Đăng ký Đăng nhập

Tài liệu Phân tích phần 2 bài thơ sóng

.DOC
4
497
56

Mô tả:

Sharing the value Cảm nhận của anh chị về đoạn thơ sau trong bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh “Con sóng dưới lòng sâu… Dù muôn vời cách trở” I. II. MỞ BÀI 1. Giới thiệu tác giả 2. Giới thiệu bài thơ và đoạn trích THÂN BÀI 1. Đoạn thơ mở ra với nỗi nhớ bờ của sóng A, Đó là nỗi nhớ xuyên suốt cả không gian và thời gian: “Con sóng dưới lòng sâu Con sóng trên mặt nước Ôi con sóng nhớ bờ Ngày đêm không ngủ được” - Cấu trúc song hành, đăng đối “dưới lòng sâu” - “trên mặt nước”, “ngày – đêm” đã nói lên không gian và thời gian tồn tại của sóng. Nhưng dù ở không gian, thời gian nào thì mọi con sóng đều thao thức trăn trở không ngủ được vì nhớ bờ. Thao thức, trăn trở trở thành trạng thái tồn tại của sóng. Kết hợp với phép nhân hóa, nhà thơ đã diễn tả một cách sinh động gợi cảm nỗi nhớ bờ của những con sóng. - Cái độc đáo ở đây là nhà nhơ đã dùng thước đo không gian và thời gian để đo nỗi nhớ ấy. Với thước đo này nhà thơ đã diễn tả một nỗi nhớ như bao trùm cả không gian và trải dài cả thời gian. B, Từ những con sóng nhớ, nhà thơ liên tưởng đến tình yêu và chợt nhận ra trái tim mình cũng như những con sóng: - - Sóng nhớ bờ, em nhớ anh, sóng không ngủ còn em thì thức. Sự tương đồng giữa sóng và em nói lên rằng trái tim người phụ nữ khi yêu là cả một đại dương bao la được dệt nên bởi muôn vàn con sóng nhớ. Nếu sóng là sự sống của biển cả thì sự sống của tình yêu chính là nỗi nhớ. Một trái tim ngừng nhớ là dấu hiệu của một mối tình đã tắt. Sharing the value - Nhưng khác với nỗi nhớ bờ của sóng chỉ dừng lại ở cõi thực của ngày và đêm, nỗi nhớ của người phụ nữ đang yêu còn tràn sang cả cõi mơ, một nỗi nhớ đã lặng sâu vào tiềm thức. Trái tim người phụ nữ khi yêu chỉ có thể so sánh với chính nó nên em và sóng ở đây lại tách ra trong quan hệ song chiếu vừa tương đồng vừa khác biệt. - Câu thơ “Cả trong mơ còn thức” đã nối dài đời sống bằng những giấc mơ, xóa đi khoảng cách giữa thực và mộng, diễn tả một trạng thái yêu mơ say đắm đuối. Cách nói đó tuy có cường điệu nhưng thật ra rất đúng và chân thành, biểu lộ một tình yêu mãnh liệt. 2. Trong tình yêu, nỗi nhớ gắn với lòng chung thủy A, Nhờ thơ nhận thấy mọi con sóng đều tìm đến bờ, cả những con sóng ở ngoài đại dương xa tít tắp. Cách nói nghi vấn “Con nào chẳng tới bờ” nói lên một quy luật: bờ là nơi hướng đến, tìm về của mọi con sóng dù phải vượt qua muôn vời cách trở. B, Soi mình vào sóng, nhà thơ nhận rra sự tương đồng giữa quy luật của sóng và quy luật của trái tim: Nếu như mọi con sóng đều tìm đến bờ thì khi yêu người phụ nữ luôn hướng về người mình yêu. Bởi trong tình yêu, trái tim định hướng cho đôi mắt. - - “Dẫu xuôi về phương Bắc Dẫu ngược về phương Nam Nơi nào em cũng nghĩ Hướng về anh một phương” Văn chương xưa nay đã nói rất hay về sự chung thủy trong tình yêu nhưng Xuân Quỳnh vẫ có cách nói riêng. Thông thường, người ta nói xuôi nam ngược bắc nhưng Xuân Quỳnh lại nói xuôi bắc ngược nam. Nói ngược như vậy là để khẳng định lòng thủy chung son sắt của mình. Dù cuộc đời có thay đổi, vũ trụ có chuyển dời thì anh vẫn là điểm hướng đến tìm về trong hành trình xuôi ngược của em. Câu thơ “Hướng về anh một phương” có thể hiểu là hướng về phương anh. Đời người có 4 phương 8 hướng nhưng với người phụ nữ đang yêu thì chỉ có một hướng một phương là anh mà thôi. III. Sharing the value - Tuy nhiên, đọc kĩ khổ thơ trên có thể thấy XQ không chạnh nghĩ đến những cách trở. Điệp từ “dẫu” mang tính chất giả định cùng những đối lập xuôi ngược, Bắc – Nam dựng nên môtj không gian biến động đầy bất trắc. Sự cách trở trong tình yêu là điều có thể xáy ra nhưng nhà thơ vẫn vững tin vào tình yêu. Cho nên giữa chiều ngang tương quan xuôi – ngược, Bắc – Nam đầy biến động, nhà thơ dụng lên một chiều dọc đầy thủy chung: “Hướng về anh một phương”. Câu thơ như thách thức mọi bất trắc. 3. Về nghệ thuật - Xuân Quỳnh đã sáng tạo nên hình tượng sóng để nhân hóa, ẩn dụ cho nỗi nhớ và lòng chung thủy. - Thể thơ 5 chữ, cứ một câu kết thúc vần bằng lại một câu kết thúc vần trắc luân phiên, tự nó đã tạo nên cái nhịp nhàng của những con sóng cũng là nhịp điệu sôi nổi của tình yêu. - Nhịp điệu của câu thơ rất linh hoạt, có nhịp 2/3, có nhịp 3/2 trong cùng một khổ thơ. Nó gợi lên nhịp sóng biển đầy biến động - Ngôn ngữ bình dị, gần gũi với lời nói hàng ngày nhưng trong sáng tinh tế. KẾT BÀI Part 3: Những khổ thơ còn lại (Không trọng tâm) 1. Khổ thơ “Ở ngoài kia đại dương…dù muôn vời cách trở” thể hiện niềm tin mãnh liệt của Xuân Quỳnh về tình yêu dù có bao cách trở (tiếp nối ý đoạn trước) 2. Hai khổ cuối: thể hiện một cái tôi với khát vọng về tình yêu vĩnh hằng, bất tử: - - Nhà thơ nhận ra sự hữu hạn của đời người trước sự trôi chảy của thời gian. Không có gì là vô tận, là mãi mãi. Biển kia dẫu rộng nhưng cũng có bến bờ của nó, còn tình yêu của em cũng chịu cái giới hạn của đời người. Vậy làm sao để giải quyết cái mâu thuẫn với khát vọng về tình yêu vĩnh hằng trường cửu? + Nhà thơ ước muốn được tan ra thành sóng trên đại dương vô tận. Nhưng “tan ra” không phải để biến mất mà là để tồn tại trong vô tận những con sóng khác. Chữ “tan ra” nói lên cái khát vọng được hòa nhập, hóa thân vĩnh viễn + Đến đây sóng và em đã hòa lại làm một, em muốn tan ra thành “sóng” và biển lớn đã là tình yêu nên tan thành sóng cũng là tan trong tình yêu. Đây là khát khao Sharing the value được dâng hiến, được sống hết mình cho tình yêu, ngay cả khi không còn trên cõi đời này + Khát vọng ấy bắt nguồn từ huyền thoại nàng tiên cá khi gặp bi kịch trong tình yêu thì hóa thân vào bọt biển để hóa thân vào vĩnh cửu với tình yêu của mình.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan