Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi sử dụng đồ nhựa sử dụng một lần của ...

Tài liệu Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi sử dụng đồ nhựa sử dụng một lần của người dân tại thành phố hồ chí minh

.PDF
95
1
113

Mô tả:

BỘ TÀI CHÍNH TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI CHÍNH – MARKETING KHOA THƯƠNG MẠI NGHIÊN CỨU THỊ TRƯỜNG QUỐC TẾ LỚP : CLC_18DTM01 BÀI TIỂU LUẬN NGHIÊN CỨU CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HÀNH VI SỬ DỤNG ĐỒ NHỰA SỬ DỤNG MỘT LẦN CỦA NGƯỜI DÂN TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH GIẢNG VIÊN: THẠC SĨ HÀ ĐỨC SƠN THÁNG 12/2020 1 BỘ TÀI CHÍNH TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI CHÍNH – MARKETING KHOA THƯƠNG MẠI NGHIÊN CỨU THỊ TRƯỜNG QUỐC TẾ LỚP : CLC_18DTM01 BÀI TIỂU LUẬN NGHIÊN CỨU CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HÀNH VI SỬ DỤNG ĐỒ NHỰA SỬ DỤNG MỘT LẦN CỦA NGƯỜI DÂN TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH GIẢNG VIÊN: THẠC SĨ HÀ ĐỨC SƠN NHÓM SINH VIÊN THỰC HIỆN: 1. Phạm Trọng Nghĩa (1821002040) 2. Tạ Vũ Long (1821002165) 3. Lê Ngọc Thanh Nga (1821002184) 4. Lưu Thị Mỹ Linh (1821002181) 5. Lê Ngọc Thanh Thúy (1821002179) THÁNG 12/2020 2 LỜI CẢM ƠN Trong suốt quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài “Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi sử dụng đồ nhựa sử dụng một lần của người dân TP.HCM”, nhóm đã nhận được sự giúp đỡ rất nhiều từ phía nhà trường, các bạn sinh viên, đặc biệt là sự hướng dẫn và những góp ý, lời khuyên chân thành nhất từ phía thầy Hà Đức Sơn, thầy đã cung cấp và trang bị cho chúng tôi những kiến thức nền tảng quý báu – là hành trang và nền móng cho những nghiên cứu sâu hơn sau này. Hơn nữa, khi thực hiện bài báo cáo, nhóm đã gặp phải nhiều hạn chế, một mặt hạn chế về vấn đề thời gian, mặt khác các thành viên còn hạn chế về khả năng và kiến thức chuyên môn. .Hơn nữa việc nghiên cứu, phân tích một báo cáo trên phần mềm SPSS là một vấn đề khá mới nên chắc hẳn nhóm sẽ còn nhiều thiếu sót. Các thành viên trong nhóm đã cố gắng hết sức để hoàn thành tốt bài báo cáo này, rất mong được những ý kiến đóng góp của thầy để nhóm có những kinh nghiệm, bài học cho lần nghiên cứu khoa học sắp tới. Xinh gửi đến thầy lời chúc sức khỏe và thành công! Chúng em xin chân thành cảm ơn. Tp.HCM, ngày tháng 11 năm 2020 Nhóm tác giả 3 NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN .................................................................................................................................. .................................................................................................................................. .................................................................................................................................. .................................................................................................................................. .................................................................................................................................. .................................................................................................................................. .................................................................................................................................. .................................................................................................................................. .................................................................................................................................. .................................................................................................................................. .................................................................................................................................. .................................................................................................................................. .................................................................................................................................. .................................................................................................................................. .................................................................................................................................. .................................................................................................................................. .................................................................................................................................. .................................................................................................................................. .................................................................................................................................. .................................................................................................................................. .................................................................................................................................. .................................................................................................................................. TP.HCM, ngày tháng 11 năm 2020 Xác nhận của đơn vị thực tập THẠC SĨ HÀ ĐỨC SƠN 4 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU 1.1 Lý do hình thành đề tài Thành phố Hồ Chí Minh (Tp.HCM) là một trong những trung tâm thành phố lớn nhất nước ta, với khoảng hơn 8 triệu dân đang sinh sống và làm việc tại địa bàn này. Là một trong những nơi có nhịp sống vô cùng nhộn nhịp và hối hả. Hằng ngày, một khối lượng nhựa được thải ra là cực kì lớn vì nhu cầu sử dụng nhựa một lần khá cao. Nó có thể nó là vật dụng không thể thiếu trong cuộc sống hằng ngày và độ sử dụng rộng rãi của nhựa sử dụng một lần. Hiện nay, đồ nhựa sử dụng một lần đã trở thành vật dụng quen thuộc, không thể thiếu trong mỗi gia đình. Từ việc đựng đồ cho đến đi chợ, mua bán,... Với ưu điểm bền chắc, tiện dụng, giá thành thấp, loại vật liệu này nhanh chóng “phủ sóng” trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Cùng với túi nilon thì đồ nhựa dùng một lần cũng được nhiều người ưa chuộng. Tuy nhiên, ít ai biết rằng đằng sau sự “tiện lợi” ấy là cả một câu chuyện dài chưa có hồi kết, không chỉ gây tác hại đến sức khỏe của con người mà còn là tác nhân đe dọa môi trường sống của cả nhân loại. Trên thế giới: Năm 2050, ước tính lượng rác thải nhựa thải xuống biển sẽ nhiều hơn cá (tính theo trọng lượng); sử dụng 500 tỷ túi nhựa mỗi năm; thải ra khoảng 300 triệu tấn rác thải nhựa mỗi năm, đủ để trải quanh Trái đất 4 lần. Còn tại Việt Nam: Hằng tháng, trung bình mỗi gia đình sử dụng 1kg túi nilon; xả khoảng 2.500 tấn rác thải nhựa mỗi ngày; Việt Nam , đặt biêt là TP Hồ Chí Mình xả chất thải nhựa ra biển nhiều nhất thế giới. Vấn đề nêu trên xuất phát từ hành vi của con người nó chung cụ thể hơn là người dân TP Hồ Chí Minh nói riêng, vì nhựa một lần đem lại lợi ích to lớn nên kiểm soát được hành vi sử dụng nhựa một lần không phải là điều đơn giản, hành vi đó mang lại hậu quả nghiêm trọng. Do đó, nguyên nhân mà tác giả thấy rất cần thiết để nghiên cứu về đề tài “Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi sử dụng đồ nhựa sử dụng một lần của người dân TP.HCM”. Qua nghiên cứu này, tác giả mong muốn xác định được những yếu tố ảnh hưởng đến hành vi sử dụng đồ nhựa một lần của người dân TP Hồ Chí Minh để góp phần kiểm soát và giảm thiểu phần nào việc sử dụng đồ nhựa một lần ở TP Hồ Chí Minh và cũng góp phần bảo vệ môi trường sống. 5 1.2 Câu hỏi nghiên cứu Câu 1: Những yếu tố nào ảnh hưởng đến hành vi sử dụng đồ nhựa một lần? Câu 2: Mức độ ảnh hưởng đến những yếu tố này sẽ như thế nào? 1.3 Mục tiêu nghiên cứu 1.3.1 Mục tiêu chung Khám phá được các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi sử dụng đồ nhựa một lần của người dân TP Hồ Chí Minh. 1.3.2 Mục tiêu cụ thể Xác định các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi sử dụng đồ nhựa một lần của người dân TP Hồ Chí Minh. Đánh giá mức độ tác động của các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi sử dụng đồ nhựa một lần của người dân TP Hồ Chí Minh. 1.4 Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu, đối tượng khảo sát 1.4.1 Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những yếu tố ảnh hưởng đến hành vi sử dụng đồ nhựa một lần của người dân TP Hồ Chí Minh. Các yếu tố này sau đó sẽ được khảo sát và phân tích tổng hợp để đánh giá mức độ ảnh hưởng đối với hành vi. Bước đầu của nghiên cứu là tìm hiểu và thu thập thông tin về các yếu tố khác nhau mà có thể sẽ ảnh hưởng đến hành vi sử dụng đồ nhựa một lần. Những yếu được nhóm tác giả xác định bao gồm: - Nhận thức nguy cơ bị nhiễm bệnh - Nhận thức kiểm soát hành vi - Nhận thức lợi ích - Nhận thức độ nghiêm trọng Những yếu tố này được chọn vì xuất hiện khá nhiều trong các nghiên cứu và được xác nhận các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi sử dụng đồ nhựa một lần. Ngoài ra, các nhân tố này cũng không quá riêng tư hay khó nói, giúp cho việc thu thập mẫu có phần nào thuận tiện. 6 1.4.2 Phạm vi nghiên cứu 1.4.2.1 Về không gian nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của đề tài giới hạn trong TP Hồ Chí Minh. 1.4.2.2 Về thời gian Thời gian nghiên cứu bắt đầu từ đầu tháng 9 năm 2020 đến cuối tháng 11 năm 2020. 1.4.3 Đối tượng khảo sát Đối tượng khảo sát là người dân sinh sống tại TP Hồ Chí Minh. Các đối tượng sẽ được khảo sát về các thông tin khác nhau như giới tính (nam và nữ) và các độ tuổi (dưới 15 , từ 15 đến 35, và trên 35), nghề nghiệp ( Học sinh, sinh viên ,Cán bộ văn phòng, Lao động phổ thông). 1.5 Phương pháp nghiên cứu 1.5.1 Nghiên cứu sơ bộ Trong giai đoạn nghiên cứu sơ bộ, nhóm tác giả đã sử dụng phương pháp nghiên cứu sau: Phương pháp hệ thống hóa lý thuyết: Trên cơ sở dữ liệu, thông tin có sẵn tại các văn bản, tài liệu, nhóm tác giả sử dụng phương pháp này để hệ thống những tiêu chí có thể dùng để chọn lọc các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi sử dụng đồ nhựa một lần của người dân TP Hồ Chí Minh. Phương pháp phân tích tổng kết kinh nghiệm: Xem xét lại những kết quả nghiên cứu tương tự trong quá khứ để đưa ra những dạng câu hỏi, chỉ tiêu, mô hình nghiên cứu có thể đưa vào bản câu hỏi khảo sát. Phương pháp nghiên cứu định tính: bằng kĩ năng thảo luận nhóm tập trung, thông tin thu thập từ nghiên cứu định tính nhằm khám phá, điều chỉnh, bổ sung các thang đo tiêu chí dùng để đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi sử dụng đồ nhựa một lần tại Tp.HCM. Phương pháp nghiên cứu định lượng: bằng kỹ năng thiết kế bảng khảo sát bằng dữ liệu được thu thập trong thời điểm nghiên cứu thực nghiệm thông qua các biến. Nghiên cứu định lượng sơ bộ được thực hiện bằng kỹ thuật phỏng vấn và thảo luận trực tuyến thông qua bảng câu hỏi chi tiết. Thông tin từ nghiên cứu định 7 lượng sơ bộ nhằm sàng lọc các biến quan sát dùng để đo các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi sử dụng đồ nhựa một lần tại Tp.HCM. Phương pháp được sử dụng trong nghiên cứu định lượng sơ bộ bao gồm: Phương pháp kiểm định độ tin cậy Cronbach’s Alpha và phân tích nhân tố khám phá EFA thông qua công cụ chính là phần mềm SPSS. Phân tích hồi quy tuyến tính nhằm kiểm định mô hình nghiên cứu, các giả thuyết nghiên cứu và đo lường tác động của các nhóm yếu tố. 1.5.2 Nghiên cứu chính thức Trong giai đoạn nghiên cứu chính thức, nhóm tác giả đã sử dụng phương pháp nghiên cứu sau: Phương pháp nghiên cứu định lượng: dùng kỹ thuật thu thập thông tin bằng khảo sát qua Internet 400 người dân đang sinh sống tại Tp.HCM. Nghiên cứu sử dụng thống kê suy diễn phân tích kết quả thu thập từ mẫu. Thông tin thu thập từ nghiên cứu định lượng này đầu tiên sẽ sàng lọc các biến quan sát không đạt chất lượng (biến rác) sử dụng hệ số độ tin cậy. Cronbach’s Alpha và phân tích nhân tố khám phá EFA thông qua công cụ là phần mềm SPSS. Sau đó tác giả phân tích hồi quy dựa trên chỉ số beta chuẩn hóa và chưa chuẩn hóa, tiếp tục kiểm định vi phạm giả định hồi quy của mô hình thông qua các kiểm định: Kiểm định hiện tượng tương quan giữa các phần dư, Kiểm định đa cộng tuyến, Giả định không có tương quan giữa các phần dư, Các phần dư có phân phối chuẩn, Phương sai của phần dư không đổi. 1.5.3 Những đóng góp của đề tài Nghiên cứu đề tài là quá trình thu thập, phân tích thông tin để xác định được mức độ và nhận thức rồi từ đó xây dựng lên các thang đó yếu tố ảnh hưởng đến hành vi sử dụng đồ nhựa một lần của người dân tại TP.HCM. Với mong muốn nghiên cứu sẽ đóng được các yếu tố có ảnh hưởng nhiều nhất đến hành vi từ đó đưa ra biện pháp hạn ch, kiểm soát hành vi. 8 1.6 Ý nghĩa đề tài nghiên cứu 1.6.1 Ý nghĩa khoa học Nghiên cứu tìm hiểu và đánh giá mức độ ảnh hưởng của các yếu tố tác động đến hành vi sử dụng nhựa một lần của người dân sinh sống tại TP.HCM thông qua lý thuyết, cơ sở khoa học đã được nghiên cứu xác định. Thông qua việc xử lí và phân tích dự trên số liệu thu thập từ khảo sát thực tế, nghiên cứu chỉ ra những tiêu chí quan trọng để đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi sử dụng nhựa một lần của người dân sinh sống tại TP.HCM. Từ đó các đưa ra được những giải pháp nhằm hạn chế, kiểm soát hành vi. 1.6.2 Ý nghĩa thực tiễn Cung cấp thông tin thực tế về các yếu tố tác động đến hành vi sử dụng đồ nhựa một lần của người dân tại TP.HCM để đề xuất các biện pháp hạn chế sử dụng đồ nhựa một lần giảm các tác hại gây ra từ hành vi này. Từ những thực trạng được phát hiện, nghiên cứu có thể sẽ góp phần đề xuất những khuyến nghị hợp lí, khoa học giúp cho các cơ quan chính quyền đưa ra được những chính sách hợp lí trong việc giảm rác thải nhựa thải ra môi trường, bảo vệ môi trường sống cho toàn nhân loại. 1.7 Kết cấu đề tài Chương 1: Tổng quan về đề tài nghiên cứu Chương 2: Cơ sở lí luận và mô hình nghiên cứu Chương 3: Thiết kế nghiên cứu Chương 4: Kết quả nghiên cứu Chương 5: Hàm ý chính sách và kết luận TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 Chương 1 giới thiệu lý do nhóm tác giả lựa chọn đề tài: “ Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi sử dụng đồ nhựa sử dụng một lần của người dân TP.HCM”. Từ đó nhóm xác định mục tiêu cho việc thực hiện nghiên cứu cũng như đưa ra các phương pháp tiến hành nghiên cứu phù hợp và ý nghĩa của việc thực hiện nghiên cứu này. 9 CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU 2.1 Một số khái niệm cơ bản 2.1.1 Khái niệm người dân Người dân là thuật ngữ chỉ về toàn thể những con người sinh sống trong một quốc gia, và tương đương với khái niệm dân tộc. Nhân dân còn có khái niệm rộng hơn và được sử dụng trong chính trị, pháp lý, tư tưởng chính trị. Trong lĩnh vực chính trị pháp lý, nhân dân còn tương đồng với thuật ngữ công dân là những con người mang quốc tịch và được bảo hộ của một nhà nước nơi họ đang sinh sống và thông thường là không bao gồm những người trong bộ máy cai trị. Người dân là một trong những đối tượng nghiên cứu chính của nhiều ngành khoa học. Là một khái niệm khoa học lâu đời, trải qua nhiều thay đổi trong suốt chiều dài lịch sử nhân loại. Người dân còn có khái niệm rộng hơn và được sử dụng trong chính trị, pháp lý, tư tưởng chính trị. Trong lĩnh vực chính trị pháp lý, người dân còn tương đồng với thuật ngữ công dân là những con người mang quốc tịch và được bảo hộ của một nhà nước nơi họ đang sinh sống và thông thường là không bao gồm những người trong bộ máy cai trị. 2.1.2 Khái niệm hành vi Hành vi là hành động và cách cư xử được các cá nhân, sinh vật, hệ thống hoặc thực thể nhân tạo thực hiện kết hợp với chính họ hoặc môi trường của họ, bao gồm các hệ thống hoặc sinh vật khác xung quanh cũng như môi trường vật lý. Đó là phản ứng được tính toán của hệ thống hoặc sinh vật đối với các kích thích hoặc đầu vào khác nhau, cho dù bên trong hay bên ngoài, ý thức hay tiềm thức, công khai hoặc bí mật, và tự nguyện hoặc không tự nguyện. 2.1.3 Khái niệm nhựa một lần Khái niệm nhựa một lần là những sản phẩm được làm bằng nhựa, sản xuất ra với mục đích chỉ dùng 1 lần rồi vứt bỏ. Đó có thể là cốc nhựa, thìa nhựa, nĩa nhựa, hộp xốp,… dùng 1 lần phục vụ quá trình sinh hoạt, sản xuất của con ngư 10 2.2 Cơ sở lý thuyết 2.2.1 Phương pháp tiếp cận hành động duy lí (RAA) Thuyết hành tiếp cận hành động hợp lí (Reasoned Action Approach hoặc RAA) là một mô hình tích hợp được sử dụng để dự đoán (hoặc thay đổi) hành vi xã hội của con người được Icek Ajzen và Martin Fishbein phát triển vào từ giữa thập niên bảy mươi. Mô hình đã được sử dụng trong rất nhiều nghiên cứu về hành vi con người (Fishbein 2008; Ajzen & Albarracin 2007; Gaither, Bagozzi, Ascione, và cộng sự 1996;Ajzen 2002,...). Đây cũng là lý thuyết mới nhất để giải thích hành vi do Ajzen và Fishbein phát triển với lần hiệu chỉnh gần nhất được xuất bản vào năm 2010. Theo thuyết này, hành vi được quyết định bởi ý định và bị ảnh hưởng bởi khả năng kiểm soát thực (kĩ năng/năng lực/môi trường) của chủ thể hành vi. Khả năng kiểm soát thực còn ảnh hưởng gián tiếp đến bản thân ý định và nhận thức kiểm soát hành vi. Ngoài ra, hành vi chịu sự chi phối trực tiếp của ba nhân tố: thái độ đối với hành vi, chuẩn chủ quan, và nhận thức kiểm soát hành vi. Bên cạnh tác động trực tiếp, nhận thức kiểm soát hành vi còn tác động gián tiếp đến ý định. Ba thái độ với hành vi, chuẩn chủ quan và nhận thức kiểm soát hành vi lại lần lượt chịu tác động bởi niềm tin về hành vi, niềm tin về chuẩn mực, và niềm tin về khả năng kiểm soát. Ba nhân tố về niềm tin được tác động bởi những yếu tố nền (bao gồm những yếu tố cá nhân, xã hội, và thông tin). Cuối cùng, hành vi thực hiện sẽ củng cố niềm tin về hành vi và niềm tin về khả năng kiểm soát. Cụ thể hơn, thái độ đối với hành vi (Attitude toward behaviour) là yếu tố thể hiện thái độ tích cực hay tiêu cực, đồng tình, hay phản đối của chủ thể đối với hành động. Thái độ đối với hành vi có thể được đo lường thông qua sức mạnh của niềm tin và đánh giá kết quả của chủ thể đối với một hành hành vi nhất định. Chuẩn chủ quan (Subjective Norms) là nhân tố thể hiện sự ảnh hưởng của những người liên quan đối với ý định hành vi của chủ thể. Những người có khả năng ảnh hưởng đến hành vi có thể là người thân, bạn bè, hay đồng nghiệp. Chuẩn chủ quan là nhận thức của chủ thể về sự tán thành, khuyến khích (hoặc sự phản đối) của những người xung quanh đối với hành vi được nghiên cứu. 11 Nhận thức kiểm soát hành (Perceived Control) là nhận thức của chủ thể đối về khả năng kiểm soát của bản thân đối với hành vi được nghiên cứu. Trong khi đó khả năng kiểm soát thực (Actual control) bao gồm những kĩ năng có liên quan, những rào cản, và các xúc tác đối với việc thực hiện hành vi. Phương pháp tiếp cận hành động duy lí (RAA) là phiên bản mở rộng của lý thuyết hành vi dự định (Theory of Planned Behaviour- TBA) nhằm bao hàm và giải thích cụ thể hơn những nhân tố tác động đến dự định và hành vi. Phương pháp này được sử dụng trong nhiều bối cảnh nghiên cứu và nhiều hành vi khác nhau, như: hành vi liên quan đến sức khỏe, hành vi sống xanh, hành vi tổ chức,... (Ajzen và Fishbein 2010; Bartholomew, Parcel, Kok, Gottlieb, Fernansdez 2011...). 12 Hình 2-1 Mô hình RAA Niềm tin về hành vi Thái độ đối với hành vi các yếu tố :ccá nhân xã hội, thông tin Niềm tin về chuẩn mực Chuẩn chủ quan Niềm tin về khả năng kiểm soát Nhận thức kiểm soát hành vi Ý định Hành vi Khả năng kiểm soát thực tế Nguồn: Ajzen và Fishbein (2010) *Hạn chế của mô hình RAA: Mô hình RAA không xem xét đến các khác biệt về mặt văn hóa của các nhóm đối tượng được khảo sát. Đây là một điểm yếu rất lớn nếu như mô hình được áp dụng trong một xã hội đa văn hóa. Tuy nhiên, trong cuốn sách Predicting and changing behavior: The Reasoned Action Approach (tạm dịch là: Dự đoán và thay đổi hành vi: Phương pháp tiếp cận hành động duy lí) của mình, Ajzen và Fishben cho rằng một nghiên cứu gợi mở với mục đích xác định những niềm tin nền tảng có liên quan sẽ khắc phực được hạn chế này. 2.2.2 Lý thuyết và mô hình niềm tin sức khỏe 2.2.2.1 Mô hình niềm tin sức khỏe Mô hình niềm tin sức khỏe (Health Belief Model- HBM) là một mô hình nghiên cứu sức khỏe được phát triển bởi những nhà tâm lí học xã hội của Dịch vụ Y tế công 13 cộng Hoa Kỳ vào những năm 1950. Cho tới nay, HBM vẫn là một trong những mô hình nghiên cứu sức khỏe được phát triển bởi những nhà tâm lí học xã hội của Dịch vụ Y tế công cộng Hoa Kỳ vào những năm 1950. Cho tới nay, HBM vẫn là một trong những mô hình dự doán các hành vi liên quan đến sức khỏe được sử dụng rộng rãi nhất trong việc dự đoán hành vi liên quan đến sức khỏe. 14 Hình 2-2 Mô hình niềm tin sức khỏe Nhận thức về nguy cơ bị nhiễm bệnh Nhận thức về độ nghiêm trọng Các yếu tố nhân khẩu học và đặc điểm tâm lý Hành động Nhận thức về lợi ích Nhận thức về rào cản Gợi ý hành động Sự tự tin vào năng lực bản thân Nguồn: Conner, M., (2019) Mô hình niềm tin sức khỏe cho rằng niềm tin của cá nhân về những vấn đề liên quan đến sức khỏe, nhận thức về lợi ích và rảo cản, và sự tự tin vào năng lực bản thân giải thích được hành vi liên quan đến sức khỏe của cá nhân. Ngoài ra, gợi ý hành động cần phải tồn tại để xúc tác quá trình thực hiện hành vi. Nhận thức về nguy cơ bị nhiễm bệnh là nhận thức chủ quan của chủ thể về nguy cơ bị mắc phải một vấn đề liên quan đến sức khỏe. Mô hình HBM dự đoán rằng những cá nhân cho rằng mình dễ bị mắc một vấn đề sức khỏe cụ thể sẽ chú ý thực hiện những hành vi nhằm giảm nguy cơ bị nhiễm bệnh. Những cá nhân không cho rằng mình dễ bị mắc bệnh có thể hoàn toàn từ chối chập nhận khả năng mình bị nhiễm bệnh. Hoặc họ có thể nhận thấy rằng mình có thể bị nhiễm bệnh, nhưng cho rằng việc đó khó xảy ra. Những cá nhân thuộc nhóm số hai có xu hướng thực hiện những hành vi có hại hoặc đem lại nhiều rủi ro cho sức khỏe. Trong khi đó nhóm số một lại có xu hướng thực hiện những hành vi nhằm giảm thiểu nguy cơ bị mắc bệnh. (Rosenstock, Irwin, 1974). Nhận thức về độ nghiêm trọng là nhận thức chủ quan của chủ thể về tầm nghiêm trọng của một vấn đề sức khỏe và những hậu quả mà vấn đề sức khỏe đó có thể gây ra.Nhận thức về mức độ nghiêm trọng có thể bao gồm những yếu tố liên quan trực tiếp đến bệnh (nguy cơ tử vong, gây dị tật, hay đau đớn) hay những 15 ảnh hưởng của dịch bệnh đế công việc hay vai trò xã hội. ((Bish và Michie (2010); Janz, N. K., & Becker, M. H,(1984); Rosenstock, I. M. (1974)). Nhận thức về lợi ích trong mô hình sức khỏe bàn về những đánh giá của cá nhân về giá trị mà việc tham gia một hoạt động tăng cường sức khỏe có thể đem lại. Nếu một người tin rằng một hoạt động cụ thể sẽ làm giảm nguy cơ bị mắc phải một căn bệnh hay làm giảm mức độ nghiêm trọng của bệnh, người đó sẽ sẵn sàng thực hiện hành động đó hơn mà không quan tâm đến hiệu quả khách quan của hành dộng đó. Ví dụ, một người tin rằng việc sử dụng kem chống nắng sẽ giúp chống ung thư da sẽ có xu hướng sử dụng kem chống nắng nhiều hơn những người tin rằng kem chống nắng không giúp phòng chống ung thư da. ((Janz, N. K., & Becker, M. H., (1984); Rosenstock, I. M. (1974)). Nhận thức về rào cản liên quan đến những đánh giá mang tính cá nhân về những trở ngại trong việc thay đổi hành vi. Thẩm chí khi cá nhân cho rằng một hành vi có thể giảm thiểu được nguy cơ bị nhiễm bệnh và tin rằng hành động đó là có hiệu quả, những rào cản mà cá nhân cảm nhận được vẫn có thể ngăn họ thực hiện hành vi này. Nói cách khác, nhận thức về lợi ích phải lớn hơn nhận thức về rào cản để việc thay đổi hành vi có thể được diễn ra. Những rào cản thường gặp bao gồm sự phiền toái, chi phí, nguy hiểm (ví dụ như tác dụng phụ của thuốc), sự khó chịu (như đau đớn; khó chịu về mặt tinh thần. ((Janz, N. K., & Becker, M. H., (1984); Rosenstock, I. M. (1974)). Sự tự tin vào năng lực bản thân được bổ sung vào bốn nhân tố ban đầu của mô hình niềm tin sức khỏe vào năm 1988. Nhân tố này liên quan đến nhận thức của cá nhân về năng khả năng thực hiện thành công một hành vi nhất định của bản thân. Gợi ý hành động được cho là cần thiết trong việc kích thích chủ thể tham gia vào những hành vi có lợi cho sức khỏe. Những gợi ý hành động này có thể đeến từ bên ngoài hoặc bên trong chủ thể. Những gợi ý về mặt sinh lí (như cảm giác đau hay những triệu chứng) thuộc nhóm những gợi ý đến từ bên trong. Những gợi ý từ bên ngoài có thể bao gồm những sự kiện hoặc thông tin từ người thân, thông tin trên truyền thông đại chúng, hoặc khuyến cáo của chuyên gia y tế. ((Janz, Nancy K.; Marshall H. Becker (1984); Rosenstock, Irwin (1974); Carpenter, Christopher J. (2010)) 16 *Hạn chế của mô hình niềm tin sức khỏe Tuy là một mô hình dự đoán hành vi sức khỏe từ những yếu tố từ cá nhân như niềm tin và thái độ, mô hình HBM không hề xét đến ảnh hưởng của những yếu tố khác. Những hành vi sức khỏe xuất phát từ thói quen (như hút thuốc, uống rượu, hay đeo khẩu trang) có thể hoàn toàn không phụ thuộc vào quá trình ra quyết định có ý thức. Bên cạnh đó, chủ thể có thể quyết định tham gia một hoạt động có lợi cho sức khỏe vì lí do không liên quan đến sức khỏe (ví dụ như tập thể dục vì lí do vóc dáng). Ngoài ra, các yếu tố môi trường nằm ngoài kiểm soát của cá nhân cung có thể ngăn cản việc cá nhân tham gia thực hiện một hành vi mong muốn. Một điểm yếu nữa của mô hình là việc bỏ qua ảnh hưởng của yếu tố cảm xúc đến hành vi sức khỏe. 2.3 Các nghiên cứu có liên quan 2.3.1 Đề tài: “CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HÀNH VI TIÊU DÙNG XANH CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG TẠI THÀNH PHỐ HUẾ” Đề tài nghiên cứu các yếu tố tác động đến hành vi tiêu dùng xanh của người tiêu dùng tại thành phố Huế. Nghiên cứu này đã giúp tác giả xác định được mối liên hệ tương quan của yếu tố nhận thức kiểm soát hành vi trong hành vi tiêu dùng. Nghiên cứu đề xuất mô hình tổng hợp các yếu tố tác động đến hành vi tiêu dùng xanh của cá nhân, cụ thể sau: Hình 2-3 Mô hình các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi tiêu dùng xanh của người tiêu dùng tại thành phố Huế 17 Nguồn :Đề tài nghiên cứu các yếu tố tác động đến hành vi tiêu dùng xanh của người tiêu dùng tại thành phố Huế. 2.3.2 Đề tài: “Hành vi tuân thủ hướng dẫn phòng tránh lây nhiễm dịch bệnh của người dân Việt Nam: Nghiên cứu trường hợp dịch covid-19”. Nghiên cứu này xem xét những yếu tố ảnh hưởng xuất hiện trong các nghiên cứu trước đó về hành vi và hành vi tuân thủ của người dân trong bối các đại dịch diễn ra Covid-19. Nghiên cứu này đã giúp tác giả xác định được mối liên hệ tương quan của nhiều yếu tố nhận thức kiểm soát hành vi, nhận thức về nguy cơ bị nhiễm bệnh, nhận thức về độ nghiêm trọng… Hình 2-4 Mô hình hành vi tuân thủ hướng dẫn phòng tránh lây nhiễm trong mùa dịch 18 Nguồn:Nghiên cứu hành vi tuân thủ hướng dẫn phòng tránh lây nhiễm dịch bệnh của người dân Việt Nam: Nghiên cứu trường hợp dịch covid-19”. 2.4 Mô hình đề xuất Dựa trên thuyết RAA kết hợp mô hình niềm tin sức khỏe, tác giả xin được đề xuất mô hình nghiên cứu như sau: Hình 2-5 Mô hình đề xuất hành vi sử dụng đồ nhựa một lần Nhận thức về nguy cơ bị nhiễm bệnh khi sử dụng đồ nhựa một lần (H1) Nhận thức kiểm soát hành vi (H2) Hành vi sử dụng đồ nhựa một lần Nhận thức về lợi ích (H3) Nhận thức về độ nghiêm trọng của đồ nhựa sử dụng một lần (H4) 19 Nguồn: Đề xuất của tác giả 2.4.1 Nhận thức về nguy cơ bị nhiễm bệnh khi sử dụng đồ nhựa một lần (H1) Nhận thức về nguy cơ mắc bệnh là những đánh giá mang tính chủ quan của cá nhân về khả năng bị mắc phải một bệnh cụ thể, nhất định. Theo Nguyễn Hồng Quang,những loại đánh đánh giá được xếp vào nhận thức về nguy cơ nhiễm bệnh bao gồm: lo lắng, quan ngại về việc bị nhiễm bệnh; ước đoán về rủi ro, khả năng hay nguy cơ bị mắc bệnh. Nhận thức về nguy cơ bị mắc bệnh là một nhân tố được tác giả lựa chọn đưa vào từ mô hình HBM. Nhân tố nhận thức về nguy cơ nhiễm bệnh bao gồm: (1)Anh/chị sẽ ngừng sử dụng đồ nhựa một lần có nguy cơ mắc các loại bệnh có hại cho sức khoẻ; (2)Anh/chị sẽ hạn chế sử dụng đồ nhựa một lần hơn nếu biết gần khu vực anh/chị sống (hay đâu đó) có người đã mắc bệnh do sử dụng đồ nhựa một lần; (3)Anh/chị sẽ hạn chế sử dụng đồ nhựa một lần khi đọc được bài nghiên cứu về tác hại đến sức khoẻ của đồ nhựa sử dụng một lần;(4)Việc phải sống gần khu vực bị ô nhiễm bởi nhựa một lần khiến anh/chị sẽ hạn chế sử dụng nó;(5)Anh/chị sẽ hạn chế sử dụng đồ nhựa một lần nếu biết nó gây ung thư da qua một số loại vải co ni lông. Giả thuyết H1:”Nhận thức nguy cơ nhiễm bệnh” có quan hệ cùng chiều với hành vi. 2.4.2Nhận thức kiểm soát hành vi (H2) Nhận thức kiểm soát hành vi là nhân tố đo lường nhận thức của cá nhân về khả năng thực hiện được hành vi tuân thủ hướng dẫn phòng tránh lây nhiễm trong dịch bệnh. Vận dụng các thuyết về hành vi của Ajzen và Fishbein, tác giả bao gồm nhân tố nhận thức kiểm soát hành vi (KHV) vào mô hình nghiên cứu. Nhân tố này được tác giả cho rằng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hành vi tuân thủ của người đân. Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Hồng Quang về hành vi tuân thủ hướng dẫn phòng tránh lây nhiễm dịch bệnh tìm thấy liên hệ giữa nhận thức kiểm soát hành vi cao và hành vi tuân thủ. Nhân tố kiểm soát hành vi trong nghiên cứu bao gồm: (3)Công việc của anh/chị không ảnh hưởng đến việc sử dụng đồ nhựa một lần;(4)Anh/chị tin rằng mình có thể 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan