển quỹ đất có hai cấp tỉnh và cấp huyện thì theo quy định tại nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2014,thì trước ngày 31 tháng 12 năm 2015 phải tổ chức thành lập lại hợp nhất Tổ chức phát triển quỹ đất cấp tỉnh và cấp huyện. Quy định này nhằm điều chỉnh lại tổ chức, tránh tình trạng thành lập trung tâm quỹ đất quá nhiều trên cùng một địa bàn tỉnh gây lãng phí và nhiều sự bất ổn. Trước đây theo Luật Đất đai thì cho phép UBND các tỉnh, thành được thành lập các tổ chức phát triển quỹ đất với mục đích là được giao, quản lý quỹ đất đã thu hồi theo quyết định của Nhà nước. Có thể thấy trung tâm phát triển quỹ đất được thành lập ở các địa phương và tồn tại song song thì có rất nhiều cơ quan có chức năng tương tự như từ tổ chức giải phóng mặt bằng, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, quản lý quỹ đất đã được giải phóng mặt bằng (là công việc của hội đồng bồi thường, hỗ trợ, tái định cư) đến việc nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của tổ chức, cá nhân, cung cấp thông tin về giá đất, quỹ đất cho các tổ chức cá nhân theo yêu cầu (mang tính kinh doanh như doanh nghiệp) trong bộ máy hành chính, công việc thì vẫn chồng chéo. Do đó nếu tồn tại quá nhiều những trung tâm phát triển quỹ đất trong một địa bàn tỉnh gây ra lãng phí ngân sách và dư thừa nhân lực, như vậy chỉ cần một trung tâm phát triển quỹ đất cấp tỉnh khi cần thiết thì sẽ thành lập các chi nhánh trực thuộc ở các cấp huyện để thực hiện những hoạt động dịch vụ trong lĩnh vực đất đai riêng. Nhưng theo người viết chỉ nên lập các chi nhánh theo cụm, không nên lập theo địa giới hành chính. Ví dụ như ở Tỉnh Sóc Trăng thì không nên lập chi nhánh ở thành phố Sóc Trăng, vì trong một địa bàn tồn tại chi nhánh và cả trung tâm phát triển quỹ đất cấp tỉnh thì sẽ tạo nên sư dư thừa không cần thiết. 21 Điểm a, Khoản 2, Điều 5 Nghị định 43/2014/NĐ-CP của Chính phủ ngày 15 tháng 05 năm 2014, quy định chi tiết một số điều, khoản của Luật Đất đai GVHD: PGS.TS.Phan Trung Hiền Trang 16 SVHT: Trần Sơn Nhất Pháp luật về bồi thường thiệt hại đối với vật nuôi khi nhà nước thu hồi đất thực tiễn tại tỉnh Sóc Trăng Suy cho cùng thì nhiệm vụ chính của Trung tâm phát triển quỹ đất là bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; khai thác và phát triển quỹ đất nhưng thực tế thì các trung tâm phát triển quỹ đất tập trung vào công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư hơn là khai thác và phát triển quỹ đất. Và cũng là đơn vị sự nghiệp công lập ngoài ngân sách Nhà nước, khi thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư tổ chức có thêm kinh phí trích rừ 2% mỗi dự án trong khi công tác khai thác và phát triển quỹ đất lại không đem lại nguồn thu cho trung tâm phát triển quỹ đất. Tuy nhiên, công tác bồi thường, hỗ trợ,tái định cư không phải là đơn giản gồm nhiều giai đoạn như kiểm kê, áp giá, chi trả bồi thường, tổ chức tái định cư, …Trung tâm phát triển quỹ đất thường thực hiện các công việc như: phối hợp với chủ đầu tư lập phương án tổng thể về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, kiểm kê tài sản bị ảnh hưởng bởi quá trình thu hồi đất trên thực tế, thẩm định tính hợp pháp của tài sản có trên khu vực đất bị thu hồi. Hội đồng bồi thường, hỗ trợ tái định cư cũng là tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường giải phóng mặt bằng nhưng vẫn chưa có văn bản nào của Trung ương hướng dẫn chi tiết về cơ chế, tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng bồi thường, hổ trợ tái định cư. Vì vậy, về cách thức thành lập các thành phần của Hội đồng bồi thường, cơ chế hoạt động... đều được mỗi địa phương căn cứ vào tình hình cụ thể ở địa phương mình mà quy định chi tiết, ví dụ Điều 14, Quyết định của Uỷ ban nhân dân tỉnh Sóc Trăng số 54/2012/ QĐUBND ngày 27 tháng 12 năm 2012 về việc ban hành quy định về trình tự, thủ tục thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng trong đó quy định về Nhiệm vụ của Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư: 1. Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp lập và tổ chức thực hiện phương án bồi thường, hỗ trợ và bố trí tái định cư. Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư làm việc theo nguyên tắc tập thể và quyết định theo đa số; trường hợp biểu quyết ngang nhau thì thực hiện theo phía có ý kiến của Chủ tịch Hội đồng. 2. Trách nhiệm của các thành viên Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư: a) Chủ tịch Hội đồng chỉ đạo các thành viên Hội đồng lập, trình duyệt và tổ chức thực hiện phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư. b) Chủ đầu tư có trách nhiệm giúp Chủ tịch Hội đồng lập phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư; bảo đảm đầy đủ kinh phí để chi trả kịp thời tiền bồi thường, hỗ trợ và tái định cư. GVHD: PGS.TS.Phan Trung Hiền Trang 17 SVHT: Trần Sơn Nhất Pháp luật về bồi thường thiệt hại đối với vật nuôi khi nhà nước thu hồi đất thực tiễn tại tỉnh Sóc Trăng c) Đại diện những người bị thu hồi đất, người phải di chuyển chỗ ở có trách nhiệm phản ánh nguyện vọng của người bị thu hồi đất, người phải di chuyển chỗ ở; vận động những người bị thu hồi đất thực hiện di chuyển, giải phóng mặt bằng đúng tiến độ. d) Các thành viên khác thực hiện các nhiệm vụ theo sự phân công và chỉ đạo của Chủ tịch Hội đồng phù hợp trách nhiệm của đơn vị mình. 3. Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư chịu trách nhiệm về tính chính xác, hợp lý của số liệu kiểm kê; tính pháp lý của đất đai, tài sản được bồi thường, hỗ trợ hoặc không được bồi thường, hỗ trợ, chính sách tái định cư trong phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư. 2.1.2. Trường hợp vật nuôi được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất Để được Nhà nước bồi thường thiệt hại về vật nuôi khi Nhà nước thu hồi đất thì chủ sở hữu phải đáp ứng đủ điều kiện trong Luật Đất đai 2013: Thứ nhất : “Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không phải là đất thuê trả tiền thuê đất hàng năm, có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản khác gắn liền với đất (sau đây gọi chung là Giấy chứng nhận) hoặc có đủ điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của Luật này mà chưa được cấp, trừ trường hợp đối với đất nông nghiệp đã sử dụng trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 mà người sử dụng đất là hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp nhưng không có Giấy chứng nhận hoặc không đủ điều kiện để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của Luật Đất đai 2013 thì được bồi thường đối với diện tích đất thực tế đang sử dụng, diện tích được bồi thường không vượt quá hạn mức giao đất nông nghiệp quy định tại Điều 129 của Luật Đất đai 2103; người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc đối tượng được sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam mà có Giấy chứng nhận hoặc có đủ điều kiện được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của Luật Đất đai năm 2013 mà chưa được cấp”22 Thứ hai: “Cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng đang sử dụng đất mà không phải là đất do Nhà nước giao, cho thuê và có Giấy chứng nhận hoặc có đủ điều kiện để 22 Khoản 1, Điều 75 Luật Đất đai năm 2013 GVHD: PGS.TS.Phan Trung Hiền Trang 18 SVHT: Trần Sơn Nhất
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan