Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghệ thuật tự sự trong truyện thiếu nhi của tô hoài...

Tài liệu Nghệ thuật tự sự trong truyện thiếu nhi của tô hoài

.PDF
113
91
129

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------- TẠ MINH THỦY NGHỆ THUẬT TỰ SỰ TRONG TRUYỆN THIẾU NHI CỦA TÔ HOÀI LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Lý luận văn học Hà Nội - 2016 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------- TẠ MINH THỦY NGHỆ THUẬT TỰ SỰ TRONG TRUYỆN THIẾU NHI CỦA TÔ HOÀI Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Lý luận văn học Mã số:60 22 01 20 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS Lý Hoài Thu Hà Nội – 2016 MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN ......................................................................................................3 PHẦN MỞ ĐẦU ..................................................................................................2 CHƢƠNG 1:KHÁI QUÁT VỀ NGHỆ THUẬT TỰ SỰ VÀ SÁNG TÁC CỦA TÔ HOÀI TRONG BỨC TRANH VĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM ................................................................................................................... 11 1.1.Nghệ thuật tự sự ......................................................................................... 11 1.1.1. Khái niệm ........................................................................................... 11 1.1.2 Quá trình hình thành phát triển của tự sự học.................................... 11 1.1.3. Những đóng góp của tự sự học trong nghiên cứu văn học ............... 15 1.2. Khái quát về văn học thiếu nhi Việt Nam ................................................ 16 1.2.1 Khái niệm văn học thiếu nhi .............................................................. 16 1.2.2 Sự phát triển của văn học thiếu nhi Việt Nam.................................... 17 1.2.3 Đặc điểm văn học thiếu nhi Việt Nam ............................................... 21 1.3 Hành trình sáng tác của Tô Hoài .............................................................. 23 1.3.1 Sơ lược tiểu sử .................................................................................... 23 1.3.2 Hành trình sáng tác ............................................................................. 24 1.3.3. Truyện thiếu nhi của nhà văn Tô Hoài .............................................. 28 CHƢƠNG 2 NGHỆ THUẬT TỔ CHỨC CỐT TRUYỆN VÀ XÂY DỰNG NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN THIẾU NHI CỦA TÔ HOÀI ................... 34 2.1 Nghệ thuật tổ chức cốt truyện ................................................................... 34 2.1.1 Khái niệm cốt truyện .............................Error! Bookmark not defined. 2.1.2 Nghệ thuật tổ chức cốt truyện trong truyện thiếu nhi Tô Hoài .... Error! Bookmark not defined. 2.2 Nghệ thuật xây dựng nhân vật .................................................................. 46 2.2.1 Khái niệm về nhân vật ........................................................................ 46 2.2.2 Các loại hình nhân vật trong truyện thiếu nhi của Tô Hoài ............... 48 2.2.3 Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện thiếu nhi Tô Hoài ......... 57 CHƢƠNG 3: NGƢỜI KỂ CHUYỆN VÀ NGÔN NGỮ TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN THIẾU NHI CỦA TÔ HOÀI ......................................... 71 3.1 Người kể chuyện trong truyện thiếu nhi của Tô Hoài .............................. 72 3.1.1 Ngôi kể ............................................................................................... 73 3.1.2 Điểm nhìn trần thuật ........................................................................... 78 3.1.3 Giọng điệu trần thuật .......................................................................... 83 3.2 Ngôn ngữ trần thuật .................................................................................. 88 3.2.1 Ngôn ngữ giàu tính tạo hình ............................................................... 90 3.2.2 Ngôn ngữ địa phương và lứa tuổi....................................................... 93 3.2.3 Sáng tạo phép so sánh tu từ đặc sắc ................................................... 93 KẾT LUẬN ....................................................................................................... 99 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 100 LỜI CẢM ƠN Trong thời gian học tập và thực hiện luận văn Cao học, tôi đã nhận được rất nhiều sự chỉ dẫn nhiệt tình của các thầy - cô giáo khoa Văn học, trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội). Tôi vô cùng quý trọng, biết ơn sự chỉ bảo đó và xin được chân thành gửi lời tri ân đến toàn thể các thầy cô giáo. Đặc biệt, tôi xin ngỏ lời cám ơn sâu sắc nhất đến PGS. TS Lý Hoài Thu, cô đã nhiệt tình hướng dẫn, chỉ dạy, giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn. Và hơn hết, trong quá trình làm việc, tôi đã học tập ở cô một tinh thần nghiên cứu khoa học nghiêm túc, cẩn thận, tỉ mỉ và một thái độ làm việc hết mình. Xin được gửi đến cô sự biết ơn và lòng kính trọng chân thành nhất. Cảm ơn gia đình và những người thân yêu đã luôn tin tưởng, động viên và ủng hộ. Cảm ơn bạn bè và đồng nghiệp những người luôn sẵn sàng giúp đỡ tôi hoàn thành tốt luận văn của mình. Hà Nội, tháng 10 năm 2016 Tạ Minh Thủy PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1 Tự sự học là ngành nghiên cứu còn non trẻ, định hình từ những năm 1960 - 1970 ở Pháp nhưng đã nhanh chóng trở thành một trong những lĩnh vực học thuật được quan tâm phổ biến ở nhiều nơi trên thế giới. Ở Việt Nam, các công trình về tự sự học đã xuất hiện, tuy nhiên vẫn còn rất nhiều vấn đề cần được tiếp tục khai thác. Tự sự học vốn là một nhánh của thi pháp học hiện đại, hiểu theo nghĩa rộng là nghiên cứu cấu trúc của văn bản tự sự và các vấn đề liên quan hay nói cách khác là nghiên cứu đặc điểm nghệ thuật trần thuật của văn bản tự sự. Vì thế, tiếp cận truyện ngắn trên từ phương diện nghệ thuật tự sự là hướng tiếp cận từ góc độ thi pháp. 1.2 Với bất kì ai, tuổi thơ luôn là quãng thời gian đáng nhớ, quãng thời gian đẹp và gắn bó với nhiều cảm xúc, suy nghĩ hồn nhiên sống động. Những lời hát ru, những câu chuyện cổ tích thời thơ ấu sẽ theo chúng ta suốt cả cuộc đời, trở thành những kỉ niệm khó quên của tuổi thiếu niên. Khi lớn lên, chúng ta được học chữ rồi biết đọc, ta lại tiếp tục tìm đến với những câu chuyện phù hợp với sở thích và ta lại được thỏa mãn với trí tưởng tượng phong phú của mình. Văn học thiếu nhi, vì vậy đã trở thành một bộ phận không thể thiếu với bất kỳ nền văn học của mỗi thời kỳ. Nhìn lại mảng văn học viết cho thiếu nhi nói chung và truyện ngắn thiếu nhi nói riêng ở Việt Nam, có thể thấy những tác phẩm dành cho các em nhỏ mới chỉ thực sự xuất hiện vào những năm 40 của thế kỷ XX, với những tên tuổi như Tô Hoài, Võ Quảng, Kim Lân, Nguyễn Huy Tưởng, Vũ Cao, Nguyễn Đình Thi..... Dấu hiệu đáng mừng là nhiều tác phẩm đã thể hiện cái nhìn mới mẻ trong sáng tác văn học dành cho thiếu nhi, lứa tuổi đang cần đến sự chăm sóc, nuôi dưỡng về mặt tình cảm, trí tuệ và tinh thần. Văn học được coi là cái nôi phát triển nhân cách sâu sắc, hiệu quả qua từng lời văn nghệ thuật. Đối với bất kì ai, tuổi thơ đi qua đều tìm thấy trong lời thơ câu văn những bài học đầu đời. Kí ức đẹp về tuổi thơ bao giờ cũng là khoảng thời gian quý giá, không thể phai mờ. Cho nên, những tác phẩm văn học nói chung và những truyện ngắn nói riêng có giá trị gắn bó với các em từ thủơ nhỏ sẽ là những 2 bài học bổ ích quý giá, giúp các em tăng thêm sức mạnh tiến bước trong cuộc hành trình dài phía trước. 1.3 Nhà văn Tô Hoài đã có nhiều tác phẩm dành cho thiếu nhi. Sáng tác của ông đa dạng, từ những câu chuyện nhỏ hàng ngày, câu chuyện về loài vật, đến những cốt truyện khai thác từ truyện dân gian cổ tích, truyền thuyết... Tác giả dành phần không nhỏ sự nghiệp cầm bút để viết nên những tác phẩm hay tặng cho lứa tuổi thiếu nhi. Thông qua hình tượng nhân vật, Tô Hoài đã giúp các em thiếu nhi có nền tảng tốt đẹp để cảm nhận và thẩm thấu điều hay lẽ phải ở đời. Chọn đề tài Nghệ thuật tự sự trong truyện thiếu nhi của Tô Hoài, với hơn 180 truyện thiếu nhi, chúng tôi hy vọng sẽ tìm hiểu kỹ một mảng sáng tác, một lối tự sự trong văn học Việt Nam hiện đại, từ đó giải mã được phần nào nghệ thuật tự sự truyện thiếu nhi của Tô Hoài và góp thêm một phần cảm nhận của cá nhân về tác phẩm cũng như con người nhà văn cùng những đóng góp của ông đối với diện mạo nền văn học Việt Nam hiện đại. 2. Mục đích, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 2.1 Mục đích nghiên cứu Luận văn tìm hiểu Nghệ thuật tự sự trong truyện thiếu nhi củaTô Hoài nhằm rút ra phong cách tự sự độc đáo của ông so với các nhà văn khác cũng viết truyện thiếu nhi, đồng thời cố gắng tìm cách tiếp cận mới, khai thác những bình diện mới trong nghệ thuật tự sự truyện thiếu nhi Tô Hoài. 2.2 Đối tượng nghiên cứu Luận văn đi sâu nghiên cứu nghệ thuật tự sự trong truyện thiếu nhi Tô Hoài trên các khía cạnh: Cốt truyện, nhân vật, ngƣời kể chuyện, giọng điệu trần thuật và ngôn ngữ. 2.3 Phạm vi nghiên cứu Tô Hoài sáng tác nhiều thể loại, với nhiều đề tài phong phú: từ thế giới loài vật (dưới nước, trên trời, trên cạn...) cho đến con người, từ đồng bằng cho đến miền núi, từ giáo dục đạo đức cho đến xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa.... Với 180 tác phẩm viết cho thiếu nhi, có thể nói, cho đến nay chưa có nhà văn nào viết 2 về thiếu nhi, cho thiếu nhi có khối lượng tác phẩm nhiều như Tô Hoài. Tuy nhiên, với mục đích và khuôn khổ của đề tài, luận văn tập trung chủ yếu vào khảo sát những sáng tác của Tô Hoài trong Tuyển tập văn học thiếu nhi - tập 1 – 2, do nhà xuất bản Văn học xuất bản năm 1995 – 1997. 3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 3.1 Tình hình nghiên cứu về tác giả Tô Hoài Trong cuộc đời mình, Tô Hoài đã có hơn bảy mươi năm cầm bút, dấn thân vào nghiệp văn chương. Kết quả là ông gặt hái được một khối lượng đồ sộ về tác phẩm và khẳng định chỗ đứng vững chắc trong làng văn chương Việt Nam. Việc nghiên cứu về Tô Hoài đã được bắt đầu từ trước năm 1945 và đến nay vẫn còn tiếp tục. Trước năm 1945, những truyện ngắn về đề tài nông thôn, dân quê và thiếu nhi của Tô Hoài đã được bạn đọc đón nhận và bước đầu ghi dấu ấn riêng của ông. Vũ Ngọc Phan đã xếp Tô Hoài vào nhóm “các tác giả tả chân” và đánh giá Tô Hoài là “nhà văn có biệt tài viết về những cảnh nghèo nàn của dân quê” [59, tr. 21]. Sau năm 1945, Tô Hoài viết nhiều hơn, dày hơn ở nhiều thể loại, nhiều mảng đề tài khác nhau nhưng tiêu biểu hơn cả là đề tài viết về miền núi và Hà Nội. Thời điểm này Tô Hoài đã nhận được nhiều lời khen về khả năng bao quát đời sống hiện thực, sự khắc họa công phu đời sống và thiên nhiên miền núi. Tuy vậy, cũng có những đánh giá không đồng tình về tư tưởng và quan điểm nghệ thuật của ông ở một số tiểu thuyết. Nhiều tác phẩm vẫn được người đọc đón nhận nhưng lại ít có bài bình luận. Sau năm 1975, cùng với các bài phê bình, giới thiệu tác phẩm, các công trình nghiên cứu về Tô Hoài trở nên sôi nổi và có nhiều kết quả. Tiêu biểu phải kể đến các tiểu luận của những nhà nghiên cứu: Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức, Vân Thanh....... Tác giả Phan Cự Đệ đã nhận xét: “Tô Hoài không chìm đắm trong thiên nhiên, không tìm ở thiên nhiên một lối thoát, một niềm an ủi nhƣ các nhà lãng mạn tiêu cực, nhƣng bao giờ anh cũng chắt chiu, trân trọng những vẻ đẹp và chất thơ 3 của đời sống” [59, tr. 87]. Nhà nghiên cứu Hà Minh Đức thì cho rằng: “Tác phẩm của Tô Hoài luôn khai thác ở mạch chìm sâu của cuộc đời nơi bóng tối đang còn đè nặng” [59, tr. 119] và “Tô Hoài, một cây bút văn xuôi sắc sảo và đa dạng” [59, tr. 131]. Vương Trí Nhàn cũng là tác giả của những bài viết sâu sắc và hấp dẫn về Tô Hoài. Ông đã không quá lời khi nhận xét: “Tô Hoài viết là say và viết là tỉnh. Viết để ghi lại những gì đã sống, viết lại chính mình là sự sống nữa” [59, tr. 195]. Chính thực tế cuộc đời cầm bút cần mẫn và chuyên nghiệp của Tô Hoài đã là minh chứng chắc chắn cho sự sống, sức lao động mãnh liệt, dẻo dai, bền bỉ của ông. Để có cái nhìn đầy đủ hơn về nhà văn, ta không thể không tìm hiểu đến cuốn Tô Hoài về tác gia tác phẩm. Đây thực sự là cuốn sách tổng hợp tương đối đầy đủ và toàn diện các bài nghiên cứu về Tô Hoài từ trước đến nay. Điều này cho thấy vị trí của Tô Hoài trong nền văn học nước nhà: một tác giả lớn của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam. Ngoài ra, trong quá trình tìm hiểu về tác giả Tô Hoài chúng tôi còn thấy có rất nhiều bài nghiên cứu khoa học, khóa luận, luận văn và luận án có đi sâu vào tìm tòi, phát hiện những sáng tạo độc đáo của Tô Hoài từ trước đến nay. Ví dụ như: luận án tiến sĩ ngữ văn của Mai Thị Nhung (Phong cách nghệ thuật Tô Hoài), luận văn thạc sĩ văn học của Phạm Thị Thanh Thủy (Đặc điểm nghệ thuật truyện ngắn Tô Hoài trƣớc cách mạng), luận văn thạc sĩ văn học của Trần Thị Thu Hà (Hồi kí về Hà Nội của Tô Hoài), luận văn thạc sĩ văn học của Mai Thị Nga (Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Tô Hoài)..... Như vậy, có thể khẳng định Tô Hoài là một hiện tượng văn học được nghiên cứu nhiều. Các nhà nghiên cứu về Tô Hoài và tác phẩm của ông đều hướng đến đánh giá cao bút lực dồi dào, độc đáo và giá trị đích thực của văn chương ông. 3.2 Tình hình nghiên cứu về truyện thiếu nhi của Tô Hoài Tô Hoài được biết đến là một nhà văn của thiếu nhi. Những tác phẩm của Tô Hoài viết về thiếu nhi, viết cho thiếu nhi không chỉ là niềm yêu thích của các em nhỏ, mà ngay cả những người lớn là các bậc phụ huynh cũng rất thích thú. Các em đọc tác phẩm của Tô Hoài để hiểu thêm về điều hay lẽ phải ở đời, về những giá trị của cuộc sống. Còn những người lớn tuổi đọc truyện là để nhớ lại thời thơ ấu của 4 chính mình, để từ đó có cơ sở hiểu biết và có thêm giải pháp giáo dục con em mình. Sáng tác của Tô Hoài đã được nhiều thế hệ bạn đọc biết đến, đặc biệt là về hệ thống nhân vật của ông. Đã có nhiều nhà nghiên cứu, phê bình văn học quan tâm đến những sáng tác truyện thiếu nhi của Tô Hoài. Chúng tôi xin được tổng hợp lại những bài phê bình, nghiên cứu về sáng tác truyện thiếu nhi của Tô Hoài từ trước đến nay với các nhà nghiên cứu, phê bình như: Hoàng Trung Thông, Vũ Ngọc Phan, Vân Thanh, Hoàng Anh, Phan Cự Đệ, Trần Hữu Tá, Đỗ Bạch Mai, Hà Minh Đức, Vũ Quần Phương.... Đây đều là những nhà nghiên cứu có những bài viết đánh giá sâu sắc cả mặt tích cực lẫn hạn chế truyện thiếu nhi của Tô Hoài. Dưới đây là một số các công trình tiêu biểu của họ: Trong công trình nghiên cứu về các Nhà văn Việt Nam hiện đại, quyển IV, nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan đã có những nhận xét về tài năng văn chương của Tô Hoài. Đặc biệt ông đánh giá rất cao về thể loại truyện ngắn viết cho thiếu nhi của Tô Hoài. Vũ Ngọc Phan nhận thấy Tô Hoài là một nhà văn trẻ, có sức viết khỏe và hay: “Truyện thiếu nhi của Tô Hoài không những đặc biệt về lời văn, về cách quan sát, về lối kết cấu, mà còn đặc biệt cả về những đầu đề do ông lựa chọn nữa” [59, tr. 59]. Cũng đánh giá về tài năng của nhà văn Tô Hoài, Trần Đình Nam trên Tạp chí văn học số 9 (1995) đã khẳng định tài năng văn xuôi của Tô Hoài là một khả năng trời phú: “Ông là một nhà văn xuôi bẩm sinh. Chỉ có một nhà văn xuôi bẩm sinh mới viết đƣợc cuốn Dế Mèn phiêu lƣu kí ở độ tuổi hai mƣơi. Cuộc dấn thân của Dế Mèn vì hòa bình, công lí đã làm xúc động hàng triệu trái tim mọi lứa tuổi, dân tộc, xứ sở” [59, tr. 167]. Hoàng Trung Thông trên báo Văn nghệ số 5 (1987) với bài viết Nhà văn trên dòng sông Tô Lịch, đánh giá rất cao về tài năng viết truyện thiếu nhi của Tô Hoài: “Tô Hoài là ngƣời “khôn ngoan, nghịch ngợm, láu lỉnh”, nhƣ ngƣời ta thƣờng nói về dân ngoại ô. Anh rất yêu, rất hiểu và chịu khó viết văn cho các em, nếu tính từ quyển đầu đến quyển cuối thì anh đã viết 45 quyển sách cho các em đọc. Vì thế, những tác phẩm của anh đã đƣợc lứa tuổi thiếu nhi yêu thích. Vừ A Dính, Kim Đồng, Đảo Hoang, Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ, nhất là Dế Mèn phiêu lƣu ký, đó là những tác phẩm đánh dấu quan trọng cho văn học phục vụ thiếu nhi. Dầu chúng ta 5 có thể chê trách mặt này hay mặt khác, nhƣng những tác phẩm ấy của Tô Hoài khi viết về truyền thống yêu nƣớc của thiếu nhi, hay về đồng thoại, đã đƣa lại cho các em hứng thú và đƣa lại cho văn học phục vụ các em những điều mà sau này các nhà văn khác sẽ tiếp tục” [59, tr. 111]. Vân Thanh trên báo Thời mới số ra ngày 28/5/1964 có viết về tác phẩm Hai ông cháu và đàn trâu của Tô Hoài: “Cốt truyện “Hai ông cháu và đàn trâu” khá đơn giản. Trọng tâm của tác giả là miêu tả những suy nghĩ, hành động của hai ông cháu, nhƣng qua đó chúng ta thấy đƣợc tình yêu quê hƣơng, lòng quyết tâm xây dựng nông thôn đổi mới của bà con nông dân” [59, tr. 471]. Cũng với tác phẩm này, khi Vân Thanh đánh giá cao ý nghĩa của truyện ngắn này về những tư tưởng phù hợp với thời đại mà tác giả đã nêu thì Hoàng Anh cũng trên tờ báo Thời mới số ra ngày 17/9/1964 lại nhận thấy ở tác phẩm Hai ông cháu và đàn trâu của Tô Hoài còn có “một đặc điểm nổi bật nữa là Tô Hoài đã ít nhiều nắm đƣợc đặc điểm lứa tuổi thiếu nhi. Thông qua những tấm gƣơng chiến đấu dũng cảm, tác giả giáo dục các em lớn tuổi về lí tƣởng cộng sản chủ nghĩa. Thông qua những câu chuyện xinh xắn, dí dỏm, tác giả giáo dục các em nhỏ những vấn đề lớn của xã hội” [59, tr. 475]. Cũng tìm hiểu về truyện viết cho thiếu nhi, Vân Thanh trong cuốn Truyện viết cho các em nhỏ dƣới chế độ mới cũng đã đánh giá truyện thiếu nhi của Tô Hoài: “Tô Hoài là một trong số ít nhà văn viết đều tay nhất cho thiếu nhi. Ông viết nhiều thể loại truyện, về nhiều đề tài, nhiều lứa tuổi. Và điều quan trọng: có nhiều tác phẩm hay, đƣợc các em ƣa thích. Làm đọng lại trong tâm trí và tình cảm các em ấn tƣợng sâu (....), với lứa tuổi nhỏ, tác giả lại sử dụng những mẩu chuyện, với lời văn dí dỏm, với ngôn ngữ đối thoại sinh động, với sự việc cụ thể, và nhất là với hình ảnh những con vật quen thuộc để khiêu gợi ở các em những suy nghĩ đơn giản nhƣng thấm thía về vẻ đẹp của chế độ, về những vấn đề đặt ra trong sinh hoạt hằng ngày của các em” [75, tr. 138, 140]. Như vậy, phải là một người thực sự hiểu được tâm lí tuổi thơ, ngôn ngữ và những suy nghĩ của tuổi thơ thì nhà văn Tô Hoài mới mang lại niềm thích thú cho các em nhỏ qua những tác phẩm của mình. Như đánh giá của Vân Thanh: “Nhìn chung trong truyện ngắn viết cho thiếu nhi, Tô Hoài đã nắm bắt đƣợc đặc điểm tâm lí của thiếu nhi ở các lứa tuổi khác nhau. Với lứa tuổi trƣởng thành (....). Tô Hoài đã khiêu gợi đúng lòng mong ƣớc có một cuộc sống 6 anh hùng ở các em. Còn các em nhỏ, do chƣa có khả năng nhìn nhận (...), nhà văn đã thông qua những chi tiết cụ thể, dễ hiểu để giáo dục các em” [75, tr. 141 - 142]. Nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ trong Kỷ yếu 20 năm nhà xuất bản Kim Đồng (1977), có nhận định về những tác phẩm dành cho thiếu nhi của Tô Hoài, đó là việc nhà văn “Tô Hoài đã khai thác những đặc điểm của thần thoại, truyền thuyết và cổ tích (...), đã khơi dậy trí tƣởng tƣợng và niềm khát khao muốn hiểu biết, khám phá đến mênh mông, vô tận của các em” [59, tr. 494]. Trần Hữu Tá trong cuốn Văn học Việt Nam 1945 - 1975, tập 2 (Nxb Giáo dục 1990) có nhận xét đánh giá truyện ngắn thiếu nhi của Tô Hoài nhất là đối với truyện Dế Mèn phiêu lƣu kí: “Dế Mèn phiêu lƣu kí là một thành công xuất sắc của Tô Hoài, khẳng định tiếng nói đặc sắc cũng nhƣ vị trí văn học độc đáo của ông trong văn học đƣơng thời cũng nhƣ trong lịch sử văn học lâu dài sau này. Mỗi đối tƣợng độc giả - ngƣời lớn và trẻ nhỏ đều có thể tìm thấy ở “Dế Mèn phiêu lƣu kí” những thích thú riêng. Tuổi thơ bị lôi cuốn bởi cốt truyện lí thú lạ lùng, giàu kịch tính, pha trộn cả hiện thực và huyền thoại, bởi thế giới loài vật nhỏ bé gần gũi; chàng Dế Mèn hùng dũng, đƣờng hoàng đáng yêu; anh Dế Trũi cần cù, chung thủy; bác Xiến Tóc trầm lặng chán đời (....), quen thuộc đấy mà sao vẫn làm ta ngỡ ngàng” [59, tr. 148]. Ngoài ra, Trần Hữu Tá còn đặc biệt đánh giá cao những truyện ngắn viết cho thiếu nhi của Tô Hoài: “ở những truyện thiếu nhi thành công nhất, ông đã kích thích trí tƣởng tƣợng, lòng ham muốn vƣơn tới cái đẹp, cái thiện cho trẻ nhỏ, bồi dƣỡng cho các em lòng yêu văn chƣơng, học đƣợc cách miêu tả, kể chuyện tự nhiên, duyên dáng và một vốn ngôn ngữ phong phú” [59, tr. 157]. Như vậy, để trở thành nhà văn quen thuộc của các em, nghĩa là ngòi bút nhà văn: “Tô Hoài có khả năng quan sát tinh tế và nghệ thuật miêu tả linh động. Ngƣời, vật, thiên nhiên, cảnh sinh hoạt....tất cả đều hiện lên lung linh, sống động, nổi rõ cái thần của đối tƣợng và thƣờng bàng bạc một chất thơ” [59, tr. 158]. Tác giả Hà Minh Đức trong Tuyển tập Tô Hoài, tập I (Nxb Văn học, 1987) lại đặc biệt đánh giá rất cao về các giá trị, trách nhiệm của người cầm bút khi sáng tác cho các em: “Tô Hoài luôn luôn có ý thức chọn lọc một hình thức biểu hiện thích hợp với đối tƣợng phản ánh. Ngay các truyện viết cho các em, ông cũng thể hiện trách nhiệm đó” [59, tr. 139]. Ngoài ra, ông còn bộc lộ niềm mến phục đối với 7 nhà văn có nhiều đóng góp cho văn học thiếu nhi nước nhà: “Ông cũng là một nhà văn lớn của thiếu nhi. Ông đến với các em với tâm hồn ngƣời nghệ sĩ. Ông đem đến cho các em một niềm vui, một bài học nhỏ, một lời căn dặn. Với các em lúc nào ngòi bút của ông cũng đầm ấm, tƣơi trẻ. Thời gian không mệt mỏi, không hằn vết trên trang viết cho các em. Có biết bao nhiêu câu chuyện bổ ích và tƣơi đẹp trong cuộc đời sẽ còn giành cho tuổi thơ, ông còn là ngƣời kể chuyện hứng thú và sáng tạo” [59, tr. 142]. Bên cạnh việc chỉ ra những mặt tích cực của Tô Hoài khi viết những truyện thiếu nhi, các nhà nghiên cứu, phê bình cũng chỉ ra các mặt hạn chế về mảng truyện ngắn viết cho thiếu nhi của Tô Hoài như sau: Trong cuốn Tác giả văn xuôi Việt Nam hiện đại, Vân Thanh có viết: “Bút pháp Tô Hoài linh hoạt. Anh có tài dẫn chuyện và chuyển cảnh. Đọc tác phẩm của anh, ta có cái thú của một ngƣời xem phim, đƣợc thấy chuyện bất ngờ. Ngôn ngữ của Tô Hoài thƣờng ngắn gọn và rất gần với khẩu ngữ của nhân dân lao động, với những ƣu điểm và nhƣợc điểm của khẩu ngữ, phong phú giàu hình tƣợng, nhƣng cũng nhiều lúc không được trong sáng” [59, tr. 77]. Theo nhận xét của Vân Thanh thì bên cạnh thành công khi viết truyện thiếu nhi, Tô Hoài là nhà văn ít nhiều có rơi vào chủ nghĩa tự nhiên của ngôn ngữ. Những tác phẩm của ông, yếu tố khẩu ngữ chiếm rất nhiều. Có lẽ đây vừa là thế mạnh nhưng đồng thời lại cũng là hạn chế của Tô Hoài khi viết truyện ngắn thiếu nhi. Đó là trường hợp trong tác phẩm Hai ông cháu và đàn trâu, Vân Thanh đã thẳng thắn chỉ ra mặt hạn chế của tác giả: “Đáng tiếc phần sau của câu chuyện lại kém phần sinh động, do tác giả tham lam lồng vào đây quá nhiều vấn đề: nào là công trình thủy lợi, nào là công nông liên minh... Câu chuyện trở nên thiếu ý vị, thiên về kể lể sự việc hơn là miêu tả tính cách nhân vật” [59, tr. 427]. Trong tập truyện O chuột, Trần Hữu Tá cũng đưa ra ý kiến của mình: “Dấu vết của chủ nghĩa tự nhiên thỉnh thoảng gợi lên trong tác phẩm của ông. Trong O chuột, lẫn với những truyện về xúc vật, Tô Hoài có phần nhẫn tâm đƣa vào đây một con ngƣời: cu Lặc. Tác phẩm biến những con ngƣời khốn khổ thành những đối tƣợng để gây cƣời, với cái “sa mạc bụng”, “cái núm rốn thây lẩy” của cu Lặc, với cái đức ăn khỏe đã gây ra chia rẽ giữa cu Lặc và thị Hoa: “giá họ cùng không ăn 8 khỏe cả thì họ yêu nhau biết mấy” [59, tr. 147]. Hoàng Thanh lại chỉ ra hạn chế của Tô Hoài với tập truyện ngắn Con mèo lƣời: “Có thể nói tuyển tập Con mèo lƣời đã tập hợp đƣợc nhiều tác phẩm tốt về tƣ tƣởng và nghệ thuật, mặc dù cũng còn đôi truyện có những chi tiết rườm rà nhƣ: “Hai ông cháu và đàn trâu” hoặc thiếu ý vị nhƣ “Ƣớc gì”. Nhƣng nhìn chung các truyện đều đều có tác dụng giáo dục và gây cho các em nhiều cảm xúc thẩm mỹ tốt” [59, tr. 475]. Nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ lại có sự phát hiện: “Tô Hoài biết phát huy những mặt mạnh của lối kể chuyện truyền thống để viết những truyện lịch sử, truyện ngƣời thật việc thật, truyện thiếu nhi. Nhìn chung, anh thành công về về truyện hơn là về tiểu thuyết. Tuy nhiên, anh vẫn chƣa hoàn toàn vƣợt qua đƣợc những nhược điểm, những hạn chế của lối kể chuyện truyền thống” [59, tr. 96]. Có thể nói nhà văn Tô Hoài là một nhà văn có nhiều đóng góp trong văn học thiếu nhi nước nhà. Ông biết quan sát, biết nắm bắt suy nghĩ, ước mơ của các em, truyện của ông được tuổi thơ đón nhận nhiệt tình. Xét về đề tài sáng tác, truyện thiếu nhi của Tô Hoài phong phú về chủ đề. Ông viết truyện về loài vật (dưới nước, trên trời, trên cạn), về hồi ức, lịch sử, về quê hương đất nước.... Ở chủ đề nào ông cũng xây dựng cốt truyện cho phù hợp với, gần gũi với lứa tuổi ở các em. Tác phẩm của ông trong sáng, gợi mở nhiều vấn đề trong cuộc sống. Ngôn ngữ ông giản dị, tự nhiên, sử dụng nhiều phương ngữ.... Với ý thức, trách nhiệm của người cầm bút, Tô Hoài luôn tìm ra hướng đi phù hợp với quá trình tâm sinh lý thiếu nhi. Ông hiểu các em, hiểu được suy nghĩ - ước mơ của các em nên các nhân vật của ông mang lại cho các em những điều kì thú, những suy ngẫm và bài học bổ ích. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu về truyện viết cho thiếu nhi nói chung và truyện ngắn thiếu nhi nói riêng của Tô Hoài, phần lớn các tác giả đi sâu vào khai thác vào từng mảng sáng tác. Tuy nhiên, về phạm vi nghiên cứu về Nghệ thuật tự sự trong truyện thiếu nhi của Tô Hoài vẫn chưa có công trình nào đi sâu vào nghiên cứu một cách tổng hợp. Với khả năng nghiên cứu còn chừng mực, chúng tôi cố gắng kế thừa những người đi trước, tìm hiểu những tài liệu có liên quan nhằm mở rộng và phát huy các vấn đề trong nghệ thuật tự sự truyện thiếu nhi của Tô Hoài như: Cốt truyện, nhân vật, ngƣời kể chuyện, giọng điệu trần thuật và 9 ngôn ngữ. Chúng tôi sẽ tiến hành khảo sát một cách hệ thống các tác phẩm truyện thiếu nhi của Tô Hoài để đem lại cái nhìn mới về nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn thiếu nhi của ông. Đồng thời chúng tôi còn hy vọng đây sẽ là đề tài có ý nghĩa đối với các độc giả yêu thích truyện thiếu nhi của Tô Hoài. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Phương pháp loại hình sẽ giúp cho chúng ta thấy được đặc trưng của loại hình tự sự được thể hiện trong tác phẩm, thấy được hệ thống nhân vật, mô hình cốt truyện, người trần thuật, cũng như ngôn ngữ trần thuật… Phương pháp so sánh giúp chúng ta thấy được những điểm giống và khác nhau trong nghệ thuật tự sự của tác giả được phản ánh trong tác phẩm, cũng như sự khác biệt so với các tác giả khác… Phương pháp phân tích, tổng hợp giúp chúng ta cung cấp những dẫn chứng đầy đủ và chính xác cho những nội dung, những nhận xét đánh giá có hiệu quả và thuyết phục hơn… 5. Cấu trúc luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, nội dung luận văn được chia thành 3 chương: Chƣơng 1. Khái quát về nghệ thuật tự sự và sáng tác của Tô Hoài trong bức tranh văn học thiếu nhi Việt Nam Chƣơng 2: Nghệ thuật tổ chức cốt truyện và xây dựng nhân vật trong truyện thiếu nhi của Tô Hoài Chƣơng 3: Ngƣời kể chuyện và ngôn ngữ trần thuật trong truyện thiếu nhi của Tô Hoài 10 Chƣơng 1: KHÁI QUÁT VỀ NGHỆ THUẬT TỰ SỰ VÀ SÁNG TÁC CỦA TÔ HOÀI TRONG BỨC TRANH VĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM 1.1 Nghệ thuật tự sự 1.1.1 Khái niệm Tên gọi Tự sự học - Narratology/ Narratologie do nhà nghiên cứu Pháp gốc Bungari T.Todorov đề xuất năm 1969 trong sách Ngữ pháp “Câu chuyện mƣời ngày”. Kể từ đó, lí luận tự sự đã trở thành một vấn đề chủ yếu của nghiên cứu văn học. J.H.Miller, nhà giải cấu trúc Mĩ (1993) cho rằng: “Tự sự là cách để ta đƣa các sự việc vào một trật tự, và từ trật tự ấy mà chúng có một ý nghĩa. Tự sự là cách tạo nghĩa cho sự kiện, biến cố”. Còn Jonathan Culler (1998) lại nhận định: “Tự sự là phƣơng thức chủ yếu để con ngƣời hiểu biết sự vật”. Ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu cũng đưa ra những cách hiểu khác nhau về tự sự. Đặng Anh Đào cho rằng: “Tự sự là một khái niệm rất rộng và có thể xét ở hai bình diện. Bình diện thứ nhất: Tự sự nhƣ sự đồng nghĩa với “câu chuyện kể” đối lập với miêu tả. Bình diện thứ hai: Tự sự đƣợc xem xét theo hành động kể chuyện”. Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử thì khẳng định: “Tự sự là hệ thống những sự kiện, cách thức tổ chức sự kiện, các mô típ truyện, sự phân loại các mô típ, diễn ngôn, lời kể với những ngƣời kể, điểm nhìn, thời, thức”. Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Tự sự là một phƣơng thức tái hiện đời sống trong toàn bộ tính khách quan của nó. Tác phẩm tự sự phản ánh hiện thực qua bức tranh mở rộng của đời sống trong không gian, thời gian, qua các sự kiện, biến cố xảy ra trong cuộc đời của con ngƣời. Tác phẩm tự sự bao giờ cũng có cốt truyện, gắn với cốt truyện là một hệ thống nhân vật đƣợc khắc họa đầy đủ, nhiều mặt hơn hẳn nhân vật trữ tình 10 kịch”. Tựu chung lại, nội dung của nghệ thuật tự sự là nghiên cứu cấu trúc của văn bản tự sự và các vấn đề liên quan. 1.1.2 Quá trình hình thành phát triển của tự sự học Tự sự học đã có từ xa xưa. Từ Platon, Aristote người ta đã biết phân biệt các loại tự sự: tự sự lịch sử và tự sự nghệ thuật. Đến thế kỉ V người ta phân biệt: tự sự 11 mô phỏng (không có sự can dự của người kể, như kịch), tự sự giải thích (có kèm phân tích, bình luận) và tự sự hỗn hợp (như sử thi). Tự sự học hiện đại manh nha hình thành từ cuối thế kỉ trước. Nhưng cho đến nay có thể chia làm ba thời kì. Tự sự học trước chủ nghĩa cấu trúc, tự sự học cấu trúc chủ nghĩa và tự sự học hậu cấu trúc chủ nghĩa: Thứ nhất, thời kỳ trƣớc chủ nghĩa cấu trúc: Tự sự học chủ yếu nghiên cứu các thành phần và chức năng của tự sự như: cốt truyện, nhân vật, ngôn ngữ trần thuật, điểm nhìn.... Có thể kể đến công trình nghiên của B. Tomasepxki1 năm 1925, đã nghiên cứu các yếu tố và đơn vị của tự sự. V. Shklovski chia truyện thành hai lớp: chất liệu và hình thức. V. Propp nghiên cứu cấu trúc và chức năng tự sự trong truyện cổ tích (1928). Từ những năm 20 của thế kỉ trước, Bakhtin đã nghiên cứu mối quan hệ giữa tác giả và nhân vật, ngôn từ trần thuật và tính đối thoại của nó. Họ trở thành những người mở đường cho tự sự học hiện đại. Ở phương Tây, với sáng tác của Flaubert thế kỉ XIX, cũng như sáng tác của Henry James (Mĩ) và M. Proust (Pháp) đầu thế kỉ XX, người ta đã biết rằng trong tiểu thuyết sự kiện không phải là cái quan trọng nhất, mà quan trọng nhất là ý thức, là phản ánh tâm lí của nhân vật đối với sự kiện, từ đó người ta quan tâm tới “trung tâm ý thức”, chi tiết trong tiểu thuyết phải lọc qua trung tâm ý thức của nhân vật mới bộc lộ ý nghĩa. Từ đó, các vấn đề điểm nhìn, dòng ý thức được đặc biệt quan tâm với Percy Lubbock (1921), K. Friedemann (1910). Về sau, các vấn đề này còn được phát triển bởi một loạt tác giả Âu - Mĩ khác như J. Pouillon, A. Tate, C. Brooks, T. Todorov, G. Gennette... Những tìm tòi này gắn với ý thức về kĩ thuật của tiểu thuyết. Thứ hai, thời kỳ cấu trúc chủ nghĩa với vấn đề nghiên cứu chủ yếu là bản chất của ngôn ngữ và ngữ pháp tự sự, nhằm tìm ra một cách đọc mà không cần đến 1 B. Tomasepxki vốn là một nhà phê bình thơ nhưng với tiểu luận “Hệ chủ đề” ông đã trở thành người đầu tiên nghiên cứu thủ pháp cốt truyện. Ông phân biệt khái niệm chuyện kể (fabula, fable) và cốt truyện (sujet): tuyến hành động liên quan đến chuyện kể, còn tuyến trần thuật liên quan đến cốt truyện. Ông phân biệt “thời gian của chuyện kể” và “thời gian trần thuật”, đồng thời trình bày nhiều thủ pháp như: trì hoãn, bình luận ngoại đề, che giấu bí mật, đảo lộn thời gian... 12 sự đối chiếu giữa tác phẩm tự sự và hiện thực khách quan. Với mục đích như vậy, chủ nghĩa cấu trúc có đặc điểm là lấy ngôn ngữ học làm hình mẫu, xem tự sự học là sự mở rộng của các cú pháp học, còn trữ tình là sự mở rộng của ẩn dụ. Tiêu biểu cho giai đoạn nghiên cứu này là G. Genette với tuyên bố: “mỗi câu chuyện là sự mở rộng của một câu - chủ yếu là vị ngữ động từ”. Mở đầu cho thời kỳ cấu trúc chủ nghĩa với công trình Dẫn luận phân tích tác phẩm tự sự của R. Barthes năm 1968 và S/Z (1970) tác phẩm này đã bắt đầu chuyển sang hậu cấu trúc chủ nghĩa; T. Todorov có Ngữ pháp “ Truyện mười ngày”... Sơ khởi của quan niệm này là Hình thái học truyện cổ tích của Propp, tiếp theo là nghiên “cứu cấu trúc thần thoại” của Claude Levi - Strauss và “mô hình hành vi ngôn ngữ” của Roman Jakobson. Đặc điểm của lí thuyết tự sự chủ nghĩa cấu trúc là lấy ngôn ngữ học làm hình mẫu, xem tự sự học là sự mở rộng của cú pháp học, còn trữ tình là sự mở rộng của ẩn dụ. Todorov xem nhân vật như danh từ, tình tiết là động từ, trong chủ nghĩa hiện thực thì tình tiết thuộc thức chủ động, còn trong thần thoại lại thuộc thức bị động.... A. J. Greimas vận dụng sự đối lập trục liên kết và trục lựa chọn để nghiên cứu cấu trúc tự sự. G.Genette tuyên bố mỗi câu chuyện là sự mở rộng của một câu - chủ yếu là vị ngữ động từ và ông sử dụng tràn lan các thuật ngữ ngôn ngữ học. R. Barthes cũng tán thành quan điểm đó. Mục đích của chủ nghĩa cấu trúc là nghiên cứu bản chất ngôn ngữ, bản chất ngữ pháp của tự sự nhằm tìm một cách đọc tự sự mà không cần đối chiếu giản đơn tác phẩm tự sự với hiện thực khách quan. Mặc dù không phủ nhận được mối quan hệ văn học với đời sống, nhưng họ đã góp phần làm sáng tỏ bản chất biểu đạt và giao tiếp của tự sự. Song, sự lạm dụng mô hình ngôn ngữ học đã làm cho tự sự học gặp khó khăn, và chính Todorov cũng vấp phải thất bại, bởi ông chỉ quan tâm ngữ pháp tự sự hơn là văn bản tự sự. Thứ ba, thời kỳ hậu cấu trúc chủ nghĩa coi tự sự học gắn liền với kí hiệu học và siêu kí hiệu học, lấy văn bản làm cơ sở và ý nghĩa tác phẩm được biểu hiện qua hình thức tự sự. Ở thời kỳ này, các nhà cấu trúc chủ nghĩa như: I. Lotman, B. Uspenski, Pierre Acherey. Giai đoạn thứ ba của tự sự học là sự gắn liền với kí hiệu học, một bộ môn quan tâm tới các phương thức biểu đạt ý nghĩa khác nhau, lấy 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan