Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Phân tích những đánh giá của các nhà nhà đầu tư về giá trị sản phẩm hiện có tron...

Tài liệu Phân tích những đánh giá của các nhà nhà đầu tư về giá trị sản phẩm hiện có trong marketing lãnh thổ ở tỉnh thái nguyên ( www.sites.google.com/site/thuvientailieuvip )

.PDF
106
98
50

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN KHOA MARKETING NCS. Phạm Công Toàn CHUYÊN ĐỀ 2: PHÂN TÍCH NHỮNG ĐÁNH GIÁ CỦA CÁC NHÀ NHÀ ĐẦU TƯ VỀ GIÁ TRỊ SẢN PHẨM HIỆN CÓ TRONG MARKETING LÃNH THỔ Ở TỈNH THÁI NGUYÊN CHUYÊN ĐỀ NGHIÊN CỨU LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ VÀ KẾ HOẠCH HOÁ KINH TẾ QUỐC DÂN CHUYÊN NGÀNH: QUẢN TRỊ KINH DOANH (MARKETING) MÃ CHUYÊN NGÀNH: 62.34.05.01 Hướng dẫn khoa học: Hướng dẫn 1: GS, TS. Trần Minh Đạo Hướng dẫn 2: PGS, TS. Vũ Trí Dũng Hà Nội, tháng 11/2007 NCS. Phạm Công Toàn Khoá 26 (2005 - 2008) MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU PHẦN 1: TỔNG QUAN VỀ KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ KẾT QUẢ THU HÚT ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CỦA TỈNH THÁI NGUYÊN, GIAI ĐOẠN 1996 - 2005 PHẦN 2: TỔNG QUAN VỀ NHỮNG ĐÁNH GIÁ CỦA CÁC NHÀ ĐẦU TƯ VỀ MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ CỦA TỈNH THÁI NGUYÊN PHẦN 3: PHÂN TÍCH NHỮNG ĐÁNH GIÁ CỦA CÁC NHÀ ĐẦU TƯ THEO CÁC TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ GIÁ TRỊ SẢN PHẨM ĐỐI VỚI SẢN PHẨM LÃNH THỔ CỦA TỈNH THÁI NGUYÊN KẾT LUẬN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1 Trang 2 4 Phân tích những đánh giá của các nhà đầu tư về giá trị sản phẩm hiện có .... LỜI NÓI ĐẦU 1. Tính cấp thiết và mục tiêu của vấn đề nghiên cứu Cạnh tranh thu hút đầu tư phát triển giữa các lãnh thổ ngày càng trở nên rõ ràng. Chính quyền các lãnh thổ không ngừng đưa ra những chương trình, những chính sách ưu đãi trong thu hút đầu tư nhằm kích thích, lôi kéo các nhà đầu tư về với lãnh thổ của mình. Sản phẩm lãnh thổ ngày càng trở nên đa dạng và khác biệt hơn giữa các lãnh thổ khác nhau buộc các nhà đầu tư phải cân nhắc, phân tích và đánh giá trước khi đưa ra quyết định đầu tư, trong đó, yếu tố được các nhà đầu tư quan tâm đặc biệt hơn cả chính là giá trị sản phẩm lãnh thổ. Nó bao gồm tất cả những gì mà nhà đầu tư có thể nhận được từ việc đầu tư vào lãnh thổ đó. Nằm ở vị trí chiến lược của khu vực miền núi phía Bắc Việt Nam, phía trên của thủ đô Hà Nội, tỉnh Thái Nguyên được xem là khu vực lãnh thổ đòi hỏi phải có sự phát triển toàn diện cả về mặt kinh tế và mặt xã hội. Tuy nhiên, thực tế đánh giá của nhiều nhà quản lý cho thấy, thực trạng phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Thái Nguyên trong nhiều năm qua chưa tương xứng với tiềm năng, vị trí và nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước đã đặt ra. Nguyên nhân chính được đề cập đến chính là khả năng thu hút đầu tư phát triển, xét trên cả hai phương diện phát huy nội lực và ngoại lực. Tìm hiểu và phân tích những đánh giá của các nhà đầu tư về giá trị sản phẩm địa phương của tỉnh Thái Nguyên là việc làm cần thiết để giúp các nhà quản lý có được những quyết định đúng đắn hơn trong 2 NCS. Phạm Công Toàn Khoá 26 (2005 - 2008) việc tạo ra sản phẩm địa phương của tỉnh nhà ngày càng hoàn thiện và phù hợp với nhu cầu cũng như những đòi hỏi của các nhà đầu tư. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu Những kết quả đánh giá sản phẩm lãnh thổ cấp địa phương cho trường hợp của tỉnh Thái Nguyên qua kết quả của một số cuộc điều tra nghiên cứu chính thức. - Phạm vi nghiên cứu Địa bàn tỉnh Thái Nguyên. 3. Phương pháp nghiên cứu Chủ yếu sử dụng các phương pháp: thống kê, phân tích, so sánh và suy luận. Với những mục đích như vậy, chuyên đề “Phân tích những đánh giá của các nhà đầu tư về giá trị sản phẩm hiện có trong marketing lãnh thổ ở tỉnh Thái Nguyên” sẽ tập trung phân tích những ý kiến đánh giá của các nhà đầu tư về giá trị sản phẩm lãnh thổ của tỉnh Thái Nguyên thông qua các kết quả điều tra nghiên cứu đã có. Trong chuyên đề này, thuật ngữ “địa phương” sẽ được dùng chủ yếu để phù hợp với trường hợp của địa phương là tỉnh Thái Nguyên. Do vậy, thuật ngữ “marketing địa phương” cũng sẽ được sử dụng xuyên suốt chuyên đề. Chuyên đề được hoàn thành với sự hướng dẫn của GS,TS. Trần Minh Đạo và PGS,TS. Vũ Trí Dũng - Khoa Marketing, Trường Đại học Kinh tế quốc dân. Nội dung của chuyên đề được trình bày trong ba phần chính sau: 3 Phân tích những đánh giá của các nhà đầu tư về giá trị sản phẩm hiện có .... Phần 1. Tổng quan về kinh tế - xã hội và kết quả thu hút đầu tư phát triển của tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 1996 - 2005. Phần 2. Tổng quan về những đánh giá của các nhà đầu tư về môi trường đầu tư tỉnh Thái Nguyên. Phần 3. Phân tích những đánh giá của các nhà đầu tư theo những tiêu chí đánh giá giá trị sản phẩm đối với sản phẩm lãnh thổ của tỉnh Thái Nguyên. 4 NCS. Phạm Công Toàn Khoá 26 (2005 - 2008) PHẦN 1 TỔNG QUAN VỀ KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ KẾT QUẢ THU HÚT ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CỦA TỈNH THÁI NGUYÊN GIAI ĐOẠN 1996 - 2005 1.1 Một số nét cơ bản về tỉnh Thái Nguyên 1.1.1 Điều kiện tự nhiên 1.1.1.1 Vị trí địa lý Thái Nguyên có diện tích đất tự nhiên không lớn với 3.541,1 km2, chiếm 1,13% diện tích cả nước. Phía Bắc giáp tỉnh Bắc Kạn, phía tây giáp tỉnh Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, phía Đông giáp tỉnh Lạng Sơn, Bắc Giang, phía Nam giáp thủ đô Hà Nội. 1.1.1.2 Địa hình Thái Nguyên có nhiều dãy núi cao chạy theo hướng Bắc - Nam, thấp dần xuống phía Nam và chấm dứt ở đèo Khế. Cấu trúc vùng núi phía Bắc chủ yếu là đá phong hoá mạnh (castơ) tạo thành nhiều hang động, thung lũng nhỏ. Phía Tây Nam có dãy Tam Đảo với đỉnh cao nhất 1.590m, các vách núi dựng đứng và kéo dài theo hướng Tây Bắc - Đông Nam. Ngoài hai dãy núi kể trên, tỉnh còn có dãy Ngân Sơn (bắt đầu từ Bắc Kạn chạy theo theo hướng Đông Bắc - Tây Nam đến huyện Võ Nhai) và dãy núi Bắc Sơn chạy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam. Là tỉnh trung du, miền núi, nhưng địa hình tỉnh Thái Nguyên không phức tạp lắm nếu so với các tỉnh trung du, miền núi khác trong vùng. Đây là điều kiện thuận lợi cho tỉnh trong quá trình phát triển sản 5 Phân tích những đánh giá của các nhà đầu tư về giá trị sản phẩm hiện có .... xuất nông - lâm nghiệp nói riêng và phát triển kinh tế - xã hội nói chung. 1.1.1.3 Khí hậu Khí hậu của Thái Nguyên chia làm 4 mùa: xuân, hạ, thu, đông. Lượng mưa trung bình khoảng 2.00 mm/năm, cao nhất vào tháng 8 (400 mm) và thấp nhất vào tháng 1 (dưới 50 mm). Do địa hình thấp dần từ vùng núi cao xuống vùng núi thấp, trung du, đồng bằng theo hướng Bắc - Nam, nên khí hậu Thái Nguyên vào mùa Đông được chia thành 3 vùng rõ rệt: vùng lạnh nhiều nằm ở phía Bắc huyện Võ Nhai; vùng lạnh vừa gồm các huyện Định Hoá, Phú Lương và phía Nam huyện Võ Nhai; vùng ấm gồm các huyện Đại Từ, Đồng Hỷ, Phú Bình, Phổ Yên, thị xã Sông Công và thành phố Thái Nguyên. Nhiệt độ chênh lệch giữa tháng nóng nhất (tháng 6: 28,9oC) với tháng lạnh nhất (tháng 1: 15,2oC) là 13,7oC. Tổng số giờ nắng trong năm dao động trong khoảng 1.300 - 1.750 giờ, phân phối tương đối đều cho các tháng trong năm. 1.1.1.4 Thuỷ văn Tổng lượng mưa khá lớn, khoảng 6,4 tỷ m3/năm. Tuy nhiên, lượng mưa phân bố không đều theo thời gian và không gian, trong đó: Theo không gian, lượng mưa tập trung nhiều hơn ở thành phố Thái Nguyên, huyện Đại Từ, trong khi đó các huyện Võ Nhai, Phú Lương lượng mưa tập trung ít hơn. Theo thời gian, lượng mưa tập trung khoảng 87% vào mùa mưa, trong đó riêng tháng 8 lượng mưa chiếm gần 30% tổng lượng mưa cả năm, vì vậy thường gây ra những trận lũ lớn. Vào mùa khô, đặc biệt là tháng 12, lượng mưa trong tháng chỉ bằng 0,5% lượng mưa cả năm. 6 NCS. Phạm Công Toàn Khoá 26 (2005 - 2008) 1.1.1.5 Hệ thống sông Thái Nguyên có 2 sông chính là sông Công và sông Cầu, trong đó: Sông Cầu nằm trong hệ thống sông Thái Bình, có lưu vực 3.480 km2, bắt nguồn từ huyện Chợ Đồn (Bắc Kạn), chảy theo hướng Bắc Đông Nam. Hệ thống thuỷ nông sông Cầu (trong đó có đập dâng Thác Huống) đảm bảo nước tưới cho 24 nghìn ha lúa 2 vụ của các huyện Phú Bình (Thái Nguyên) và Hiệp Hoà, Tân Yên (Bắc Giang). Sông Công có lưu vực 951 km2, bắt nguồn từ vùng núi Ba Lá (huyện Định Hoá), chạy dọc theo chân núi Tam Đảo, nằm trong vùng mưa lớn nhất của tỉnh. Dòng sông đã được ngăn lại ở Đại Từ, tạo thành Hồ Núi Cốc, có mặt nước rộng khoảng 25km2, dung lượng 175 triệu m3 nước, có tác dụng điều hoà dòng chảy và chủ động tưới tiêu nước cho hơn 10 nghìn ha lúa 2 vụ, hoa màu, cây công nghiệp và cung cấp nước sinh hoạt cho thành phố Thái Nguyên và thị xã Sông Công. Ngoài ra, tỉnh còn có nhiều sông nhỏ thuộc hệ thống sông Kỳ Cùng và sông Lô. Theo đánh giá của các cơ quan chuyên môn, trên các con sông chảy qua tỉnh có thể xây dựng nhiều công trình thuỷ điện kết hợp với thuỷ lợi quy mô nhỏ. Việc xây dựng các công trình này sẽ góp phần thay đổi diện mạo nông thôn vùng cao. 1.1.1.6 Tài nguyên đất Đất núi: chiếm 48,4% diện tích tự nhiên, nằm ở độ cao trên 200m so với mực nước biển, hình thành do sự phong hoá trên đá mắcma, đá biến chất và đá trầm tích. Đất núi thích hợp cho việc phát triển lâm nghiệp, trồng rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ, rừng kinh doanh và 7 Phân tích những đánh giá của các nhà đầu tư về giá trị sản phẩm hiện có .... trồng các cây đặc sản, cây ăn quả, cây lương thực phục vụ nhân dân vùng cao. Đất đồi: chiếm 31,4% diện tích tự nhiên, chủ yếu hình thành trên cát kết, bột kết, phiến sét và một phần phù sa cổ. Đất đồi tại một số vùng như Đại Từ, Phú Lương, ... nằm ở độ cao 150 - 200m, độ dốc 5 20o, phù hợp cho sự sinh trưởng của cây công nghiệp và cây ăn quả lâu năm. Đất ruộng: chiếm 12,4% diện tích tự nhiên, đây là loại đất có sự phân hoá phức tạp. Một phần phân bố dọc theo các con suối, rải rác không tập trung, chịu tác độ lớn của chế độ thuỷ văn khắc nghiệt (lũ đột ngột, hạn hán, ...), khó khăn cho việc canh tác. Điều đáng lưu ý, diện tích đất chưa sử dụng ở Thái Nguyên khá lớn, chiếm 22,18% diện tích đất tự nhiên. Diện tích đất này có khả năng phát triển lâm nghiệp, nhất là mô hình trang trại vườn rừng. Đây là tiềm năng, đồng thời cũng là nhiệm vụ lớn đặt ra cho tỉnh trong việc khai thác, sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên này. 1.1.1.7 Tài nguyên rừng Là tỉnh miền núi với diện tích đất lâm nghiệp 152 nghìn ha (chiếm 43% diện tích đất tự nhiên toàn tỉnh), Thái Nguyên có lợi thế trong khai thác và phát triển kinh tế rừng. Tuy nhiên, diện tích rừng của Thái Nguyên ngày càng bị thu hẹp, tài nguyên rừng đang bị suy giảm đáng kể. Vầu, nứa và các loại đặc sản rừng, dược liệu và động vật rừng bị giảm sút nghiêm trọng. Thực trạng này đặt ra cho tỉnh Thái Nguyên nhiệm vụ rất nặng nề trong việc bảo vệ, trồng mới rừng. 1.1.1.8 Tài nguyên khoáng sản 8 NCS. Phạm Công Toàn Khoá 26 (2005 - 2008) Trong lòng đất Thái Nguyên chứa đựng những nguồn tài nguyên khoáng sản phong phú, đa dạng. Theo tài liệu điều tra của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh, Thái Nguyên có tiềm năng rất lớn về khoáng sản, phân bố tập trung tại các huyện Đại Từ, Phú Yên, Đồng Hỷ và Võ Nhai. Khoáng sản nhiên liệu: sau Quảng Ninh, Thái Nguyên được đánh giá là tỉnh có trữ lượng than lớn thứ 2 trong cả nước, đáp ứng nhu cầu cho ngành sản xuất vật liệu xây dựng, nhiệt điện và các nhu cầu khác không chỉ trong tỉnh Thái Nguyên. Đến năm 2004, tỉnh đã thăm dò và đăng ký 10 mỏ và điểm than đá, tổng trữ lượng đã được thăm dò là 71,9 triệu tấn. Trong đó, đáng kể nhất là than antraxit với các mỏ Núi Hồng (sản lượng khai thác khoảng 300 nghìn tấn/năm), Khánh Hoà (khoảng 180 nghìn tấn/năm), Bá Sơn (35 nghìn tấn/năm). Trữ lượng than mỡ chiếm số lượng lớn với mỏ Phấn Mễ (100 nghìn tấn/năm) và mỏ Làng Cẩm (25 nghìn tấn/năm). Khoáng sản kim loại: Thái Nguyên là tỉnh giàu tài nguyên kim loại đen, kim loại màu, kim loại quý hiếm. Đến năm 2004, toàn tỉnh đã đăng ký 39 mỏ và điểm quặng sắt, với tổng trữ lượng trên 50 triệu tấn, trong đó nhiều mỏ có trữ lượng 1 - 5 triệu tấn. Hàm lượng Fe đạt 58,8 - 62,8%, được xếp vào loại có chất lượng tốt. Riêng mỏ Tiến Bộ (Đồng Hỷ) có trữ lượng 24,1 triệu tấn. Về titan, tỉnh đã đăng ký gần 20 điểm mỏ, tổng trữ lượng (gốc + sa khoáng) khoảng 20 triệu tấn, trong đó mỏ Cây Châm (Phú Lương) có trữ lượng khoảng 4,8 triệu tấn. 9 Phân tích những đánh giá của các nhà đầu tư về giá trị sản phẩm hiện có .... Kim loại màu cũng khá phong phú với các chủng loại: chì, kẽm, thiếc, vonfram. Trong đó, chì kẽm có 19 mỏ và điểm quặng, tập trung ở 2 khu vực: vùng Lang Hít (Đồng Hỷ) trữ lượng trên 130 nghìn tấn; vùng Nam Đại Từ, trữ lượng trên 23 nghìn tấn. Thiếc tập trung ở vùng La Bằng, phía tây Núi Pháo, trữ lượng dự kiến 11,3 nghìn tấn Sn và 2.982 tấn Bi. Thiếc sa khoáng tập trung ở vùng Phục Linh. Qua đánh giá sơ bộ, trữ lượng thiếc sa khoáng C1 + C2 vào khoảng 1.130 tấn SnO2 (canxiterit), nhưng triển vọng (P) có thể đạt khoảng 6.000 tấn. Đặc biệt, vùng Hà Thượng (Núi Pháo - Đại Từ) đã phát hiện thấy mỏ đa kim với trữ lượng thăm dò khoảng 110 triệu tấn, trong đó có nhiều loại như: WO3, CaF2, Au, Cu, Bi, .. Mỏ đa kim này được đánh giá là một trong các mỏ có trữ lượng lớn nhất thế giới. Kim loại quý hiếm có vàng với 20 mỏ và điểm quặng, trong đó có 10 điểm quặng vàng gốc. Khoáng sản phi kim: Thái Nguyên có rất nhiều khoáng sản phi kim phục vụ cho công nghiệp xây dựng như: đá vôi (trữ lượng thăm dò gần 200 triệu tấn, dự tính còn hàng trăm triệu tấn chưa được thăm dò); đá vôi trợ dung (mới thăm dò tại mỏ Núi Voi, trữ lượng 8,38 triệu tấn); đá vôi ốp lát (mỏ La Hiên, trữ lượng 35 triệu tấn), ngoài ra còn có nhiều điểm quặng ở Định Hoá. Bên cạnh đó, đôlômít có 3 mỏ đã được thăm dò ở Đồng Hỷ, Võ Nhai với trữ lượng trên 100 triệu tấn. Sét (xi măng), tổng trữ lượng đã thăm dò hơn 60 triệu tấn, tập trung ở các vùng Cúc Đường (La Hiên) và Khe Mo (Đồng Hỷ). Sét cao lanh có ở nhiều nơi, trữ lượng đã thăm dò 356.937 tấn, trong đó có một mỏ sét (cao lanh) trữ lượng lớn, chất lượng cao được phát hiện ở Đại Từ, dự đoán trữ lượng trên 20 triệu tấn. Loại sét này có thể phục vụ cho 10 NCS. Phạm Công Toàn Khoá 26 (2005 - 2008) sản xuất gốm sứ, gạch chịu lửa, ... Sét (gạch ngói) đã đăng ký 12 mỏ và điểm, trong đó đa số đã được thăm dò, tổng trữ lượng trên 30 triệu m3. Ngoài ra, Thái Nguyên còn có trữ lượng cát, cuội, sỏi khá lớn, phân bổ chủ yếu ở trên sông Cầu và sông Công. 1.1.1.9 Tài nguyên du lịch Tài nguyên du lịch của Thái Nguyên rất đa dạng. Trong đó, hồ Núi Cốc với diện tích 25km2 cùng nhiều đảo lớn nhỏ trong lòng hồ đã mở ra tiềm năng du lịch lớn nhất tỉnh. Khu du lịch hồ Núi Cốc cách thành phố Thái Nguyên 20km về phía Tây, với phong cảnh sơn thuỷ hữu tình đã trở thành khu du lịch lớn nhất của tỉnh, thu hút đông đảo du khách đến thăm quan, nghỉ dưỡng, kéo theo sự phát triển của các loại hình du lịch, tạo thêm nhiều việc làm cho người dân địa phương, đồng thời mang lại cho tỉnh khoản thu không nhỏ. Ngoài ra, Thái Nguyên còn có bãi đá cổ Thần Sa, Mái Đá Ngườm, nơi được coi là cái nôi của người tiền cổ. Cùng với đó, hang Phượng Hoàng, suối Mỏ Gà, thác Mưa Roi (huyện Võ Nhai), thác Bảy Tầng, cây đa nghìn tuổi (huyện Định Hoá),... là những tiềm năng du lịch lớn của tỉnh. Thái Nguyên còn có tài nguyên du lịch nhân văn khá lớn với nhiều di tích lịch sử, công trình kiến trúc, nghệ thuật, phong tục, tập quán, lễ hội, truyền thống văn hoá đặc sắc của đồng bào các dân tộc thiểu số,.. Thái Nguyên là nơi có truyền thống cách mạng lâu đời, thủ đô kháng chiên - “Thủ đô gió ngàn” trong kháng chiến chống thực dân Pháp. An toàn khu (ATK) với nhiều địa danh như: đồi Tỉn Keo - nơi chủ tịch Hồ Chí Minh đã sống và làm việc; khu nhà làm việc của Bộ Chính trị, Bộ Quốc phòng, ... là những di tích lịch sử vô cùng quý giá. Bên cạnh đó, với vị trí là trung tâm văn hoá của các dân tộc thiểu số 11 Phân tích những đánh giá của các nhà đầu tư về giá trị sản phẩm hiện có .... miền núi, có Bảo tàng văn hóa các dân tộc Việt Nam, Thái Nguyên có lợi thế lớn để phát triển đa dạng các loại hình du lịch. Nhân dịp kỷ niệm 115 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng bộ và nhân dân thủ đô Hà Nội tặng thủ đô kháng chiến Nhà tưởng niệm Hồ Chí Minh (công trình văn hoá - lịch sử có ý nghĩa giáo dục sâu sắc đối với thế hệ hôm nay và mai sau). Vị trí địa lý thuận lợi, nguồn tài nguyên đa dạng, phong phú, tiềm năng du lịch sinh thái, du lịch lịch sử, du lịch về nguồn đầy hấp dẫn, .. tiếp tục khai thác, phát huy hiệu quả những lợi thế, tiềm năng này trong phát triển kinh tế - xã hội, Thái Nguyên sẽ tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đến năm 2004, tỉnh đã thăm dò và đăng ký 10 mỏ và điểm than đá, tổng trữ lượng đã được thăm dò là 71,9 triệu tấn. Trong đó, đáng kể nhất là than antraxit với các mỏ: Núi Hồng (sản lượng khai thác khoảng 300 nghìn tấn/năm), Khánh Hoà (khoảng 180 nghìn tấn/năm), Bá Sơn (35 nghìn tấn/năm). Trữ lượng than mỡ chiếm số lượng lớn với mỏ Phấn Mễ (100 nghìn tấn/năm) và mỏ Làng Cẩm (25 nghìn tấn/năm). 1.1.2 Đặc điểm xã hội 1.1.2.1 Cơ cấu hành chính Tỉnh Thái Nguyên bao gồm 7 huyện (Phổ Yên, Phú Bình, Đại Từ, Định Hoá, Phú Lương, Võ Nhai và Đồng Hỷ), 1 thành phố trực thuộc tỉnh (thành phố Thái Nguyên) và 1 thị xã (thị xã Sông Công). 1.1.2.2 Dân số Thái Nguyên có khoảng 1,1 triệu dân, gồm 8 dân tộc, chủ yếu là người Kinh (chiếm khoảng 75%). Mật độ dân số trung bình 260 12 NCS. Phạm Công Toàn Khoá 26 (2005 - 2008) người/km2, cao nhất trong các tỉnh miền núi phía Bắc. Tuy nhiên, dân cư phân bố không đều, vùng cao và vùng núi dân cư rất thưa thớt. Trong khi đó, ở vùng thành thị cà đồng bằng dân cư rất dày đặc. Nơi có mật độ dân cư cao nhất là thành phố Thái Nguyên (1.300 người/km2), nơi có mật độ dân cư thấp nhất là huyện Võ Nhai (khoảng 80 người/km2). 1.1.2.3 Hạ tầng giao thông Hệ thống giao thông thuận lợi tạo điều kiện cho Thái Nguyên đẩy mạnh giao lưu kinh tế, văn hoá - xã hội với các địa phương khác trong vùng và cả nước. Hệ thống đường bộ của tỉnh có tổng chiều dài 2.753km. Quốc lộ 3 từ Hà Nội đi Bắc Kạn, Cao Bằng cắt dọc tỉnh Thái Nguyên, chạy qua thành phố Thái Nguyên - cửa ngõ phía Nam nối Thái Nguyên với Hà Nội, các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ và cá tỉnh, thành phố trong cả nước. Các quốc lộ 37, 1B, 279 cùng với hệ thống tỉnh lộ, huyện lộ là những mạch máu quan trọng nối Thái Nguyên với các tỉnh trong vùng. Tuyến đường sắt Long Biên - Quán Triều là đầu mối giao lưu quan trọng giữa vùng đồng bằng sông Hồng với khu công nghiệp Sông Công, khu gang thép Thái Nguyên và thành phố Thái Nguyên. Hệ thống đường thuỷ có 2 tuyến sông chính đi Hải Phòng và Hòn Gai (Quảng Ninh), rất thuận lợi cho việc vận chuyển hàng hoá từ Thái Nguyên đến hai cảng lớn Hải Phòng và Cái Lân (Quảng Ninh). 1.1.2.4 Văn hoá, giáo dục - đào tạo Với vị trí trung tâm vùng Việt Bắc, Thái Nguyên còn là nơi hội tụ văn hoá của các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc, đầu mối hoạt động văn hoá, giáo dục của cả vùng núi phía Bắc. Với 8 trường đại 13 Phân tích những đánh giá của các nhà đầu tư về giá trị sản phẩm hiện có .... học và tương đương thuộc Đại học Thái Nguyên, 14 trường cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề, Thái Nguyên là trung tâm đào tạo khoa học và giáo dục lớn thứ ba cả nước (sau Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh). Đó là những tiền đề, những tiềm năng quan trọng đưa Thái Nguyên trở thành trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của Việt Bắc và vùng núi Đông Bắc trong hiện tại và tương lai. 1.2 Tổng quan về kinh tế - xã hội của tỉnh Thái Nguyên trong giai đoạn 1996 đến 2005 1.2.1 Tăng trưởng kinh tế 1.2.1.1 Quy mô kinh tế của tỉnh còn nhỏ bé, năm 2005 mới chiếm 0,77% GDP của cả nước (tính theo giá so sánh 1994). Tổng sản phẩm quốc nội (GDP - Gross Domestic Product) của tỉnh năm 2005 đạt gần 3.757 tỷ đồng tính theo giá so sánh 1994 (gần 6.459 tỷ đồng theo giá hiện hành). GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành của tỉnh đạt 5,83 triệu đồng, cao hơn nhiều mức trung bình của vùng (4,51 triệu đồng) nhưng thấp hơn nhiều so với mức bình quân của cả nước (10,08 triệu đồng). Như vậy, tỉnh có điểm xuất phát thuận lợi hơn nhiều tỉnh khác trong vùng nhưng lại không thuận lợi bằng hầu hết các địa phương khác trong cả nước. 1.2.1.2 Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm của tỉnh trong cả thời kỳ 1997-2005 cao hơn mức bình quân của toàn vùng, nhưng trong giai đoạn 2001-2005 lại thấp hơn mức bình quân của vùng (9,05% so với 10,33%). Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm của tỉnh đạt 8,69% cả thời kỳ 1997-2005, trong đó giai đoạn 1997-2000 là 8,25% và giai đoạn 2001-2005 là 9,05%. Năm 2005 tốc độ tăng GDP của tỉnh dự 14 NCS. Phạm Công Toàn Khoá 26 (2005 - 2008) kiến đạt 8,9%. Các tốc độ trên đều cao hơn mức tăng chung của cả nước nhưng thấp hơn mức tăng của một số tỉnh khác trong vùng và nhiều địa phương khác trong cả nước. Vai trò của tỉnh trong vùng trung du miền núi Bắc Bộ ngày càng được tăng cường, thể hiện rõ qua một số chỉ tiêu quan trọng: Tỷ trọng GDP (theo giá hiện hành) của tỉnh trong vùng ngày càng tăng lên (từ 12,13% năm 2000 lêm 13,2% năm 2005); GDP bình quân đầu người tính theo giá hiện hành của tỉnh đạt 111,9% mức bình quân của vùng năm 2000 và tăng lên 129,2% năm 2005. Kim ngạch xuất khẩu của tỉnh năm 2005 đạt trên 31,6 triệu USD. Xét về mức độ đóng góp cho tăng trưởng GDP, trong thời kỳ 1997-2000, khu vực dịch vụ đóng góp nhiều nhất cho tăng trưởng GDP của tỉnh (39,4%), tiếp đó là khu vực nông - lâm - thủy sản (32,7%), còn khu vực công nghiệp - xây dựng chỉ đóng góp 27,9%. Trong giai đoạn 5 năm tiếp theo, trừ một vài năm, khu vực công nghiệp - xây dựng tỉnh luôn có đóng góp lớn nhất (47,9%), tiếp đến là khu vực dịch vụ (35,3%) và cuối cùng là nông - lâm - thủy sản (16,7%). Như vậy, mức đóng góp của khu vực công nghiệp - xây dựng đã tăng lên rất nhanh trong khi mức đóng góp của khu vực nông - lâm - thủy sản giảm rất mạnh (giảm gần một nửa). Điều này thể hiện sự chuyển dịch mạnh trong cơ cấu kinh tế của tỉnh theo hướng hiện đại. Mặc dù đạt được tốc độ tăng trưởng tương đối cao như vậy nhưng do xuất phát điểm ban đầu của tỉnh thấp nên trong tương lai, nếu chỉ duy trì mức tăng trưởng như hiện nay thì Thái Nguyên tăng đáng kể phần đóng góp của mình cho GDP toàn vùng, nhất là về công 15 Phân tích những đánh giá của các nhà đầu tư về giá trị sản phẩm hiện có .... nghiệp và dịch vụ, và khoảng cách phát triển giữa tỉnh với các địa phương khác trong cả nước sẽ ngày càng tăng lên. 1.2.1.3 Một số ngành, sản phẩm mũi nhọn có sự phát triển tương đối nhanh, vững chắc, quy mô ngày càng tăng Giai đoạn 1997-2005, GDP ngành công nghiệp - xây dựng của tỉnh tăng bình quân hàng năm 9,93% (trong đó, giai đoạn 2001-2005 tăng 12,45%); ngành thương nghiệp tăng 15,9% (giai đoạn 2001-2005 tăng 13%); dịch vụ vận tải kho bãi và thông tin liên lạc tăng tương ứng 12,5% và 9,8% trong hai giai đoạn này. Một số sản phẩm chủ lực của tỉnh như thép (cán), xi măng, giấy có tốc độ tăng trưởng cao. Giá trị tăng thêm và giá trị xuất khẩu của sản phẩm chè chế biến (một trong những sản phẩm xuất khẩu quan trọng của tỉnh) tăng nhanh. Tuy nhiên, có thể thấy tốc độ tăng trưởng ngành dịch vụ tỉnh nói chung và ngành du lịch - khách sạn - nhà hàng tỉnh nói riêng chưa tương xứng với tiềm năng của tỉnh. 1.2.1.4 Hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế tỉnh đã được nâng lên theo thời gian nhưng mức cải thiện chưa lớn Năng suất lao động của toàn nền kinh tế tỉnh tính theo GDP giá so sánh 1994 tăng tương đối nhanh: bình quân cả thời kỳ 1992-2005 tăng 6,62%/năm. Năng suất lao động trong khu vực nông - lâm - thủy sản tăng nhanh nhất (bình quân 4,85%/năm) nhưng con số tuyệt đối rất nhỏ, tiếp đó là khu vực công nghiệp - xây dựng (bình quân 3,2%/ năm). Năng suất lao động trong ngành dịch vụ tăng chậm nhất ( bình quân 1,98%/năm) và có những năm còn bị giảm đi (năm 2002 và 2003 giảm so với năm 2001). Mức năng suất chung của toàn nền kinh tế 16 NCS. Phạm Công Toàn Khoá 26 (2005 - 2008) tỉnh năm 2005 tính theo GDP giá so sánh 1994 đạt 6,27 triệu đồng (giá hiện hành đạt 10,78 triệu đồng), cao hơn nhiều so với mức trung bình của vùng Trung du miền núi Bắc Bộ (tương ứng là 4,3 triệu đồng và 7,6 triệu đồng) nhưng thấp hơn nhiều so với mức bình quân trong cả nước (tương ứng là 9,2 triệu đồng và 19,62 triệu đồng). Ngành công nghiệp - xây dựng tỉnh hiện có mức năng suất lao động cao nhất (17,31 triệu đồng tính theo giá so sánh năm 1994, 30,28 triệu đồng tính theo giá hiện hành), còn ngành có mức năng suất thấp nhất là nông - lâm nghiệp - thủy sản (2,74 triệu đồng tính theo giá so sánh năm 1994 và 4,26 triệu đồng tính theo giá hiện hành). Một số sản phẩm công, nông nghiệp của Thái Nguyên có khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế nhưng chủ yếu vẫn là những mặt hàng truyền thống. 1.2.2 Cơ cấu kinh tế Cơ cấu kinh tế theo ngành của Thái Nguyên đã có sự chuyển dịch đúng hướng với sự gia tăng nhanh của các ngành công nghiệp và dịch vụ, nông nghiệp hàng hóa mà tỉnh có lợi thế phát triển (như công nghiệp khai thác, chế biến, thương mại, du lịch - khách sạn - nhà hàng, sản xuất sản phẩm cây công nghiệp). Ngành công nghiệp - xây dựng tỉnh được đầu tư nhiều nhất trong những năm qua và cho tới nay vẫn là ngành có đóng góp lớn nhất cho GDP của tỉnh: 33,2% năm 1996, 30,4% năm 2000, 38,5% năm 2004 và 38,6% năm 2005. Tỷ trọng của ngành dịch vụ của tỉnh trong GDP tăng nhanh trong giai đoạn 1996-2000 nhưng hầu như không cải thiện trong giai đoạn 2001-2005. Xu thế này tương đương đối giống với xu thế phát triển 17 Phân tích những đánh giá của các nhà đầu tư về giá trị sản phẩm hiện có .... ngành dịch vụ cả nước trong giai đoạn này. Nguyên nhân chủ yếu là do các ngành dịch vụ tỉnh chưa có đủ các điều kiện cần thiết để phát triển (vốn, trang thiết bị, tổ chức kinh doanh, cơ chế chính sách, thị trường...). Phần đóng góp của ngành nông - lâm - thủy sản cho GDP tỉnh giảm nhanh qua các năm (mặc dù vẫn tăng lên về giá trị tuyệt đối), phù hợp với đường lối chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh. Tỷ trọng của ngành này giảm từ 36,9% năm 1996 xuống 33,7% năm 2000 và tiếp đó xuống 26,9% năm 2004 và 26,5% năm 2005. Cơ cấu theo thành phần kinh tế đang chuyển dịch theo đúng quy luật của nền kinh tế thị trường với sự tăng trưởng rất nhanh và gia tăng dần tỷ trọng của khu vực kinh tế ngoài Nhà nước, nhất là trong các lĩnh vực thương mại, du lịch, khách sạn - nhà hàng, giao thông vận tải. Tuy nhiên, nhìn chung hoạt động của các loại hình kinh tế tư nhân vẫn mang tính tự phát, quy mô còn nhỏ bé, vốn và lao động ít, doanh thu thấp so với bình quân chung của cả nước, hiệu quả kinh doanh chưa cao. Khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) cũng có đóng góp cho GDP của tỉnh và xuất khẩu nhưng tỷ trọng còn nhỏ và mới chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp. Năm 2004, khu vực này đóng góp 6,2% cho giá trị sản xuất công nghiệp tỉnh. Chương trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước của tỉnh đã góp phần vào chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và xu thế phát triển chung. 18 NCS. Phạm Công Toàn Khoá 26 (2005 - 2008) Chương trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước của tỉnh được thực hiện có hiệu quả kể từ năm 1998 đến nay. Chương trình nhìn chung đạt được mục tiêu đề ra: mở rộng quy mô vốn của doanh nghiệp; lành mạnh hóa loại hình tài chính doanh nghiệp; cơ cấu lại lao động doanh nghiệp; huy động được vốn của xã hội vào phát triển sản xuất kinh doanh; cơ chế quản lý doanh nghiệp trở nên hiệu quả, năng động hơn, phù hợp với kinh tế thị trường; nâng cao vai trò làm chủ doanh nghiệp của người lao động; và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp - mục tiêu lớn nhất của chương trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Cơ cấu kinh tế theo lãnh thổ cũng đang có sự chuyển dịch theo hướng giảm bớt chênh lệch giữa các vùng, mở rộng đô thị, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. - Khu vực đô thị: Quy mô đô thị ngày càng mở rộng, chất lượng đô thị ngày càng được nâng cao. Đây là nơi tập trung các hoạt động sản xuất công nghiệp và dịch vụ. - Khu vực nông thôn: Khu vực này đã có sự thay đổi cơ bản theo hướng sản xuất hàng hóa và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng của lĩnh vực sản xuất phi nông nghiệp. Một số vùng sản xuất cây, con tập trung và làng nghề tiểu thủ công nghiệp (TTCN) được hình thành và phát triển. Các hợp tác xã kiểu mới ở nông thôn được thành lập, đóng vai trò chính trong việc cung cấp các dịch vụ cày bừa, tưới tiêu, khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, cung ứng vật tư kỹ thuật, chuyển giao công nghệ,... phục vụ sản xuất nông nghiệp. Một số mô hình sản xuất có hiệu quả đã xuất hiện ở nông thôn Thái 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan