Đăng ký Đăng nhập

Tài liệu NHỮNG ĐỨA CON TRONG GIA ĐÌNH

.PDF
21
272
53

Mô tả:

NHỮNG ĐỨA CON TRONG GIA ĐÌNH _Nguyễn Thi_ I. Đọc, hiểu 1. Tác giả: Họ và tên: Nguyễn Hoàng Ca, bút danh là Nguyễn Ngọc Tấn, Nguyễn Thi. Sinh năm 1928 tại Nam Định. Vào Sài Gòn từ nhỏ. Là nhà văn quân đội, hi sinh trong cuộc tổng tiến công tết Mậu Thân, tại mặt trận Sài Gòn(1968). - Tác phẩm: Trăng sáng(1960), Đôi bạn(1962),"Người mẹ cầm súng", "Những đứa con trong gia đình",... - Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Thi đậm đà bản sắc dân gian mà hiện đại, lối kể chuyện tự nhiên như cách cảm, cách nghĩ của người nông dân Nam Bộ; nhân vật được trình bày trong mối quan hệ phức tạp và sự vận động phát triển đầy ấn tượng: trẻ trung, bộc trực, mãnh liệt đáng yêu. 2. Xuất xứ Truyện "Những đứa con trong gia đình" được Nguyễn Thi viết vào tháng 2 năm 1966 tại chiến trường miền Nam khi đế quốc Mỹ đổ mấy chục vạn quân viễn chinh vào nhằm mục đích "bình định" và "tìm diệt". Chiến tranh diễn ra vô cùng ác liệt và quyết liệt. Truyện của Nguyễn Thi đã thể hiện khí thế ra trận của tuổi trẻ anh hùng miền Nam trong những giờ phút lịch sử sôi sục đó. 3. Tóm tắt Việt quê ở Bến Tre. Chị gái là Quyết Chiến, hai chị em cùng đi bộ đội một ngày. Trong một trận đánh lớn trong rừng cao su, Việt dùng thủ pháo diệt một xe bọc thép Mĩ. Nhưng Việt đã bị thương nặng, ngất đi trên chiến trường, bị lạc đơn vị ba ngày đêm. Tỉnh rồi lại mê, mê rồi lại tỉnh, anh nhớ lại những kỉ niệm vui, buồn tuổi thơ, nhớ lại ba má, anh chị em, nhớ chú Năm. Cả ba lẫn má đều đã hi sinh trong chiến tranh. Việt và chị Chiến ra đi đánh giặc để báo thù cho ba má, để giải phóng quê hương, tiếp tục trang sử anh hùng của gia đình. Anh Tánh dẫn tiểu đội đi tìm Việt suốt ba ngày, mấy lần đụng địch, lục suốt mặt trận dài dặc mới gặp được Việt và đưa về bệnh viện quân y. Lúc vết thương sắp lành, anh Tánh giục Việt viết thư cho chị Chiến. 4. Chủ đề Truyện "Những đứa con trong gia đình" ca ngợi khí thế ra trận và khí phách anh hùng của tuổi trẻ miền Nam trong thời chống Mĩ. Họ ra trận đánh giặc để trả thù nhà cũng là để giải phóng quê hương. 5. Nhân vật anh hùng - Chiến Chiến là đứa con gái không khác mẹ tí nào: gan góc, đã nói là làm, chăm chỉ, đảm đang, tháo vát. Ba má hi sinh rồi, là chị gái trong nhà nên sớm biết lo toan, thu xếp việc nhà, gửi bàn thờ má... trước lúc ra trận. Tuy có lúc còn tranh giành với em, nhưng rất thương em, hay nhường em. Chiến ra trận với lời thề quyết chiến: "Nếu giặc còn thì tao mất, vậy à!" Chú Năm khen ngợi: "Khôn! Việc nhà nó thu được gọn thì việc nước nó mở được rộng, gọn bề gia thế, đặng bề nước non". - Việt Việt là một thằng nhỏ gan, ra trận khi mới 17 tuổi. Hồn nhiên, hiếu động, rất thương chị nhưng hay tranh giành với chị, không sợ Mĩ mà lại sợ ma... Rất yêu thương đồng đội. Dũng cảm, ngoan cường trong chiến đấu, dùng thủ phảo diệt xe bọc thép Mĩ. Bị thương nặng, chân tay đẫm máu, mắt bị thương không nhìn thấy được, đói khát; chỉ còn một viên đạn đã lên nòng, sẵn sàng tử chiến với giặc. Rất thương ba má, nung nấu mối thù nhà, quyết đánh giặc để trả thù cho ba má, để giải phóng quê hương. Việt là đứa con yêu quý trong gia đình. Câu hò chú Năm gửi gắm bao tình cảm tốt đẹp với Việt: "khi thì Việt biến thành tấm áo vá quàng hoặc con sông dài cá lội của chú, khi thì Việt biến thành người nghĩa quân Trương Định, ngọn đèn biển Gò Công, hoặc ngôi sao sáng ở Tháp Mười". 6. Ghi nhớ. Đoạn văn hay nhất, đằm thắm chất trữ tình, hàm chứa chiều sâu triết lí: ..."Con sông nào của nước ta cũng đẹp, lắm nước bạc, nhiều phù sa, vườn ruộng mát mẻ cũng sinh ra từ đó, lòng tốt của con người cũng sinh ra từ đó.Trăm sông đổ về một biển, con sông của gia đình ta cũng chảy về một biển, mà biển thì rộng lắm, chị em Việt lớn lên rồi sẽ biết, rộng bằng cả nước ta và ra ngoài cả nước ta". II. Về thể loại, loại hình Là một truyện ngắn tiêu biểu của nền văn học cách mạng Việt Nam 1945 - 1975, Những đứa con trong gia đình hiển nhiên mang đậm tính sử thi và giàu cảm hứng lãng mạn (xem thêm phần viết về tính sử thi ở bài Rừng xà nu). Tuy vậy, nói đến tác phẩm này, người ta không thể không nói đến tính hiện thực sâu sắc