ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
=====================
NGUYỄN MAI HƢƠNG
NÂNG CAO NĂNG LỰC SÁNG TẠO NGHỆ THUẬT
CHO SINH VIÊN CÁC TRƢỜNG NGHỆ THUẬT
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SỸ TRIẾT HỌC
HÀ NỘI - 2017
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
=====================
NGUYỄN MAI HƢƠNG
NÂNG CAO NĂNG LỰC SÁNG TẠO NGHỆ THUẬT
CHO SINH VIÊN CÁC TRƢỜNG NGHỆ THUẬT
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
CHUYÊN NGÀNH: CNDVBC&CNDVLS
MÃ SỐ: 62 22 03 02
LUẬN ÁN TIẾN SỸ TRIẾT HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS. Phạm Công Nhất
HÀ NỘI – 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự
hướng dẫn của PGS.TS Phạm Công Nhất, các số liệu nêu trong luận án là
trung thực. Những kết luận khoa học của luận án chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ chương trình nào.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
NGUYỄN MAI HƢƠNG
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Bộ Giáo dục và đào tạo
: Bộ GD& ĐT
Chương trình đào tạo
: CTĐT
Công nghệ thông tin
: CNTT
Học sinh sinh viên
: HSSV
Kiến thức cơ bản
: KTCB
Nghiên cứu khoa học
: NCKH
Nghệ sĩ nhân dân
: NSND
Nghệ sĩ ưu tú
: NSƯT
Liên hoan phim
: LHP
Sân khấu – Điện ảnh
: SKĐA
Phương pháp giáo dục
: PPGD
Văn hóa nghệ thuật
: VHNT
1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 3
Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ............................................................................................... 8
1.1. Những công trình nghiên cứu tiêu biểu về nghệ thuật, năng lực sáng tạo
và năng lực sáng tạo nghệ thuật ......................................................................... 8
1.2. Những công trình nghiên cứu liên quan đến thực trạng và những vấn đề
đặt ra trong việc nâng cao năng lực sáng tạo nghệ thuật cho sinh viên các
trường nghệ thuật ở Việt Nam .........................................................................21
1.3. Những công trình nghiên cứu về phương hướng và giải pháp nâng cao năng lực
sáng tạo nghệ thuật cho sinh viên các trường nghệ thuật ở Việt Nam. ...................23
1.4. Những thành tựu cơ bản và vấn đề đặt ra luận án cần tiếp tục nghiên cứu .......26
Kết luận chương 1 ............................................................................................29
Chƣơng 2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGHỆ THUẬT VÀ NĂNG
LỰC SÁNG TẠO NGHỆ THUẬT CỦA SINH VIÊN CÁC TRƢỜNG
NGHỆ THUẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .................................................... 30
2.1. Lý luận về nghệ thuật ................................................................................30
2.2. Lý luận về năng lực sáng tạo nghệ thuật..................................................39
2.3. Sinh viên các trường nghệ thuật và yêu cầu nâng cao năng lực sáng tạo
nghệ thuật cho sinh viên các trường nghệ thuật ở Việt Nam hiện nay ............50
2.4. Các nhân tố tác động đến việc nâng cao năng lực sáng tạo nghệ thuật cho
sinh viên trong các trường nghệ thuật ở Việt nam hiện nay ............................58
Kết luận chương 2 ............................................................................................70
Chƣơng 3. THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI NĂNG
LỰC SÁNG TẠO NGHỆ THUẬT CỦA SINH VIÊN CÁC TRƢỜNG NGHỆ
THUẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .................................................................... 72
1
3.1. Thực trạng năng lực sáng tạo nghệ thuật của sinh viên các trường nghệ
thuật ở Việt Nam hiện nay ...............................................................................72
3.2. Một số vấn đề đặt ra đối với thực trạng năng lực sáng tạo nghệ thuật của
sinh viên các trường nghệ thuật ở Việt Nam hiện nay ...................................103
Kết luận chương 3 ..........................................................................................116
Chƣơng 4. PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM NÂNG
CAO NĂNG LỰC SÁNG TẠO NGHỆ THUẬT CHO SINH VIÊNCÁC
TRƢỜNG NGHỆ THUẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ............................... 117
4.1. Những phương hướng cơ bản trong việc tiếp tục nâng cao năng lực sáng tạo
nghệ thuật cho sinh viên các trường nghệ thuật ở Việt Nam hiện nay ................117
4.2. Những giải pháp cơ bản tiếp tục nâng cao năng lực sáng tạo nghệ thuật
cho sinh viên các trường nghệ thuật Việt Nam hiện nay ...............................121
Kết luận chương 4 .......................................................................................... 142
KẾT LUẬN .......................................................................................................144
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN ................................................................................................ 147
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 148
PHỤ LỤC .......................................................................................................... 161
2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nghệ thuật là một những hình thái ý thức xã hội đặc thù, có vai trò vô cùng
quan trọng trong đời sống con người. Hoạt động nghệ thuật là một loại hoạt động
sáng tạo, với mục đích tạo ra cái đẹp làm thỏa mãn nhu cầu thẩm mỹ cho con
người. Nghệ thuật là sự thể hiện của trình độ, tài năng sáng tạo của con người. Vì
vậy, hoạt động sáng tạo nghệ thuật đòi hỏi trình độ năng lực thẩm mỹ cao, sự tích
lũy kinh nghiệm sống cũng như kinh nghiệm sáng tạo của chủ thể. Người sáng tạo
nghệ thuật không ngừng nâng cao trình độ của mình khi lấy chất liệu từ cuộc sống
phong phú với một trí tưởng tượng mạnh mẽ và tài năng biểu cảm xuất sắc. Do đó,
hoạt động sáng tạo nghệ thuật là lĩnh vực chuyên môn cao trong việc tái tạo ra cái
đẹp, nhằm thỏa mãn nhu cầu thưởng thức cái đẹp ngày càng phong phú của xã hội.
Việc tham gia tích cực vào quá trình sáng tạo nghệ thuật sẽ giúp cho con
người củng cố một cách vững chắc, sâu sắc hơn các tri thức thẩm mỹ, tri thức
nghệ thuật đã được truyền thụ. Đây cũng chính là con đường để các chủ thể sáng
tạo bộc lộ cảm xúc, thử thách thị hiếu và thể hiện lý tưởng của mình. Sáng tạo
nghệ thuật chính là cách thức có hiệu quả nhất để con người phát triển toàn diện
các phẩm chất và năng lực thẩm mỹ. Do đó, việc rèn luyện và phát triển sức sáng
tạo nghệ thuật là một vấn đề cần thiết.
Kể từ khi khởi xướng công cuộc đổi mới, Đảng ta luôn xác định trong sự
nghiệp đổi mới đất nước sinh viên là lực lượng có vai trò quan trọng. Chính vì
vậy, sinh viên Việt Nam, một trong những bộ phận trí tuệ và ưu tú trong thanh
niên, là nơi kết tinh nhiều tài năng sáng tạo, là nguồn lao động có học vấn cao,
tri thức chuyên sâu ngày càng được xã hội quan tâm và coi trọng. Đặc biệt, sinh
viên các trường nghệ thuật là những chủ thể hoạt động sáng tạo nghệ thuật tương
lai của xã hội, có một vị trí rất quan trọng trong quá trình xây dựng con người
mới của xã hội. Sinh viên các trường nghệ thuật là những người được tuyển chọn
trên cơ sở năng khiếu bẩm sinh phù hợp với loại hình nghệ thuật được đào tạo.
3
Trình độ phát triển năng lực sáng tạo nghệ thuật của họ phụ thuộc vào hai yếu tố
chính: năng khiếu bẩm sinh và quá trình được giáo dục, rèn luyện trong thực
tiễn. Nâng cao năng lực sáng tạo nghệ thuật cho sinh viên nghệ thuật chính là
làm cho những năng khiếu của họ được phát triển mạnh mẽ, làm cho đời sống
tinh thần của họ ngày càng phong phú, có khả năng đánh giá nhanh, nhạy với cái
đẹp và sáng tạo được những tác phẩm nghệ thuật có giá trị cao.
Trước những tác động của kinh tế thị trường, văn hóa dân tộc phải đối mặt với
nguy cơ bị hòa tan trước nhiều làn sóng văn hóa khác nhau trên thế giới bằng nhiều
con đường khác nhau, có những con đường nằm trong tầm quản lý, nhưng cũng có
những kênh thông tin nằm ngoài tầm kiểm soát. Trong môi trường văn hóa của xã
hội, đã xuất hiện không ít những hiện tượng phản giá trị trong lĩnh vực nghệ thuật. Xu
hướng “thương mại hóa” trên thị trường văn hóa, nghệ thuật làm xuất hiện những tác
phẩm độc hại đã đầu độc bầu không khí văn hóa lành mạnh và giàu tính nhân văn ở
nước ta. Đây chính là mặt trái của lĩnh vực “hàng hóa” văn hóa, nghệ thuật. Sự biến
đổi trong lĩnh vực sáng tạo nghệ thuật do sự tác động của nền kinh tế thị trường ngày
càng trở nên phức tạp. Năng lực sáng tạo nghệ thuật cho đến nay vẫn còn có những
hạn chế chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển đời sống tinh thần ngày càng cao của
nhân dân.
Do vậy, hoạt động giáo dục trong các trường nghệ thuật nhằm mục đích
nâng cao năng lực sáng tạo nghệ thuật cho sinh viên phải luôn được xem là
nhiệm vụ chiến lược trong hoạt động giáo dục của nhà trường, góp phần giải
quyết mối quan hệ giữa đạo đức - trí tuệ - thể chất và thẩm mỹ trong sự phát
triển con người ở các mục tiêu giáo dục: dân tộc – hiện đại. Trong đó, cần phải
nhấn mạnh giáo dục lý luận về cái đẹp - nhất là cái đẹp con người Việt Nam, xã hội
Việt Nam và các giá trị truyền thống đậm đà bản sắc dân tộc và các giá trị hiện đại;
biết phân biệt được cái đẹp và cái xấu, cái ác, cái giả tạo, cái phù phiếm và cái thời
thượng; biết bảo vệ và khẳng định cái mới, cái độc đáo và cái hiện đại. Quan trọng
hơn nữa là cần khuyến khích sinh viên tự bộc lộ cảm xúc, tình cảm thẩm mỹ cá nhân
4
để họ có thể tự sáng tạo những tác phẩm nghệ thuật có giá trị xã hội mà không theo
khuôn mẫu, không theo công thức sẵn có.
Với những lý do như trên, nghiên cứu sinh chọn đề tài “Nâng cao năng lực
sáng tạo nghệ thuật cho sinh viên các trường nghệ thuật ở Việt Nam hiện nay”
làm đề tài nghiên cứu trong luận án tiến sỹ triết học nhằm góp phần vào hoạt
động giáo dục của nhà trường đào tạo những sinh viên nghệ thuật trở thành
những người nghệ sĩ chân chính, đem lại lợi ích cho xã hội, đất nước. Sức sáng
tạo tiềm ẩn trong mỗi con người đặc biệt là sinh viên - những chủ nhân tương lai
của đất nước, cần phải được phát huy để công hiến cho xã hội loài người với
những tiến bộ không ngừng. Trên con đường sáng tạo tương lai, sinh viên nghệ
thuật với sức sống dồi dào, lòng nhiệt huyết tuổi trẻ và trí tuệ sáng tạo đang phát
triển mạnh mẽ sẽ thực hiện tốt các mục tiêu đã đề ra, góp phần nhất định trong
công cuộc xây dựng và bảo vệ nhà nước, kiến tạo nên các công trình nghệ thuật
ngày càng có giá trị.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích:
Từ góc độ triết học nghệ thuật, luận án nghiên cứu vấn đề năng lực sáng
tạo nghệ thuật và thực trạng năng lực sáng tạo nghệ thuật của sinh viên các
trường nghệ thuật ở Việt Nam hiện nay nhằm góp phần xác lập cơ sở lý luận và
thực tiễn cho việc đề xuất những giải pháp nâng cao năng lực sáng tạo nghệ
thuật cho sinh viên các trường nghệ thuật ở Việt Nam hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nghiên cứu, đề tài có các nhiệm vụ sau
- Làm rõ về mặt lý luận những vấn đề năng lực sáng tạo nghệ thuật của
sinh viên các trường nghệ thuật ở Việt Nam hiện nay;
- Phân tích và đánh giá thực trạng năng lực sáng tạo nghệ thuật của sinh viên
các trường nghệ thuật ở Việt Nam hiện nay, nguyên nhân chủ yếu của thực trạng và
những vấn đề đặt ra từ thực trạng đó.
5
- Đề xuất phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục nâng cao năng lực
sáng tạo nghệ thuật cho sinh viên các trường nghệ thuật ở Việt Nam hiện nay.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Năng lực sáng tạo nghệ thuật của sinh viên các
trường nghệ thuật ở Việt Nam hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu của luận án:
Dưới góc độ triết học nghệ thuật, luận án tiến hành nghiên cứu một số vấn
đề liên quan đến năng lực sáng tạo nghệ thuật một cách khái quát trên cơ sở kết
quả của tâm lý học, nghệ thuật học, xã hội học…
Phạm vi điều tra, khảo sát là sinh viên các khóa học từ năm thứ nhất đến năm
thứ tư trong các năm học từ 2013 cho đến nay tại hai trường Đại học Sân khấu và
Điện ảnh thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Trường Đại học Sân khấu –
Điện ảnh (SKĐA) Hà Nội và trường đại học SKĐA Hồ Chí Minh là hai trường đại
học nghệ thuật trọng điểm hàng đầu của cả nước, chuyên đào tạo nguồn nhân lực
chuyên sâu hoạt động trong các lĩnh vực sân khấu, điện ảnh, nhiếp ảnh, múa, thiết kế
mỹ thuật và truyền hình có trình độ đại học và sau đại học. Do vậy, sinh viên ở các
khoa chuyên ngành, các khóa học trong nhà trường có thể đại diện cho sinh viên
trong các trường nghệ thuật ở Việt Nam hiện nay.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của luận án
- Cơ sở lý luận: Luận án dựa trên các quan điểm duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử, trực tiếp là các nguyên lý mỹ học Mác – Lênin, các quan điểm của
Đảng cộng sản Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh về nghệ thuật, năng lực sáng tạo
nghệ thuật. Đồng thời, luận án kế thừa một số kết quả nghiên cứu trong các công
trình khoa học có liên quan đến từng vấn đề nghiên cứu của đề tài.
- Cơ sở thực tiễn: Những kết quả nghiên cứu của luận án chủ yếu dựa vào
thực tiễn điều tra, khảo sát thực tế về năng lực sáng tạo nghệ thuật của sinh viên
hai trường SKĐA.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận án chủ yếu sử dụng phương pháp luận
6
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử kết hợp với một
số phương pháp nghiên cứu khoa học như: phân tích - tổng hợp, lịch sử - lôgíc,
hệ thống – cấu trúc, phương pháp điều tra xã hội học, phương pháp thống kê so
sánh, phương pháp liên ngành, v.v.
5. Đóng góp mới của luận án
- Luận án góp phần làm rõ hơn những vấn đề lý luận về nghệ thuật, năng
lực sáng tạo nghệ thuật và nâng cao năng lực sáng tạo nghệ thuật cho sinh viên
các trường nghệ thuật ở Việt Nam hiện nay cùng những nhân tố chủ yếu tác
động đến việc nâng cao năng lực này.
- Trên cơ sở phân tích làm rõ thực trạng năng lực sáng tạo nghệ thuật của
sinh viên các trường nghệ thuật ở Việt Nam hiện nay, luận án đưa ra và luận giải
một số quan điểm và giải pháp cơ bản để tiếp tục nâng cao năng lực sáng tạo
nghệ thuật của sinh viên các trường nghệ thuật ở Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án.
- Những kết quả nghiên cứu trong luận án sẽ góp phần làm phong phú
thêm cả về lý luận và thực tiễn vấn đề năng lực sáng tạo nghệ thuật và vấn đề
phát triển tài năng nghệ thuật ở Việt nam trong giai đoạn hiện nay.
- Luận án có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ công tác nghiên cứu,
giảng dạy mỹ học, nghệ thuật và công tác quản lý văn hóa – nghệ thuật.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục các tài liệu tham khảo và
phần Phụ lục, phần Nội dung luận án được kết cấu thành 4 chương với 12 tiết.
7
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Những công trình nghiên cứu tiêu biểu về nghệ thuật, năng lực
sáng tạo và năng lực sáng tạo nghệ thuật
1.1.1. Những công trình nghiên cứu tiêu biểu về nghệ thuật
Tình hình nghiên cứu ở ngoài nước
Trong suốt lịch sử nghiên cứu mỹ học đã diễn ra 4 khuynh hướng: khuynh
hướng của chủ nghĩa duy tâm khách quan; khuynh hướng của chủ nghĩa duy tâm
chủ quan; khuynh hướng của chủ nghĩa duy vật; khuynh hướng duy vật biện
chứng. Trong đó, quan niệm về bản chất và đặc trưng của nghệ thuật thông qua
các công trình của các nhà mỹ học đại diện cho các khuynh hướng khác nhau
chiếm một vị trí vô cùng quan trọng.
Đại diện khuynh hướng mỹ học duy tâm khách quan: Platon có cuốn
“Phèđre” do Trịnh Xuân Ngạn dịch, được Nhà xuất bản Sài Gòn ấn hành năm
1961[122] và “Nhà nước lý tưởng” do Trần Thái Đỉnh dịch, được Nhà xuất bản
Sài Gòn ấn hành 1963 [123]. Platôn nghiên cứu mỹ học gắn với tư tưởng triết
học cơ bản là ý niệm. Ý niệm là tính thứ nhất, các hiện tượng tự nhiên là tính thứ
hai. Theo ông, một sự vật sở dĩ đẹp được bởi vì trong thế giới ý niệm tồn tại vẻ
đẹp. Trong các tác phẩm của mình, tư tưởng thẩm mỹ của Platôn thể hiện trong
quan niệm về nghệ thuật trong đó ông quan tâm đến vấn đề bản chất, phương thức
biểu hiện và sự tác động tiêu cực của nghệ thuật đến công dân trong nhà nước lý
tưởng mà ông xây dựng.
Tiêu biểu cho khuynh hướng mỹ học duy tâm khách quan này phải kể đến
Hêghen. Trong tất cả các tác phẩm triết học cơ bản của ông từ “Hiện tượng học
tinh thần” đến “Mỹ học” [47] đã nghiên cứu rất sâu về bản chất cũng như các
loại hình nghệ thuật. Hêghen còn phân biệt nghệ thuật thành những phương thức
biểu hiện cụ thể và dự báo về “cái chết của nghệ thuật” khi khoa học duy lý (triết
8
học) phát triển và thay thế nó. Hêghen đã định nghĩa nghệ thuật là “ tư duy trong
các hình tượng”, hoặc “hình tượng “ dưới con mắt chúng ta không phải là bản
chất trừu tượng, mà là hiện thực cụ thể của bản chất. Nhưng thực chất bản chất
của nghệ thuật theo quan điểm của Hêghen, cũng chỉ là một giai đoạn trong quá
trình phát triển của “tinh thần tuyệt đối”, là sự “hồi tưởng” hoặc đào sâu tất cả
qúa trình mà nó đã kinh qua.
Mở đầu cho khuynh hướng mỹ học duy vật là nhà bách khoa thư Aristốt,
ông không những là người đặt nền móng cho lôgic học mà còn cho cả Mỹ học
(Esthétique). Mỹ học Aristốt được trình bày trong cuốn thứ tám của tác phẩm
Chính trị học (Politique), trong Nghệ thuật thơ ca (Péotique) [3], ở phần Tu từ
học (Rhétorique)…
Trong các công trình của mình, ông đã chống lại quan niệm của Platôn về
nghệ thuật và xây dựng một lý thuyết mới về bản chất của nghệ thuật, các loại
hình nghệ thuật cơ bản và giá trị tích cực của nó đối với đời sống đạo đức của
con người.
Dựa vào những nguyên lý duy vật nhân bản, nhà mỹ học Nga
Tsécnưsépxki trong cuốn “Quan hệ thẩm mỹ của nghệ thuật đối với hiện thực”
[155] cho rằng hiện thực là điểm xuất phát cho lý thuyết nghệ thuật nói chung.
Xuất phát từ quan điểm này, ông nêu lên mục đích của nghệ thuật, đối tượng và
phương thức biểu hiện của nghệ thuật. Đặc biệt, ông đã nêu lên chức năng nhận
thức hiện thực, chức năng giáo dục của nghệ thuật được ông đặc biệt đề cao và cho
rằng đặc trưng khái quát của nghệ thuật chính là mô tả cuộc sống, những tác phẩm
nghệ thuật thường có ý nghĩa của một sự xét đoán đối với những hiện tượng của
cuộc sống.
C. Mác và Ph.Ăngghen không để lại một tác phẩm mỹ học nào riêng biệt.
Các tư tưởng mỹ học của các ông đều gắn liền với ba bộ phận hợp thành chủ
nghĩa Mác để giải quyết những vấn đề quan trọng của hoạt động vật chất và tinh
thần của xã hội. Các tư tưởng mỹ học của các ông được trình bày sâu sắc trong
9
các công trình như: Hệ tư tưởng Đức, Gia đình thần thánh, Nguồn gốc của gia
đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước, Chống Đuyrinh, Tư bản và nhiều tác
phẩm khác, thí dụ như Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844, Góp phần phê
phán khoa kinh tế chính trị học [99] hoặc những thư từ C. Mác và Ph. Ăngghen
đã gửi cho bạn bè và gửi cho nhau khi các ông đánh giá thẩm mỹ của nhiều nền
văn học nghệ thuật trên thế giới. Trong các tác phẩm của mình, Mác và Ăngghen
đã quan tâm sâu sắc tới bản chất của nghệ thuật cũng như một số tác phẩm tiêu
biểu cho từng loại hình nghệ thuật.
Đến những năm 80 – 90 của thế kỷ XX, ở Liên Xô xuất hiện nhiều công
trình: Mỹ học Mác – Lênin và việc giáo dục bộ đội của Ax. Milôviđốp và B.
Xaphrônốp; Mỹ học Mác – Lênin là một khoa học của P. S. Tơrôphimốp, Mỹ học
– khoa học diệu kỳ của B. A. Erengroxx [41], Cá tính sáng tạo của nhà văn và
sự phát triển của văn học [82] , Sáng tạo nghệ thuật, hiện thực, con người của
M. B. Khrapchenco [83]; Mỹ học cơ bản và nâng cao của M. F. Ốpxiannhicốp
chủ biên[117]… Những công trình này đều bàn về nguồn gốc, bản chất của nghệ
thuật và những đặc điểm thẩm mỹ của nó trong các loại hình như kịch, múa, ca
kịch, âm nhạc, hội họa, điện ảnh… Rất nhiều chương trong các cuốn sách này
phân tích bản chất thẩm mỹ của nghệ thuật thông qua những quan điểm và các
khuynh hướng mỹ học khác nhau, đồng thời nêu lên quan điểm Mác xít về bản
chất và các loại hình nghệ thuật.
Tác phẩm “Hình thái học nghệ thuật” của tác giả M.Cagan [14] nghiên
cứu kết cấu của toàn bộ thế giới nghệ thuật, phân biệt các cấp độ căn bản của sự
phân chia nghệ thuật. Nghệ thuật có những phẩm chất thẩm mỹ, mang một thông
tin nghệ thuật nào đấy và truyền đạt thông tin này từ nghệ sỹ đến công chúng.
Mỗi loại hình nghệ thuật đều làm thành một hệ thống tín hiệu độc lập và độc đáo
của những hình tượng. Những tín hiệu đó chính là tín hiệu của giá trị, bởi vì
nghệ thuật kể cho chúng ta không phải về sự tồn tại khách quan của các sự vật,
các hiện tượng hay các bản chất, mà về thế giới được nhân hóa, đã hướng tới con
người vào lĩnh vực những sự quan tâm tinh thần của nó, một thế giới gắn liền với
10
những nhu cầu và những lý tưởng của con người.
Tác phẩm “Bốn bài giảng mỹ học” của tác giả Lý Trạch Hậu [46] đã phân
tích các khái niệm mỹ học về cái đẹp, mỹ cảm và nghệ thuật. Trong phần nghệ
thuật, tác giả bàn về khái niệm nghệ thuật dưới góc độ triết học. Tác giả cho rằng,
tác phẩm nghệ thuật phải có yếu tố vật chất – nghệ sỹ phải đem thế giới trong trí
tưởng tượng của mình thể hiện vào một chất liệu khách quan nhất định nào đó, tác
giả chia tác phẩm thành ba tầng lớp nhưng thống nhất chặt chẽ với nhau là lớp
hình thức, lớp chủ đề và tư tưởng.
Tác phẩm “Một đề dẫn về lý thuyết nghệ thuật” của tác giả Cynthia
Freeland [19] viết năm 2001 là tác phẩm triết học nghệ thuật đã phân tích lịch sử
quá trình hình thành khái niệm về nghệ thuật từ phương Đông đến phương Tây
từ các triết gia cổ đại, hiện đại và hậu hiện đại. Mỗi khái niệm khác nhau thể
hiện đặc trưng của thời đại, nơi chốn, cộng đồng, hoàn cảnh cụ thể nào đó. Tác
giả cũng phân tích các lý thuyết cơ bản về nghệ thuật như lý thuyết mô phỏng, lý
thuyết về khiếu thẩm mỹ và cái đẹp, lý thuyết hành lễ, các lý thuyết nhấn mạnh
tới sự truyền thông, hoặc là cho mục đích biểu lộ hoặc là cho nhận thức. Tác giả
nhấn mạnh vào vai trò nghệ thuật trong việc nâng cao nhận thức của chúng ta về
cả bản thân (nới rộng chức năng tri giác của chúng ta về cả bản thân lẫn thế
giới). Nghệ thuật có thể tác động tới cả hai điều đó.
Năm 1984, Nhà xuất bản Sách giáo khoa Mác – Lênin đã phát hành công
trình Nguyên lý mỹ học Mác – Lênin của tác giả Iu.A.Lukin, V.C.
Xcacherơsicốp, Hoài Lam dịch [96]. Đây là công trình nghiên cứu mỹ học
nghiêng nhiều về phương diện nghệ thuật. Đi từ cảm xúc thẩm mỹ, các tác giả đã
chỉ ra bản chất của nghệ thuật và đề xuất những nguyên lý cơ bản của mỹ học
Mác xít khi nghiên cứu về nghệ thuật.
Liên quan đến nghiên cứu nghệ thuật, công trình gần đây nhất của có cuốn
“Thế mà là nghệ thuật ư?”của Cynthia Freeland do Như Huy dịch [19] đã phân
tích lịch sử khái niệm nghệ thuật không chỉ ở phương Tây mà còn ở cả phương
Đông, giúp độc giả phần nào cắt nghĩa được khái niệm nghệ thuật và tác phẩm
11
nghệ thuật theo thời gian đã không chỉ còn tồn tại ở phạm trù cái đẹp nữa mà nó
còn là một công cụ hữu hiệu cho việc nhận thức, đánh giá hiện thực của người
nghệ sĩ.
Tình hình nghiên cứu ở trong nước
Ở Việt Nam, nghiên cứu về nghệ thuật đã được một số học giả quan tâm.
Vào những thập niên 80 – 90 thế kỷ trước, nhiều công trình mỹ học đã ra đời.
Tác giả Lê Ngọc Trà có cuốn “Giáo trình mỹ học đại cương” [145]; tác giả Đỗ
Huy có các cuốn “Mỹ học – khoa học về các quan hệ thẩm mỹ” [63], “Đạo đức
học – Mỹ học và đời sống văn hóa nghệ thuật” [65], “Mỹ học với tư cách là một
khoa học” [61], … Tác giả Nguyễn Văn Huyên chủ biên cuốn “Văn hóa thẩm
mỹ và sự phát triển con người Việt Nam trong thế kỷ mới” [69], Nguyễn Văn
Huyên và Nguyễn Quốc Tuấn có cuốn “Nghệ thuật với sự phát triển nhân cách
người cán bộ lãnh đạo trong công cuộc đổi mới”[74], và rất nhiều những bài báo
về sáng tạo nghệ thuật như: “Văn hóa thẩm mỹ và hoạt động sáng tạo của con
người” [72], “Về đặc trưng của chân lý nghệ thuật và tính đặc thù trong sự tiếp
cận nó” [70], “Cấu trúc của hình tượng nghệ thuật và khả năng gợi mở của nó
đối với các tiềm năng sáng tạo” [71],... tác giả Đỗ Văn Khang có các cuốn “Giáo
trình mỹ học Mác – Lênin” [80], “Giáo trình lịch sử mỹ học” [78]… Hoài Lam
với “Giáo trình mỹ học” [88]; Vũ Minh Tâm với “Mỹ học và giáo dục thẩm mỹ”
[132]; Đào Duy Thanh với “Mỹ học đại cương” [133]; Vĩnh Quang Lê với “Mỹ
học Mác – Lênin” [90], Phan Ngọc với “Mỹ học” [105]….
Với góc độ xã hội học, cuốn “Xã hội học nghệ thuật” [136] của tác giả
Bùi Văn Thắng đã khẳng định tầm quan trọng của việc nghiên cứu nghệ thuật
dưới góc độ xã hội học. Bởi, sự ra đời của các trường phái, học thuyết mới về nghệ
thuật đặt ra đòi hỏi phải xem xét lại các lý thuyết nghệ thuật truyền thống. Mặt khác,
do sự phân tầng của xã hội, của công chúng nghệ thuật nên kéo theo sự thay đổi về
nhận thức thẩm mỹ nói chung và nhận thức nghệ thuật nói riêng. Công trình đã đi sâu
trình bày phương diện lý thuyết của xã hội học thực nghiệm nghệ thuật dựa trên một
số loại hình nghệ thuật như văn học, âm nhạc, điện ảnh…
12
Trong cuốn “Giáo trình lịch sử mỹ học” [78], tác giả Đỗ Văn Khang cho
rằng, nghệ thuật với tư cách là một nội dung nghiên cứu cơ bản đã xuất hiện từ
rất sớm trong lịch sử mỹ học. Tác giả đặc biệt quan tâm tới quan điểm về
nghệ thuật của Aristốt, Sếchpia, Schelling, Hêghen và Tsécnưsépxki… và
cho rằng, lý luận về nghệ thuật của họ có ý nghĩa to lớn trong lý luận mỹ học
cũng như thực tiễn sáng tạo, trình diễn và thưởng thức nghệ thuật. Công
trình là một tài liệu bổ ích cho việc nghiên cứu vấn đề nghệ thuật ở các
trường đại học ở nước ta.
Tác phẩm “Nghệ thuật học”của tác giả Đỗ Văn Khang [77] đã phân tích
nguồn gốc của nghệ thuật và các thành tựu nghệ thuật suốt chiều dài lịch sử
nhân loại từ nghệ thuật nguyên thủy đến nghệ thuật hiện đại ở phương Đông và
phương Tây. Trong chương bàn về nguồn gốc nghệ thuật, tác giả đã tổng hợp
các học thuyết cũ về nguồn gốc nghệ thuật. Đó là các học thuyết: thuyết “Bắt
chước”, thuyết “Du hý”, thuyết “Ma thuật”, thuyết “Biểu hiện”. Tác giả đưa
ra quan niệm của mình lý giải nguồn gốc nghệ thuật dựa trên cơ sở thuyết
“Tổng sinh lực và sinh lực thừa”. Thuyết này dựa trên luận cứ cho rằng, nghệ
thuật xuất hiện khi con người đã đạt tới một trình độ sáng tạo trong lao động
bền bỉ đến mức đáp ứng nhu cầu sống sinh học, làm nảy sinh đời sống thẩm
mỹ, khi đó nghệ thuật từ cái thực dụng bước ra, tạo nên một hiện tượng độc đáo
chỉ riêng loài người mới có: “Nghệ thuật ra đời là do xuất hiện sinh lực thừa,
do nhu cầu biểu đạt tự do sáng tạo của con người ”[77, tr15].
Tác phẩm “Mỹ học – khoa học về các quan hệ thẩm mỹ” của tác giả Đỗ
Huy [63] đã phân tích khái niệm nghệ thuật được đưa ra từ thời cổ đại cho đến
hiện đại với rất nhiều nghĩa khác nhau. Tác giả đã nghiên cứu sâu những vấn đề
cơ bản về lý luận nghệ thuật như nguồn gốc, bản chất, vai trò, chức năng và các
loại hình loại thể của nghệ thuật. Trong đó, ông cho rằng, nghệ thuật là một
trong ba hình thức nhận thức cơ bản của con người: hình thức nhận thức khoa
học; hình thức nhận thức tôn giáo và hình thức nhận thức khoa học.
13
1.1.2. Những công trình nghiên cứu về năng lực sáng tạo
Tình hình nghiên cứu ở ngoài nước
Các nhà kinh điển C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin đã nêu các quan điểm
trên lập trường mácxít có tính chất là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận
trực tiếp cho lý luận về sáng tạo, năng lực sáng tạo của chủ thể trong những công
trình tiêu biểu như: Luận cương về Phoiơbắc được C. Mác viết năm 1845; Hệ tư
tưởng Đức do C. Mác và Ph. Ăngghen viết chung năm 1845 - 1846; Tuyên ngôn
của Đảng cộng sản do C. Mác và Ph. Ăngghen soạn thảo năm 1848; Bộ Tư bản
của C. Mác; Chống Đuyrinh của Ph. Ăngghen năm 1878; Bản sơ thảo tác phẩm
Biện chứng của tự nhiên được Ph. Ăngghen soạn thảo từ năm 1873 đến năm
1886; Các tác phẩm của V.I. Lênin như Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh
nghiệm phê phán của V.I. Lênin xuất bản năm 1909; Bút ký triết học. Các nhà
kinh điển đã khẳng định: Sản phẩm sáng tạo được hình thành từ năng lực (phản
ánh sáng tạo - ý thức) của kết cấu vật chất ở trình độ cao (não bộ con người).
Tình hình nghiên cứu ở trong nước
Ở trong nước những hoạt động liên quan đến khoa học về lĩnh vực sáng
tạo mới thật sự bắt đầu vào thập kỉ 70 của thế kỷ XX. Có thể kể ra một số nghiên
cứu tiêu biểu như: “Rèn luyện khả năng sáng tạo toán học ở nhà trường phổ
thông” (Hoàng Chúng, 1964), “Làm thế nào để sáng tạo”(Phan Dũng, 1992),
“Khơi dậy tiềm năng sáng tạo” (Nguyễn Cảnh Toàn (chủ biên), 2004), bộ sách
Sáng tạo và đổi mới gồm 10 tập xuất bản trọn bộ năm 2012 do tác giả Phan
Dũng - giám đốc Trung tâm Sáng tạo khoa học kỹ thuật (TSK) đã du nhập,
truyền bá, phát triển và mở rộng TRIZ ở Việt Nam; Cuốn Cơ sở khoa học của sự
sáng tạo của tác giả Nguyễn Văn Lê xuất bản năm 1998; Cuốn Khơi dậy tiềm
năng sáng tạo của nhóm tác giả Nguyễn Cảnh Toàn, Nguyễn Văn Lê và Châu
An xuất bản năm 2004; Cuốn Đánh thức tiềm năng sáng tạo của Nguyễn Minh
Triết xuất bản năm 2001; Cuốn Hãy trở thành người thông minh sáng tạo của Lê
Nguyên Long xuất bản năm 2006; Cuốn Con đường dẫn tới phát minh, phát hiện
14
khoa học nổi tiếng của Vũ Bội Tuyền xuất bản năm 2006; Cuốn 365 lời khẳng
định hàng ngày về sáng tạo của Janet Luongo xuất bản bằng tiếng Việt năm
2010 do Nguyễn Minh Quang dịch.
Trong cuốn Sáng tạo và những điều kiện chủ yếu để kích thích sự sáng
tạo” [52] tác giả Lê Huy Hoàng đã trình bày khá hệ thống và khái quát những
vấn đề của lý luận sáng tạo, đồng thời đã phân tích xác định những yếu tố và
những điều kiện quyết định đối với sự sáng tạo của con người nói chung và Việt
nam nói riêng. Tác giả đã phân tích sâu sắc quan điểm Mácxít về sáng tạo và bản
chất của sự sáng tạo. Theo các nhà sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin, phản ánh và
sáng tạo luôn gắn bó với nhau. Phản ánh là thuộc tính phổ biến của vật chất, còn
sáng tạo là sản phẩm của tổ chức vật chất có trình độ cao nhất là bộ óc con
người. Tác giả cho rằng sáng tạo trong nghệ thuật là sự chiếm lĩnh hiện thực
bằng tình cảm – cảm xúc của con người. Về bản chất, sáng tạo nghệ thuật là sự
thống nhất giữa phản ánh hiện thực và biểu hiện tình cảm của người nghệ sỹ.
Sáng tạo nghệ thuật đòi hỏi một năng lực đặc biệt, đó là khả năng nhận thức,
phản ánh tính toàn vẹn của sự vật hiện tượng. Chính vì vậy, sáng tạo nghệ thuật
đòi hỏi một tài năng đặc thù. Tác giả cho rằng để có hoạt động sáng tạo, mỗi cá
nhân trước hết phải có những yếu tố bên trong cơ bản như sau: Tư chất, trí thông
minh, năng lực, tài năng. Ngoài ra, chủ thể cần phải có nhưng phẩm chất trình độ
cơ bản tạo nên năng lực sáng tạo như sau: Trình độ văn hóa chung, trình độ
chuyên môn sâu với tư cách là nền tảng cho việc phát huy tư chất của chủ thể
sáng tạo. Chủ thể sáng tạo cần có một tư duy nhạy bén, uyển chuyển, linh hoạt,
cần có trí tưởng tượng và tư duy liên tưởng phong phú để phát hiện vấn đề, giải
quyết vấn đề một cách hiệu quả trên cơ sở đó chủ thể thực hiện mục đích sáng
tạo của mình.
Hiện nay những công trình tập trung nghiên cứu tương đối chi tiết, chuyên sâu
về sáng tạo nói chung, năng lực sáng tạo nói riêng đều thuộc tâm lý học sáng tạo.
Tiêu biểu là các tác phẩm sau: Tâm lý học sáng tạo [157] của Đức Uy xuất bản năm
15
1999; cuốn Giáo trình Tâm lý học sáng tạo của Huỳnh Văn Sơn xuất bản năm 2009;
“Tâm lý học sáng tạo”[148] của tác giả Nguyễn Huy Tú.
Trong tác phẩm Tâm lý học sáng tạo của GS.TS Phạm Thành Nghị [101] đã
phân tích một cách thấu đáo bản chất của sự sáng tạo, các bước của quá trình sáng
tạo, ảnh hưởng của các kiến thức đã biết đến sự sáng tạo ra cái mới, cơ sở sinh học,
xã hội của sáng tạo, mối quan hệ của sáng tạo với các hiện tượng tâm lý như trí thông
minh, tư duy, tưởng tượng, động cơ cũng như kiến thức về phương pháp sáng tạo.
Tác giả cũng phân tích sự sáng tạo thể hiện trong các lĩnh vực và trong cuộc sống
hàng ngày: sáng tạo trong khoa học, sáng tạo kỹ thuật, sáng tạo trong nghệ thuật và
sáng tạo trong cuộc sống hàng ngày.
Luận án tiến sỹ triết học Sáng tạo và việc nâng cao năng lực sáng tạo của
sinh viên trường Đại học Hàng hải Việt Nam hiện nay của tác giả Trần Việt
Dũng [28] nghiên cứu về sáng tạo và năng lực sáng tạo của con người trong các
lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội làm sáng tỏ bản chất của sáng tạo, năng
lực sáng tạo và xác định các phương pháp chung nâng cao năng lực sáng tạo của
con người, từ đó tạo cơ sở lý luận quan trọng để xây dựng chính sách, quy chế
nhằm nâng cao năng lực sáng tạo của con người Việt Nam hiện nay.
Tác giả Nguyễn Văn Huyên trong bài báo “Văn hoá thẩm mỹ và hoạt động sáng
tạo của con người” [69] cho rằng cái cốt lõi nhất khi nghệ thuật tác động đến con
người là làm cho trong năng lực cá nhân phát triển tất cả các tiềm năng: tiềm năng
nhận thức, tiềm năng tạo dựng, tiềm năng định hướng - đánh giá và tiềm năng giao
lưu. Trình độ phát triển của các tiềm năng đó quy định sức mạnh của tính tích cực ở
cá nhân trong toàn bộ các loại hoạt động sáng tạo.
Tóm lại, các công trình nghiên cứu về sáng tạo và năng lực sáng tạo trên đây
đã có những luận bàn tương đối đầy đủ, chi tiết về những vấn đề của sáng tạo,
năng lực sáng tạo của con người. Đó là những tư liệu rất cần thiết để luận án kế
thừa những hạt nhân hợp lí và tiếp tục hoàn thiện hơn quan điểm về năng lực
sáng tạo nói chung và năng lực sáng tạo nghệ thuật nói riêng.
16
- Xem thêm -