của nó. Nguyễn Thi quả là một nhà văn hiện thực chủ nghĩa đích thực. Trong khi chịu sự chi phối của bối cảnh sáng tạo chung, ông vẫn kiên trì theo đuổi những nguyên tắc sáng tạo của mình, cố gắng tái hiện cho được diện mạo chân thực của hiện thực thông qua những tính cách điển hình, hoàn cảnh điển hình. Để xây dựng các tính cách điển hình, hoàn cảnh điển hình đó, ông rất chú ý tới mối quan hệ giữa tính cá thể, cá biệt và tính khái quát của hình tượng. Sự chính xác và sống động của các chi tiết luôn được đề cao. Chi tiết nào cũng gây ấn tượng, như được lấy "trực tiếp" từ đời sống, nóng hổi, giàu sức biểu hiện, giàu tính thẩm mỹ. Chính công việc chuẩn bị tư liệu chu đáo, cẩn thận, việc ghi chép miệt mài những điều mắt thấy tai nghe vào sổ tay đã hỗ trợ đắc lực cho Nguyễn Thi ở phương diện này. Đọc từng trang viết của ông, ta cảm nhận được một trữ lượng dồi dào những kinh nghiệm sống thấp thoáng ở phía sau. Truyện ngắn mà nhiều khi có sức chứa của một tiểu thuyết lớn. Tham vọng khái quát của nhà văn luôn được thể hiện thông qua cách ông sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật khác nhau, nhưng tham vọng đó không hề khiến ông quên đưa ra những đường nét chạm khắc rạch ròi về nhân vật, bối cảnh. Sự hứng thú quan sát, miêu tả ngôn ngữ, tâm lí nhân vật, sự vận dụng đầy ý thức ngôn ngữ Nam Bộ trong trần thuật có mối liên hệ lô gích với động cơ sáng tạo này. Ngoài ra, việc học tập kinh nghiệm của các nhà tiểu thuyết hiện đại phương Tây trên vấn đề tái hiện dòng ý thức của nhân vật cũng được chú ý đúng mức, tạo nên những trang viết xuất thần, hiếm quý (đoạn miêu tả dòng hồi tưởng, suy nghĩ của nhân vật Việt khi bị thương nằm lại trên trận địa là một ví dụ cụ thể, điển hình). Tuy là một truyện ngắn hoàn chỉnh, có cấu trúc chặt chẽ, nhưng rất có thể, với chính Nguyễn Thi, Những đứa con trong gia đình vẫn còn mang nhiều tính tư liệu. Phải chăng, trong khát vọng sáng tạo của nhà văn, đây mới chỉ là bước chuẩn bị cho một công trình đồ sộ hơn, xứng tầm với cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc mà ông mong muốn được hoàn thành. Cảm nhận được điều đó, độc giả ngày nay không thể không thấy tiếc nuối khi nghĩ về sự ra đi quá sớm của Nguyễn Thi - một hiện tượng "bùng nổ về tài năng" (đánh giá của Nguyên Ngọc) trong thế hệ các nhà văn trưởng thành sau cách mạng tháng Tám.  Tiếp cận văn bản Nguyễn Thi là một nhà văn - chiến sĩ mà cuộc đời và sự nghiệp sáng tác đã để lại nhiều bài học lớn cho cả một thế hệ nhà văn thời chống Mĩ. Ông đã hi sinh ở mặt trận Sài Gòn trong chiến dịch Mậu Thân 1968. Trong di sản văn học viết về chiến tranh của ông, có tác phẩm đã hoàn chỉnh, có tác phẩm mới ở dạng phác thảo nhưng tất thảy đều ngồn ngộn chất sống và giàu tính thẩm mĩ chứng tỏ tác giả của nó là một tài năng văn học lớn. Từng sống ở Nam Bộ trước Cách mạng và sau này lại tham gia chiến đấu trên chiến trường ấy, Nguyễn Thi rất hiểu con người và cảnh vật nơi này. Có thể nói ông là nhà văn của người nông dân đồng bằng sông Cửu Long trong cuộc chiến tranh chống Mĩ ác liệt. Ông đã trút tấm huyết xây dựng họ thành những nhân vật văn học đáng nhớ đầy cá tính, có lòng yêu nước và lòng căm thù giặc sâu sắc, sống bộc trực, hồn nhiên, giàu tình nghĩa. Những đứa con trong gia đình là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của Nguyễn Thi rút từ tập Truyện và kí xuất bản năm 1978. Truyện kể về những đứa con trong một gia đình nông dân một lòng một dạ đi theo cách mạng và có những mối thù riêng đối với quân giặc. Chiến và Việt - hai chị em đồng thời là hai nhân vật chính của tác phẩm không còn cha mẹ. Cha bị địch giết hồi chín năm (kháng chiến chống Pháp) còn mẹ thì chết vì trúng đạn đại bác Mĩ. Họ lớn lên trong sự dìu dắt, đùm bọc của ông Năm (người chú ruột) và sau này là của đoàn thể, đồng đội (một gia đình mới thân thiết của họ). Tuy nói chuyện một gia đình nhưng tác phẩm của Nguyễn Thi có khả năng ôm trùm hiện thực rộng lớn. Số phận của mấy chị em ở đây cũng như cảnh ngộ gia đình họ không phải chỉ có ý nghĩa cá biệt. Có biết bao người, bao gia đình cũng phải gánh chịu những mất mát và đã vượt lên như thế trong cuộc chiến tranh khốc liệt này. Hình tượng cuốn sổ gia đình được nhắc tới mấy lần trong truyện có ý nghĩa nghệ thuật rất quan trọng. Nó hé lộ cho ta thấy ý đồ nghệ thuật của nhà văn muốn qua câu chuyện một gia đình mà đề cập những vấn đề khái quát hơn. Lời của chú Năm trong truyện đã nói lên điều đó : "Chú thường ví chuyện gia đình ta nó cũng dài như sông, để rồi chú sẽ chia cho mỗi người một khúc mà ghi vào đó. Chú kể chuyện con sông nào ở nước ta cũng đẹp, cũng lắm nước bạc, nhiều phù sa, vườn ruộng mát mẻ cũng sinh ra từ đó, lòng tốt của con người cũng sinh ra từ đó. Trăm sông đổ về một biển, con sông của gia đình ta cũng chảy về biển, mà biển thì rộng lắm, chị em Việt lớn lên rồi sẽ biết, rộng bằng cả nước ta và ra ngoài cả nước ta". Thông thường, sự khái quát nghệ thuật của Nguyễn Thi là như vậy. Nó luôn tự nhiên như đời sống do bắt mạch thực sự được vào cuộc sống. Trên một ý nghĩa khác, hình tượng cuốn sổ ngầm chứa chức năng lí giải chiều sâu hành động hiện tại của các nhân vật. Cuốn sổ ghi chép đủ những sự việc đáng nhớ xảy ra với gia đình lớn của chị em Chiến - Việt, từ chuyện người nào bị giặc giết vào ngày nào đến chuyện ai bị chúng nhục mạ ra sao. Đặc biệt, cuốn sổ kể khá tỉ mỉ từng chiến công đánh giặc của các thành viên gia đình, trong đó có chiến công của Chiến và Việt theo du kích bắn tàu Mĩ trên sông Định Thuỷ. Cuốn sổ - ấy là lịch sử một gia đình, nó cho thấy truyền thống và sự tiếp nối. Nó là một hình thức giáo dục lòng tự hào về truyền thống mà chú Năm rất có ý thức xây dựng cho thế hệ con cháu. Chú nói : "Chừng nào bây trọng trọng (lớn lớn) tao giao cuốn sổ cho chị em bây". Câu nói ấy cũng rất mực tự nhiên mà chứa đầy ý nghĩa. Chính thế hệ mới sẽ là người viết tiếp những trang mới, vẻ vang cho truyền thống. Không thể nói mọi chiến công mà Chiến và Việt lập được lại không liên quan tới cuốn sổ gia đình này. Kể lại sự việc nhưng không bao giờ quên khám phá chiều sâu của nó chính là thuộc tính bản chất của ngòi bút Nguyễn Thi. Nguyễn Thi rất có biệt tài dựng người, dựng cảnh. Vốn sống của ông phong phú khiến cho các chi tiết mà ông lẩy ra bao giờ cũng như giẫy trên trang sách, rất sinh động. Nhiều nhân vật chỉ xuất hiện thoáng qua trong truyện nhưng đã kịp để lại một ấn tượng khó quên, cả về hành động lẫn ngôn ngữ. Chú Năm của Chiến, Việt thật dễ nhớ với "giọng hò đã đục và tức như gà gáy" ("Chú hay kể sự tích của gia đình và cuối câu chuyện, thế nào chú cũng hò lên mấy câu"). Giọng hò của người đàn ông trung niên này tuy không hay nhưng chứa đựng một cái gì đó thật tha thiết khiến cho chị em Chiến, Việt tuy thấy buồn cười nhưng vẫn rất cảm động. Theo như lời kể trong tác phẩm, ông ít nói, nhưng những câu nói của ông được hai chị em nhân vật chính khắc ghi trong tâm khảm. Nó tương tự như những châm ngôn kết tinh của cả một đời từng trải sông nước, lăn lộn với ruộng vườn và thuỷ chung một dạ với cách mạng. Bên cạnh nhân vật chú Năm, hình ảnh người má của chị em Chiến, Việt cũng hiện lên với những nét chạm khắc rạch ròi. Đó là người đàn bà xốc vác, gan dạ, giỏi thu xếp cả việc chung lẫn việc riêng. Nguyễn Thi đã chọn được nhiều chi tiết thật tài tình để xây dựng chân dung con người ấy. Nào là chuyện bà đi đấu tranh về bị cà nông giặc bắn đuổi theo, một trái rơi bịch trước mặt, không nổ, "bà đén dòm dòm rồi bỏ luôn vào rổ, cắp về" ; nào chuyện bà bế con, dắt con đi đòi đầu chồng từ ấp trong tới ấp ngoài, vượt qua sông về tới quận ; nào chuyện bà tần tảo sớm hôm làm lụng nuôi con, miệng nói, tay làm, chưa dứt câu dặn con mà chân đã "đẩy xuồng ra tuôt giữa sông"... Đặc biệt, chi tiết bà đối mặt với quân thù hai bàn tay to bản "phủ lên đầu đàn con đang nép dưới chân" hoặc "dùa đàn con lại đàng sau tránh đạn" đã cho ta hình dung đặc biệt rõ nét hình ảnh một người mẹ nơi Thành đồng Tổ quốc những năm đánh Mĩ. Hai nhân vật được khắc hoạ đậm nét trong tác phẩm là Chiến và Việt. Chiến là chị. Theo lời chú Năm, cô "không khác mẹ một chút nào". Ngay cả Việt cũng nhận thấy thế. Cô có đức tính kiên trì, chịu khó, chỉ nội một việc bỏ ăn để ngồi đánh vần cuốn sổ gia đình suốt từ trưa cho tới lúc trời chạng vạng đã đủ chứng tỏ điều đó. Cô cũng thừa hưởng ở mẹ đức tính gan góc. Trong ngày tòng quân, cô nói với em : "Tao đã thưa với chú Năm rồi. Đã làm thân con gái ra đi thì tao chỉ có một câu : Nếu giặc còn thì tao mất, vậy à !". ở cô, khả năng vun vén, thu xếp gia đình cũng thể hiện rất rõ. Trước khi cùng em đi bộ đội, mọi chuyện nhà đã được cô xếp đặt đâu vào đó, tỉ mỉ, chu đáo, "nói nghe thiệt gọn" khiến cho chú Năm cũng phải có chút sững sờ, "nhìn hai cháu thiệt lâu" rồi nói : "Khôn ! Việc nhà nó thu được gọn thì việc nước nó mở được rộng, gọn bề gia thế, đặng bề nước non. Con nít chúng bây kì đánh giặc này khôn hơn chú hồi trước". Câu nói của chú Năm thể hiện sự yên tâm của thế hệ trước đối với lớp người sau. Rõ ràng, họ đã trưởng thành, có thể gánh vác được những việc lớn của đất nước. Khác với chị Chiến đã có dáng dấp của một người lớn thực thụ dù đôi lúc còn tranh giành với em, Việt còn giữ nguyên tính chất của một cậu bé. "Cậu Tư" này trong gia đình có điệu cười "lỏn lẻn" rất dễ thương. Cậu ta thường ngày vẫn hay tranh phần hơn với chị, từ chuyện bắt ếch đến chuyện đòi đi bộ đội trước chị. Cậu còn vô tâm vô tính, phó mặc chuyện nhà cho chị "Tôi nói chị tính sao cứ tính mà". Trong khi chị bàn những việc phải làm ngày mai, Việt vẫn đùa nghịch "chụp một con đom đóm úp trong lòng tay" và thú vị quan sát điệu bộ, cử chỉ, cách nói năng "in hệt má" của chị. Vào bộ đội rồi, cậu ta "giấu chị như giấu của riêng vậy" vì sợ mất chị trước những lời gạ gẫm đùa tếu của anh em. Trong hành trang người lính của mình, ngoài cái võng, bộ quân phục, Việt còn mang theo cái ná thun (súng cao su) - một vật bất li thân từng gắn bó từ ngày cậu "để đầu trần, mình mẩy tèm lem sình đất từ chỗ móc mương lên, lội tắt trong vườn, đi tìm chim". Tuy còn rất trẻ con như thế, Việt đã chiến đấu rất dũng cảm không thua kém ai. Việt đã dùng thủ pháp tiêu diệt được một chiếc xe bọc thép của địch. Bị thương, Việt quyết bò đi tìm đồng đội. Nghe tiếng xe, pháo của giặc, Việt nằm chờ với tâm niệm : "Tao sẽ chờ mày ! Trên trời có mày, dưới đất có mày, cả khu rừng này chỉ còn có mình tao. Mày có bắn tao thì tao cũng bắn được mày. Nghe súng nổ, các anh tao sẽ chạy tới đâm mày ! Mày chỉ giỏi giết gia đình tao, còn đối với tao thì mày là thằng chạy". Có bao nhiêu là quyết tâm, bao nhiêu là niềm trìu mến với đồng đội, bao nhiêu là sự coi thường, khinh bỉ kẻ thù thể hiện qua lời độc thoại ấy. Quả thực, Việt đã là một người lính chững chạc trong khi còn mang đầy đủ nét thơ ngây, trong sáng, đáng yêu của một cậu bé vừa đến tuổi thành niên. Nhìn chung, trong khi xây dựng nhận vật, Nguyễn Thi rất quan tâm đến việc cá thể hoá. Nhân vật nao cũng có những nét riêng, độc đáo hiện lên mồn một trước mắt độc giả. Chú Năm nói khác má Việt và Việt nói khác chị Chiến. Lời nói của ai thể hiện rõ tính cách người đó. Nhưng mặt khác, nhà văn cũng có ý thức nhấn mạnh điểm giống nhau giữa họ. Chẳng thế mà ông nhiều lần qua lời chú Năm, qua lời Việt so sánh Chiến với người má của cô, và để người má ấy nói về Việt : "Đó, lại giống cái thằng cha nó rồi !". Nói lên điểm giống nhau ở đây tức là nói đến nét bền vững trong truyền thống một gia đình giàu tinh thần cách mạng, có lòng căm thù giặc sâu sắc, sống rất mực tình nghĩa thuỷ chung. Đây chính là điểm nút sẽ giúp ta lí giải được sức mạnh tinh thần nào đã giúp các nhân vật vượt qua được những thử thách lớn lao, gay gắt đến như vậy. Mở rộng ra, đấy cũng là điểm nút khiến cho mọi chi tiết, sự việc được mô tả trong tác phẩm quy tụ lại, thống nhất ở tinh thần chung là khẳng định những phẩm chất đẹp đẽ của người dân Nam Bộ trong chiến tranh chống Mĩ cứu nước. Nhiều câu nói thốt ra từ miệng chú Năm hay từ miệng má Việt, vì vậy, có tầm khái quát triết lí, mang âm vang triết lí của cả một dân tộc bất khuất, dù nó được biểu hiện ra trong một hình thức rất mực giản dị - giản dị đến bất ngờ (chẳng hạn câu của má Viêt : "người chết có cái vui của người chết, nếu không, người ta sanh con ra làm gì ?"). ở đây, có thể nhận ra một đặc điểm trong sáng tác của Nguyễn Thi : tính triết lí rất cao nhưng đấy là triết lí của chính cuộc đời - một cuộc đời được tái hiện sinh động qua những biểu hiện mang tính bản chất. Ta có thể chứng minh thêm cho điều vừa nói bằng vào chi tiết "cực đắt" sau đây mà nhà văn đã đưa vào cuối tác phẩm : chi tiết hai chị em Chiến, Việt khiêng bàn thờ má sang gửi nhà chú Năm : "Chị Chiến đứng ra giữa sân, k** cái khăn trên cổ xuống, cũng xắn tay áo để lộ hai bắp tay tròn vo sạm đỏ màu cháy nắng, rồi dang cả thân người to và chắc nịch của mình nhấc bổng một đầu bàn thờ má lên. Việt ghé vào một đầu. Nào, đưa má sang ở tạm bên nhà chú, chúng con đi đánh giặc trả thù cho ba má, đến chừng nước nhà độc lập con lại đưa má về. Việt khiêng trước. Chị Chiến khiêng bịch bịch phía sau. Nghe tiếng chân chị, Việt thấy thương chị lạ. Lần đầu tiên Việt mới thấy lòng mình rõ như thế. Còn mối thù thằng Mĩ thì có thể rờ thấy được, vì nó đang đè nặng ở trên vai. Hai chị em khiêng má băng tắt qua dãy đất cày trước cửa, men theo chân vườn thoảng mùi hoa cam, con đường hồi trước má vẫn đi để lội hết đồng này sang bưng khác". Khó mà không dẫn hết ra đoạn văn đầy xúc động này. Nó đã nói lên hết sức cô đọng về cuộc chiến đấu của chúng ta : có yêu thương, có căm thù, có cái mất mát nhưng có cái vĩnh hằng, có sự quyết liệt nhưng cũng có sự thanh thản, có yếu tố hành động nhưng cũng có yếu tố tâm linh... Và mùi hoa cam, nó chỉ thoảng qua một lần mà thơm mãi. Trong văn Nguyễn Thi, mùi hương "trữ tình" này thường chỉ được dùng rất dè sẻn, nhưng chính vì vậy mà nó vô cùng quý, để lại trong lòng người đọc những cảm nghĩ sâu xa. Một thành công nữa rất cơ bản của Nguyễn Thi trong Những đứa con trong gia đình là nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật. Ta đã thấy phần nào điều đó qua việc phân tích cái tài của ông khi lựa chọn các chi tiết đặc sắc làm nổi bật cá tính nhân vật ở trên. Cần đặc biệt lưu ý rằng truyện ngắn này được tổ chức dựa trên dòng hồi ức của nhân vật Việt khi bị thương trên trận địa. Miêu tả tâm lí của người tỉnh táo đã khó mà ở đậy lại là tâm lí của con người luôn nằm trong trạng thái giữa mê và tỉnh, hiển nhiên nhiệm vụ nghệ thuật đặt ra càng khó bội phần. Nhưng nhà văn đã thể hiện một cách xuất sắc trạng thái "chập chờn cơn tỉnh cơn mê" đó của nhân vật. Bốn lần Việt "tỉnh dậy" trên trận địa, mỗi lần Việt nhớ gì, nghĩ gì đều được nhà văn miêu tả rất cụ thể, tinh tế và chính xác. Thông thường, mạch hồi tưởng của nhân vật trong bước khởi đầu phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố dẫn dụ của ngoại cảnh. Tác giả hiểu điều đó rất rõ. Tâm lí con người tuy phức tạp nhưng vẫn diễn biến một cách có lôgic. Lần thứ hai Việt tỉnh dậy, nghe tiếng ếch nhái kêu dậy lên, Việt tự nhiên nhớ về những đêm đi soi ếch, nhớ "Khi đổ ếch vào thùng, chú Năm thế nào cũng sang". Thế là hình ảnh chú Năm hiện lên với những câu hò và cuốn sổ gia đình cùng ý nghĩa của nó. Lần thứ ba Việt tỉnh dậy, tiếng cu rừng nhắc Việt nhớ tới chiếc ná thun, rồi chiếc ná thun nhắc tới hành trang trong chiếc ba lô ngày nhập ngũ, ngày nhập ngũ là ngày má Việt vừa mất, thế là nỗi nhớ "chuyển vùng" sang hình ảnh của người má thân yêu. Việt tỉnh dậy lần thứ tư trong tiếng súng thôi thúc. Sự thôi thúc ấy khiến Việt liên hệ tới ý nghĩ thôi thúc ngày đi bộ đội, liên hệ chuyện chị em giành nhau nhập ngũ trước, sau đó là chuyện mang bàn thờ má đi gửi bên nhà chú... Nhìn chung nhà văn nắm rất chắc quy luật diễn biến tâm lí con người. Ông đã tạo cho tác phẩm một hình thức kết cấu độc đáo tương đồng với "kết cấu" của những giấc mơ chập chờn, từ đó cứ mở rộng dần đối tượng được miêu tả và đi mỗi lúc một sâu vào đời sống tâm hồn của nhân vật. Trong khi làm sáng tỏ tâm lí nhân vật, nhà văn đã sử dụng một ngôn ngữ trần thuật đặc biệt phù hợp. Đấy là ngôn ngữ của chính nhân vật nói về mình và kể về người khác, mặc dù bề ngoài có vẻ là ngôn ngữ khách quan của người trần thuật. Điều đó thể hiện ngay ở cách xưng hô rất đỗi thân thương, gắn bó : "Việt" (chứ không phải là "anh" hay "chú bé"), "chị Chiến" (chứ không phải là "cô", "chị"), "chú Năm" (chứ không phải là "ông Năm"), "má" (chứ không phải là "má Việt")... Điều đó cũng thể hiện ở màu sắc địa phương của lời trần thuật (chưa kể đến lời nói thực thụ của nhân vật): "Chú ít nói, nhưng đã nhậu vào ba hột là chú nói tới", "Thím Năm vừa khóc vừa kể thôi là kể", "Hai bên giáp mặt, ba cười hề hề, nhưng má chẳng thèm dòm, hai mắt hứ một cái "cóc", rồi đi thẳng"... Thật khó kể hết được những ví dụ sinh động như thế. Nhiều người từng biểu dương Nguyễn Thi rất thạo ngôn ngữ Nam Bộ. Cần phải thấy rằng cách sử dụng ngôn ngữ của ông ở đây trước hết có tác dụng làm nổi bật tâm lí những con người sống ở vùng đất ấy, sau nữa mới gọi dậy không khí của một vùng, của một thời... III. Tìm hiểu tác phẩm 1. Ý nghĩa nhan đề tác phẩm Những đứa con trong gia đình Nhan đề truyện "Những đứa con trong gia đình" nhằm nhấn mạnh đến nội dung phản ánh trong truyện, đó là truyền thống yêu nước của một gia đình người dân Nam và rộng hơn là hình ảnh cả miền Nam thời kì chống Mĩ.Trong gia đình ấy, cứ thế hệ sau tiếp nối thế hệ đi trước, lập nên những chiến công ngày một hiển hách. - Truyền thống gia đình tuy đau thương nhưng đầy anh dũng và tự hào. - Thế hệ hiện tại của gia đình chính là những đứa con: Chiến và Việt. Cả hai thành viên này tuy còn nhỏ những đã thấm nhuần truyền thống gia đình, sớm ý thức được trách nhiệm với gia đình, đất nước và dũng cảm gánh vác trách nhiệm đó. Đây là một thế hệ trẻ, đầy sức chiến đấu và lòng nhiệt huyết. - Nhan đề câu chuyện còn nhấn mạnh mối quan hệ mật thiết giữa tình yêu gia đình và tình yêu quê hương đất nước.. 2. Nghệ thuật trần thuật. - Được kể theo ngôi thứ ba và người trần thuật là nhân vật Việt. - Sáng tạo và nét độc đáo trong cách kể chuyện. 3. Tính sử thi  Chất sử thi của thiên truyện được thể hiện qua cuốn sổ của gia đình với truyền thống yêu nước, căm thù giặc, thủy chung son sắt với quê hương.  Cuốn sổ là lịch sử gia đình mà qua đó thấy lịch sử của một đất nước, một dân tộc trong cuộc chiến chống Mĩ.  Số phận của những đứa con, những thành viên trong gia đình cũng là số phận của nhân dân miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ khốc liệt  Chất sử thi của thiên truyện được thể hiện như thế nào?  Truyện của một gia đình dài như dòng sông còn nối tiếp. "Trăm dòng sông đổ vào một biển, con sông của gia đình ta cũng chảy về biển, mà biển thì rộng lắm., rộng bằng cả nước ta và ra ngoài cả nưước ta.". Truyện kể về một dòng sông nhưng nhà văn muốn ta nghĩ đến biển cả. Truyện về một gia đình nhưng ta lại cảm nhận được cả một Tổ quốc đang hào hùng chiến đấu bằng sức mạnh sinh ra từ những đau thương.  Mỗi nhân vật trong truyện đều tiêu biểu cho truyền thống, đều gánh vác trên vai trách nhiệm với gia đình, với Tổ quốc trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Phân tích khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn trong văn học giai đoạn 1945-1975. (Để vận dụng phân tích các tác phẩm thuộc khuynh hướng này) Cách mạng Tháng Tám thành công là "cuộc tái sinh mầu nhiệm" đã mở ra bước ngoặt lớn cho quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta. Đồng thời nó cũng là động lực để tạo nên một cuộc cách mạng trong văn học. Đó là sự thay đổi của một cách nhìn,một cách cảm,một quan niệm sống trong sáng tạo nghệ thuật.Từ năm 1945 trở đi những người cầm bút đã ý thức sâu sắc được trách nhiệm trong các sáng tác của mình là phải phụng sự cho đất nước,các tác phẩm cần tập trung đề cập đến các vấn đề thời sự,liên quan đến vận mệnh dân tộc,tạo dựng và ca ngợi những con người của thời đại đã sống và phục vụ cho tổ quốc.Chính vì vậy+ mà văn học giai đoạn 1945-1975 mang đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Trước hết cần giải thích được về khái niệm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Khuynh hướng sử thi được hiểu là những tình cảm, cảm xúc tự hào , ngợi ca của tác giả về những vấn đề lớn lao quyết định vận mệnh chung của cộng đồng. Đây là cảm hứng chi phối mạnh mẽ đến các sáng tác của các thi nhân trong thời kỳ kháng chiến , đặc biệt là cuộc kháng chiến chống Mỹ.Tác phẩm viết theo khuynh hướng sử thi là tác phẩm đề cập đến những đề tài có ý nghĩa lịch sử và mang tính dân tộc.Nhân vật chính là những người tiêu biểu cho lí tưởng và phẩm chất cộng đồng,và chiến đấu vì cộng đồng.Sử thi thì mang ý nghĩa lịch sử còn cảm hứng lãng mạn lại mang nội dung trữ tình sôi nổi, dạt dào và hướng về lý tưởng, hướng về tương lai.Cảm hứng lãng mạn không chỉ sôi nổi trong thơ mà cả trong văn xuôi.Từ tiểu thuyết, truyện ngắn đến bút kí,tuỳ bút và cả kịch bản sân khấu đều rất giàu chất thơ.Hướng vận động của cốt truyện, số phận nhân vật, dòng cảm nghĩ của tác giả hầu như đều đi từ bóng tối ra ánh sáng, từ gian khổ đến niềm vui, từ hiện tại đến tương lai đầy hứa hẹn. Cảm hứng lãng mạn đó là cách nhìn thế giới mang đậm dấu ấn chủ quan, đầy mơ ước.Có khi đó là sự mơ ước bay bổng hướng tới cái chưa có trong thực tế bằng niềm tin,sự lạc quan.Có khi đó là những rung động về lí tưởng cao đẹp,khát vọng lớn lao của những con người có chí hướng,hoài bão cao cả…Văn học 1945-1975 đã thể hiện những cảm xúc lãng mạn tích cực đó.Hiện thực chiến tranh khốc liệt, phải đương đầu với hai kẻ thù hùng mạnh,một nửa đất nước tiến lên con đường Chủ nghĩa xã hội từ đôi tay trắng, phải "Dọn tí phân rơi nhặt từng mẩu lá" để "dựng cơ đồ"(Tố Hữu).Con người muốn đứng vững,vượt qua hiện thực ấy cần phải có niềm tin và tâm hồn lãng mạn. Nền văn học 1945-1975 phát triển, vận động theo chặng đường lịch sử của dân tộc. Chính khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn đã làm cho văn xuôi tự sự gần với thơ ca và thơ ca giàu yếu tố tự sự. Vì vậy văn học bám sát vào cuộc sống hiện thực hơn.Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn được biểu hiện ở các phương diện sau: Thứ nhất, Cảm hứng sử thi trong việc lựa chọn Đề tài, chủ đề và tư tưởng tác phẩm. Tác phẩm thường đề cập đến những vấn đề chung của cộng đồng, của xã hội, của đất nước. Ví như cuộc đối đầu quyết liệt của đồng bào Tây Nguyên với Đế quốc và tay sai trong truyện ngắn Rừng xà nu. Các tác phẩm mang cảm hứng sử thi luôn lạc quan, tin tưởng vào tương lai tươi sáng của đất nước, vào thắng lợi vẻ vang của dân tộc. Thứ hai: trong việc xây dựng hình tượng. Các nhân vật, hình tượng trong các tác phẩm mang cả hứng sử thi, dù là những con người bình dị, thuộc nhiều tầng lớp, lứa tuổi, thành phần dân tộc... đều mang trong mình những phẩm chất anh hùng, thể hiện tầm vóc lớn lao, kết tụ sức mạnh, ý chí chung của cả cộng đồng. Đó là những Tnú, cụ Mết và dân làng Xô man, là hình ảnh đoàn quân hừng hực khí thế trong Việt Bắc: "Những đường Việt Bắc của ta...Đèn pha bật sáng như ngày mai lên". Cảm hứng chủ đạo khi xây dựng những hình tượng, nhân vật này là cảm hứng khẳng định, ngợi ca, tự hào... thường kết hợp với thủ pháp cường điệu hóa.Các nhân vật thường được đặt trong bối cảnh không gian rộng lớn, kì vĩ để tôn nổi tấm vóc của nhân vật... Thứ ba: Ngôn ngữ tác phẩm Ngôn ngữ thường có tính chất trang trọng, giàu hình ảnh, có tính biểu tượng cao và giàu giá trị gợi cảm. Giọng điệu tác phẩm thường mang âm hưởng hùng tráng, lay động và khích lệ mạnh mẽ tình cảm người đọc... Thứ tư: Một số thủ pháp nghệ thuật. Các thủ pháp nghệ thuật thường được tác giả sử dụng là thủ pháp cường điệu, so sánh nhằm khắc họa nổi bật hình ảnh những nhân vật tượng trưng cho phẩm chất cao đẹp và ý chí, khát vọng của cả cộng đồng. Trong truyện Rừng xà nu, cách tổ chức kết cấu kiểu truyện trong truyện, đầu cuối tương ứng (kết cấu vòng tròn) cũng góp phần chuyển tải tư tưởng và cảm hứng sử thi của tác phẩm Từ năm 1945 đến năm 1954 là thời kỳ chống Pháp của đất nước. Văn học gắn liền với khuynh hướng sử thi, tập trung phản ánh không khí hồ hởi, vui sướng khi đất nước giành độc lập và cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Văn học gắn bó với cuộc sống kháng chiến. Cho nên mới có những lời mừng vui: "Mẹ ! Cao - Lạng hoàn toàn giải phóng Tây bị chết bị bắt sống hàng đàn Vệ quốc quân chiếm lại các đồn Người đông như kiến, súng đầy như củi" ( Dọn về làng_Nông Quốc Chấn) Đó là thắng lợi của chiến dịch Biên Giới, là niềm vui của nhân dân Cao - Bắc - Lạng. Văn học cũng tập trung khám phá sức mạnh và những phẩm chất tốt đẹp của nhân dân. Cảm hứng chủ đạo của giai đoạn này là cảm hứng lãng mạn. Các nhà văn, nhà thơ luôn hướng vào tương lai, khơi dậy niềm vui, lòng tin tưởng và niềm say mê với con đường cách mạng. Dù gian khổ,dù khó khăn nhưng trong trái tim các chiến sĩ luôn là niềm tự hào dân tộc và niềm tin vào tương lai tất thắng : "Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo" Hơn nửa văn học còn ngợi ca những đổi thay của đất nước và con người trong bước đầu xây dựng Xã hội chủ nghĩa với cảm hứng lãng mạn. Đó là sự đổi đời của con người, miêu tả sự biến đổi số phận và tính cách nhân vật trong môi trường xã hội mới qua bài thơ "Đất nước": "Mùa thu nay khác rồi Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi Gió thổi rừng tre phấp phới Trời thu thay áo mới Trong biếc nói cười thiết tha Trời xanh đây là của chúng ta Núi rừng đây là của chúng ta Những cánh đồng thơm mát Những ngả đường bát ngát Những dòng sông đỏ nặng phù sa" (Đất nước_Nguyễn Đình Thi) Rồi một ngòi bút như Nguyễn Khải và sự cảm thông với số phận thiệt thòi, với khao khát của những người phụ nữ như Đào trong "Mùa lạc". Qua đó khẳng định hạnh phúc hiện hình từ những hi sinh gian khổ của ngày hôm qua và hôm nay, từ bàn tay lao động trong cuộc sống xây dựng mới. Đồng thời mỗi người cần có đủ sức mạnh, dũng khí để vượt qua những trở ngại, ranh giới đó cũng như Đào cuối cùng cũng đã xây đắp cuộc sống mới với ông Dịu. Văn học giai đoạn 1945-1975 đề cao tinh thần yêu nước và ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tập trung phản ánh cuộc sống lao động, khắc họa thành công hình ảnh con người Việt Nam anh dũng, kiên cường, bất khuất. Tác phẩm"Những đứa con trong gia đình" kể chuyện chiến trường mà giống như tái hiện chuyện trong gia đình. Đó là chiến sĩ trẻ Việt với ý chí chiến đấu mạnh mẽ và tình yêu thương hồn nhiên, trong sáng. Đó là chị Chiến biết bao lo toan, nhường nhịn và khôn ngoan. Chị từng khẳng định với Việt:"nếu giặc còn thì tao mất". Và "Quán rượu người câm" của Nguyễn Quang Sáng đã khắc họa cuộc chiến đấu khóc liệt trong trận Đồng Khởi. Nhân vật chính thường tiêu biểu cho lí tưởng chung của dân tộc, gắn bó sản phẩm mình với sản phẩm đất nước, kết tinh những phẩm chất cao đẹp của cộng đồng. Lời văn mang giọng điệu ngợi ca, trang trọng và đẹp một cách tráng lệ.Cái đẹp của cá nhân là ở ý thức công dân, lẽ sống lớn và tình cảm lớn. Khuynh hướng sử thi giai đoạn này là khuynh hướng vươn tới những cái lớn lao, phi thường qua những hình ảnh tráng lệ. Ở Tố Hữu, cái tôi trữ tình ban đầu là cái tôi chiến sĩ, về sau là cái tôi nhân danh cộng đồng, nhân dân Đảng và đất nước. Tuy đứng giữa thực tại đầy đau khổ, mất mát, đau thương nhưng tâm hồn họ luôn hướng về tương lai, về lí tưởng. "Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước Mà lòng phơi phới dậy tương lai". (Tố Hữu_theo chân Bác) Trong việc biểu hiện tâm hồn thơ, Tố Hữu luôn hướng đến cái ta chung: Hồn thơ Tố Hữu luôn hường đến cái ta chung, lẽ sống lớn, niềm vui lớn của dân tộc và của Cách mạng. Cái tôi nếu có là cái tôi của người chiến sĩ, cái tôi nhân danh Đảng và dân tộc. Vì thế có ý nghĩa khái quát, rộng lớn. Cảm hứng thơ Tố Hữu thường bắt đầu từ cảm hứng chính trị, từ những tình cảm lớn cao cả, tiêu biểu: tình yêu lý tưởng, lãnh tụ, đồng bào đồng chí,.... Trong việc miêu tả đời sống, thơ ông luôn mang đậm chất sử thi: Đối tượng thể hiện chủ yếu trong thơ Tố Hữu là những sự kiện lớn của dân tộc, những vấn đề có ý nghĩa lịch sử, có tình chất toàn dân, những biến cố quan trọng tác động đến vận mệnh dân tộc cảm hứng chủ đạo trong thơ là cảm hứng lịch sử dân tộc, là vận mệnh của cộng đồng. Các nhân vật trữ tình thường mang phẩm chất tiêu biểu cho dân tộc: anh vệ quốc quân, anh giải phóng quân, người mẹ Việt Nam anh hùng.... Để dẫn ra một tác phẩm tiêu biểu có thể minh hoạ cho sự tồn tại của "nền văn học sử thi" trong văn học Việt Nam 1945 - 1975, tưởng không có tác phẩm nào tiêu biểu hơn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành. Quả đây là một truyện ngắn mang đậm tính sử thi và cảm hứng lãng mạn. Tính sử thi của Rừng xà nu được biểu lộ trước hết ở những sự kiện có tính chất toàn dân được nhắc tới. Những chuyện xảy ra với làng Xô Man hoàn toàn không có ý nghĩa cá biệt. Chúng là chuyện chung của cả Tây Nguyên, cả miền Nam, cả nước trong những ngày chiến đấu chống đế quốc Mĩ. Biểu hiện thứ hai của tính sử thi trong Rừng xà nu là truyện ngắn đã xây dựng thành công hình tượng một tập thể anh hùng. Những anh hùng được kể tới trong đó đều có tính đại diện cao, mang trong mình hình ảnh của
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan