DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
Sơ đồ
1.1
1.2
Nô ̣i dung
Quan hệ giữa hàng hóa hiện hữu và
dịch vụ.
Trang
7
Thị trường dịch vụ
9
Kênh phân phối trực tiếp (Giáo trình
1.3
Marketing dich vụ, trang 281)
15
Kênh phân phối qua trung gian (Giáo
1.4
trình Marketing dịch vụ, trang 281).
16
2.1
Tổ chức hành chính của Trường Đại
học Công đoàn
47
i
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng
2.1
Nô ̣i dung
Trang
Số học sinh đăng kí, trúng tuyển và nhập
48
học của trường ĐHCĐ
Thống kê, phân loại số lượng người học
2.2
nhập học (trong 5 năm gần đây) các hệ
50
chính quy và không chính quy
2.3
2.4
2.5
Số sinh viên quốc tế (học đại học) nhập học
trong 5 năm gần đây nhất
Thống kê phân loại giảng viên
Thống kê, phân loại giảng viên cơ hữu theo
trình độ, giới tính và độ tuổi
51
53
54
Thống kê, phân loại giảng viên cơ hữu theo
2.6
mức độ thường xuyên sử dụng ngoại ngữ và
tin học cho công tác giảng dạy và nghiên
55
cứu
2.7
2.8
2.9
2.10
Bảng phân bổ kinh phí cho các hoạt động
của Nhà trường
Thâm niên công tác của giảng viên cơ hữu
Phân loại giảng viên cơ hữu theo trình độ,
giới tính và độ tuổi
Số lượng đội ngũ kỹ thuật viên, nhân viên
ii
79
93
94
95
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong lĩnh vực giáo dục hiện nay, đang có một câu hỏi tồn tại
đó là « giáo dục có phải là một thị trường không ? » Câu hỏi này
đang là đề tài bàn luận sôi nổi, vì hiện nay bên cạnh những trường
công lập thì số lượng các trường tư nhân ở tất cả các cấp đang phát
triển mạnh mẽ, nhất là các trường đại học. Giáo dục là một quốc vấn
vì nếu không có người giỏi trong các ngành thì kinh tế xã hội không
thể phát triển mạnh và cạnh tranh với nước ngoài, nhất là khi Việt
Nam đã gia nhập các tổ chức kinh tế thế giới như Asean, WTO,
AFTA… Đây là một cơ hội rất lớn, nhưng cũng mang lại không ít
thách thức cho nền kinh tế Việt Nam. Việc đào tạo ra những người có
thể làm việc, xây dựng đất nước ngày càng phát triển đang là vấn đề
ngành giáo dục phải quan tâm. Theo thống kê, 74,7% lao động nước ta
chưa qua đào tạo, còn những người đã qua đào tạo cũng không thực sự
giỏi nghề, điều này sẽ gây tác động xấu cho nền kinh tế.
Vậy làm thế nào để có thể nâng cao chất lượng nguồn lao động của
nước ta, câu hỏi này phụ thuộc vào chất lượng đào tạo các cấp của nước ta
và đặc biệt là trong các trường đại học, vì đây là bước ngoặt quan trọng
nhất cho người lao động rời ghế nhà trường để bước vào xã hội.
Hầu hết các doanh nghiệp đều phải tiến hành các hoạt động
Marketing để thu hút khách hàng, để nắm bắt nhu cầu khách hàng
1
và nâng cao chất lượng cho sản phẩm của mình đáp ứng được nhu
cầu khách hàng.
Vậy nếu coi giáo dục cũng là một thị trường thì hoạt động
Marketing trong giáo dục là một điều rất cần thiết. Các trường đại
học cũng giống như các doanh nghiệp, phải thực hiện các hoạt động
để thu hút sinh viên vào trường, phải nắm bắt nhu cầu sinh viên cần
gì, muốn gì và khi ra trường liệu họ có làm được việc hay không.
Nhà trường phải làm gì để có thể nâng cao chất lượng giáo dục
trong trường cũng như nâng cao chất lượng của sinh viên. Những
câu hỏi đó sẽ một phần nào được trả lời qua hoạt động Marketing
trong các trường đại học.
Trường Đại học Công đoàn là một trường đại học công lập
được thành lập hơn 60 năm, chất lượng giáo dục trong trường cũng
là vấn đề nhà trường rất quan tâm, và sự cần thiết có hoạt động
Marketing trong trường Đại học Công đoàn là vấn đề học viên
muốn đào sâu nghiên cứu. Vì vậy, tác giả đã chọn đề tài « Một số
giải pháp nhằm thực hiện và phát triển hoạt động Marketing
trong trường Đại học Công đoàn Việt Nam »
2. Tình hình nghiên cứu
Hiện nay, đã có một số bài báo và một vài luận văn trong nước
và ngoài nước đã đề cập đến vấn đề Marketing trong giáo dục,
nhưng trong luận văn này, tác giả muốn nghiên cứu sâu về sự cần
2
thiết của hoạt động Marketing trong các trường đại học và cụ thể là
tại trường Đại học Công đoàn.
Cho đến nay đã có một số công trình liên quan đến đề tài
nghiên cứu chẳng hạn như:
Luận văn thạc sĩ Quản trị kinh doanh, Trường Đại học kinh tế
quốc dân; Đề tài: "Quản trị hoạt động xúc tiến hỗn hợp trong cung
ứng dịch vụ đào tạo tại công ty đào tạo-tư vấn Tâm Việt" Nguyễn
Minh Hiền (2008).
Luận văn này chủ yếu nghiên cứu về thực trạng quản trị hoạt
động xúc tiến hỗn hợp trong công ty đào tạo tư vấn Tâm Việt cụ thể
trong cung ứng đào tạo. Trong luận văn đã đưa ra những thuận lợi,
khó khăn khi áp dụng hoạt động xúc tiến hỗn hợp vào hoạt động
cung ứng đào tạo, đồng thời đã đưa ra được một số giải pháp để
tăng hiệu quả của việc quản trị hoạt động xúc tiến hỗn hợp trong
hoạt động này của công ty Tâm Việt.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích chính của luận văn là muốn nghiên cứu thêm về lĩnh
vực Marketing nói chung và Marketing trong giáo dục nói riêng, và
đưa ra các giải pháp góp phần vào việc thu hút sinh viên có chất
lượng đầu vào cao cũng như nâng cao chất lượng giáo dục trong
trường để giúp sinh viên khi ra trường có được một việc làm tốt,
đúng chuyên môn và được nhà tuyển dụng đánh giá cao. Qua đó,
nâng cao được vị thế, hình ảnh của trường Đại học Công đoàn.
3
Nhiệm vụ nghiên cứu hệ thống hoá về mặt lý luận marketing
trong lĩnh vực dịch vụ cụ thể trong lĩnh vực đào tạo. Phản ánh thực
trạng thực hiện hoạt động marketing trong trường Đại học Công
đoàn và đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động marketing
trong trường Đại học Công đoàn.
Thời gian nghiên cứu trong 5 năm (từ năm 2004 đến năm 2009)
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Thị trường giáo dục luận văn nghiên
cứu tại một số trường đại học trong nước và trên thế giới đã áp dụng
thành công hoạt động Marketing vào hoạt động của trường mình.
Đặc biệt luận văn tập trung nghiên cứu trường hợp cụ thể tại trường
Đại học Công đoàn, những sinh viên đang học và đã ra trường để
nắm bắt nhu cầu của sinh viên, nhằm tìm ra các giải pháp Marketing
áp dụng vào trường Đại học Công đoàn.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu, phân tích
hoạt động Marketing trong các trường đại học trên địa bàn Hà Nội,
và đề xuất giải pháp Marketing áp dụng tại trường Đại học Công
đoàn.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn chủ yếu dùng các phương pháp nghiên cứu Marketing
(khảo sát, điều tra, thống kê, phân tích, so sánh, thực nghiệm, gửi
phiếu điều tra, thăm dò ý kiến v..v..).
6. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn
4
- Đưa ra các giải pháp và đề xuất khả năng hiện thực của việc vận
dụng Marketing vào giáo dục, cụ thể vào trường Đại học Công đoàn
- Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu, phát triển lý luận
Marketing vào lĩnh vực đào tạo, chỉ ra những tính chất, đặc thù của
Marketing đào tạo và sự cần thiết phải ứng dụng Marketing đào tạo
vào trường đại học ở Việt Nam.
- Luận văn cung cấp một phương pháp luận khoa học để xem
xét, đánh giá, phân tích thực tiễn đào tạo trong các trường đại học
trên địa bàn Hà Nội, đặc biệt là ở trường Đại học Công đoàn.
7. Bố cục của luận văn (Nội dung chi tiết từng chương)
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, bố cục luận văn gồm ba chương
chính như sau:
- CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ MARKETING DỊCH VỤ VÀ
MARKETING TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC
- CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG MARKETING
TRONG GIÁO DỤC ÁP DỤNG TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG
ĐOÀN VIỆT NAM
- CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN
HOẠT ĐỘNG MARKETING TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC
TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG ĐOÀN.
5
6
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ MARKETING DỊCH VỤ
VÀ MARKETING TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC
1.1. Tổng quan về Marketing dịch vụ
1.1.1.
1.1.1.1.
Khái niệm về Marketing dịch vụ.
Khái niệm về dịch vụ
Trong nền kinh tế hiện nay nhất là trong thời kì kinh tế Việt Nam
đang rất phát triển và trong quá trình hội nhập WTO, dịch vụ luôn
giữ vị trí rất quan trọng. Ngày nay, dịch vụ đã mang lại thu nhập cao
và chiếm tỷ trọng lớn trong GDP của hầu hết các nước có nền kinh
tế phát triển và những nước công nghiệp mới như: Hoa Kỳ, Nhật
Bản, Ấn Độ, Singapore, Hàn Quốc… Kinh doanh dịch vụ ngày càng
sôi động và phát triển. Chính vì thế xã hội dịch vụ là xã hội sau
công nghiệp. Ở nước ta những năm gần đây, kinh tế dịch vụ rất phát
triển, mục tiêu cụ thể đến năm 2010, Việt Nam cơ bản trở thành một
nước công nghiệp với tỉ trọng trong GDP của nông nghiệp chiếm
16-17%, công nghiệp khoảng 40-41%, dịch vụ chiếm 42-43%, tỷ
trọng lao động trong tổng lao động xã hội, lao động công nghiệp và
dịch vụ là 50%, nông nghiệp là 50%.
Trước khi hiểu khái niệm về Marketing dịch vụ, phải hiểu khái
niệm dịch vụ là gì: “Dịch vụ là một quá trình hoạt động bao gồm
các nhân tố không hiện hữu, giải quyết các mối quan hệ giữa người
cung cấp với khách hàng hoặc tài sản của khách hàng mà không có
sự thay đổi quyền sở hữu. Sản phẩm của dịch vụ có thể trong phạm
7
vi hoặc vượt quá phạm vi của sản phẩm vật chất. Trên giác độ hàng
hóa, dịch vụ là hàng hóa vô hình mang lại chuỗi giá trị thỏa mãn
một nhu cầu nào đó của thị trường” (Giáo trình Marketing dịch vụ,
trường ĐHKTQD, trang 6)
Vậy có thể thấy rằng dịch vụ phải gắn với hoạt động để tạo ra nó
như dịch vụ du lịch, dịch vụ viễn thông v…v Mỗi loại dịch vụ mang
lại cho người tiêu dùng một giá trị nào đó. Giá trị của dịch vụ gắn
liền với lợi ích mà họ nhận được từ dịch vụ, ngày nay có trường
phái cho rằng tất cả những hàng hóa mua và sử dụng tại nơi sản
xuất, khách hàng không mang theo được đều thuộc dịch vụ.
1.1.1.2.
Khái niệm Marketing dịch vụ
Đặc điểm của sản xuất phân phối và tiêu dùng dịch vụ quy định
Marketing dịch vụ. Phạm vi của Marketing dịch vụ rất rộng bao
gồm trước tiêu dùng, trong sản xuất phân phối tiêu dùng và sau tiêu
dùng.
Marketing là phương pháp quản lý của các nhà doanh nghiệp.
Phương pháp quản lý này ngày càng phát huy tác dụng và mang lại
kết quả rất to lớn. Người ta đã vận dụng Marketing sang các lĩnh
vực khác ngoài kinh doanh như: Marketing môi trường, Marketing
xã hội, Marketing chính trị, Marketing hàng hóa công cộng phi lợi
nhuận….Vì vậy khái niệm Marketing đã được mở rộng rất nhiều
chứ không còn bị bó gọn trong khái niệm Marketing truyền thống.
8
Và Marketing dịch vụ cũng là một trong những khái niệm
Marketing được mở rộng đó.
Chúng ta có thể hiểu: “ Marketing dịch vụ là sự thích nghi lý
thuyết và hệ thống vào thị trường dịch vụ, bao gồm quá trình thu
nhận, tìm hiểu, đánh giá và thỏa mãn nhu cầu của thị trường mục
tiêu bằng hệ thống các chính sách, các biện pháp tác động vào toàn
bộ quá trình tổ chức sản xuất, cung ứng và tiêu dùng dịch vụ thông
qua phân phối các nguồn lực của tổ chức. Marketing được duy trì
trong sự năng động qua lại giữa sản phẩm dịch vụ với nhu cầu của
người tiêu dùng và những hoạt động của đối thủ cạnh tranh trên
nền tảng cân bằng lợi ích giữa doanh nghiệp, người tiêu dùng và xã
hội” (Giáo trình Marketing dịch vụ, trường ĐHKTQD).
1.1.2.
1.1.2.1.
Những vấn đề cơ bản về Marketing dịch vụ.
Đặc điểm dịch vụ
Dịch vụ là một loại hàng hóa đặc biệt, nó có những nét đặc trưng
riêng mà hàng hóa hiện hữu không có. Dịch vụ có 4 đặc điểm nổi
bật:
- Dịch vụ không hiện hữu: Đây là đặc điểm cơ bản của dịch vụ.
Với đặc điểm này cho thấy dịch vụ là vô hình, không tồn tại dưới
dạng vật thể. Tuy vậy sản phẩm dịch vụ vẫn mang nặng tính vật
chất (ví dụ nghe một bài hát hay, bài hát không tồn tại dưới dạng vật
thể nhưng âm thanh là vật chất).
9
Trên thực tế từ hàng hóa hiện hữu tới dịch vụ phi hiện hữu có bốn
mức độ như sau:
+ Hàng hóa hiện hữu hoàn hảo (như bàn, ghế, bảng…)
+ Hàng hóa hoàn hảo bao gồm hàng hóa hiện hữu khi tiêu dùng
phải có dịch vụ đi kèm để tăng sự thỏa mãn (chè, café, …)
+ Dịch vụ chủ yếu, được thỏa mãn thông qua sản phẩm hàng hóa
hiện hữu (khách sạn, du lịch, hàng không, bệnh viện,…)
+ Dịch vụ hoàn hảo, hoàn toàn không hiện hữu (đào tạo, trông trẻ,
tư vấn luật pháp, văn hóa nghệ thuật…)
Đào tạo
Không
Dịch vụ dân sự
hiện
hữu
Hàng không
Du lịch
Đồ uống nhẹ
Trang sức
Hiện hữu
Bàn, ghế
Sơ đồ 1.1: Quan hệ giữa hàng hóa hiện hữu và
dịch vụ.
Tính không hiện hữu của dịch vụ gây nhiều khó khăn cho hoạt
động sản xuất cung cấp dịch vụ, khó khăn cho Marketing dịch vụ và
cho việc nhận biết dịch vụ.
10
Để nhận biết dịch vụ thông thường phải tìm hiểu qua những đầu
mối vật chất trong môi trường: hoạt động dịch vụ, chẳng hạn các
trang thiết bị, dụng cụ, trang trí nội thất, ánh sáng, màu sắc, âm
thanh và con người… có quan hệ trực tiếp tới hoạt động cung ứng
dịch vụ của doanh nghiệp.
- Dịch vụ không đồng nhất: Sản phẩm dịch vụ không tiêu chuẩn
hóa được. Do dịch vụ chịu sự chi phối của nhiều yếu tố khó kiểm
soát trước hết do hoạt động cung ứng, các nhân viên cung cấp dịch
vụ không thể tạo ta được dịch vụ như nhau trong thời gian làm việc
như nhau.Khách hàng tiêu dùng là người quyết định chất lượng dịch
vụ đưa vào cảm nhận của họ, sản phẩm dịch vụ sẽ có giá trị cao khi
thỏa mãn nhu cầu riêng biệt của khách hàng. Do vậy trong cung cấp
dịch vụ thường thực hiện cá nhân hóa, thoát ly khỏi những quy chế.
Điều đó càng làm cho dịch vụ tăng thêm mức độ khác biệt giữa
chúng.
- Dịch vụ không tách rời: Sản phẩm dịch vụ gắn liền với hoạt
động sản xuất và phân phối chúng. Các sản phẩm cụ thể không đồng
nhất nhưng đều mang tính hệ thống, đều từ cấu trúc của dịch vụ cơ
bản phát triển thành. Quá trình sản xuất gắn liền với việc tiêu dùng
dịch vụ. Người tiêu dùng cũng tham gia vào hoạt động sản xuất
cung cấp dịch vụ cho chính mình. Dịch vụ là liên tục và có hệ
thống.
11
- Sản phẩm dịch vụ không tồn trữ: Dịch vụ không thể tồn kho,
không cất trữ và không thể vận chuyển từ khu vực này tới khu vực
khác. Dịch vụ không tồn trữ được nên việc sản xuất và mua bán
dịch vụ bị giới hạn bởi không gian và thời gian, do vậy làm mất cân
đối quan hệ cung cầu cục bộ giữa các thời điểm khác nhau trong
ngày, trong tuần hoặc trong tháng.
Đặc tính không hiện hữu của dịch vụ quy định sản xuất và tiêu
dùng dịch vụ phải đồng thời, trực tiếp trong một thời gian giới hạn.
Nếu không tuân thủ những điều kiện đó sẽ không có cơ hội mua bán
và tiêu dùng chúng.
Qua khái niệm Marketing dịch vụ, ta cũng nắm rõ được một số
vấn đề cơ bản như:
+ Nghiên cứu nhu cầu, đặc điểm của thị trường mục tiêu và
những yếu tố chi phối thị trường mục tiêu.
+ Thỏa mãn nhu cầu có hiệu quả hơn các đối thủ cạnh tranh trên
cơ sở khai thác và huy động tốt các nguồn lực của tổ chức.
+ Thực hiện cân bằng động các mối quan hệ sản phẩm dịch vụ
(loại hình, số lượng, chất lượng) với sự thay đổi nhu cầu của khách
hàng.
+ Cân bằng ba lợi ích: Lợi ích của xã hội, của người tiêu dùng và
của người cung ứng trong sự phát triển bền vững.
12
Hoạt động Marketing dịch vụ diễn ra trong toàn bộ quá trình sản
xuất và tiêu dùng dịch vụ, bao gồm giai đoạn trước tiêu dùng, tiêu
dùng và sau tiêu dùng.
1.1.2.2.
Thị trường trong Marketing dịch vụ.
Thị trường trong Marketing khác với những khái niệm thị trường
của những sản phẩm hiện hữu, thị trường trong Marketing được
hiểu là những khách hàng tiềm năng có nhu cầu về sản phẩm của
doanh nghiệp, trong Marketing dịch vụ thị trường này được chia
thành 6 loại cơ bản (được mô tả theo sơ đồ sau):
Thị
trường
bên trong
Thị
trường
cung cấp
Thị trường
chuyển
giao
Thị trường khách hàng
Thị trường
tuyển
dụng
Thị
trường uy
lực
Sơ đồ 1.2: Thị trường dịch vụ
13
- Thị trường khách hàng: Doanh nghiệp trước hết phải tập trung
Marketing vào thị trường khách hàng. Đó là nhu cầu của người mau
đối với loại sản phẩm, dịch vụ nào đó. Mức tác động thấp nhất của
Marketing vào thị trường này là xây dựng mối quan hệ lâu dài với
khách hàng và thu hút khách hàng mới. Khách hàng dịch vụ rất
nhạy cảm , cần nghiên cứu các yếu tố văn hóa, xã hội, kinh tế, chính
trị chi phối họ. Trong Marketing dịch vụ quan tâm nhiều đến việc
duy trì khách hàng và kinh doanh lặp lại.
- Thị trường chuyển giao: Thị trường chuyển giao xuất hiện giữa
doanh nghiệp và các loại khách hàng của mình. Thị trường này
được hình thành từ nội tại các dịch vụ thành phần, các dịch vụ phụ
của hệ thống quá trình dịch vụ do nhiều thành viên tham gia cung
ứng. Họ phụ thuộc nhau, cung cấp dịch vụ cho nhau và cho khách
hàng.
- Thị trường cung cấp: Thị trường cung cấp ngày càng có nhiều
biến đổi và trở nên quan trọng không chỉ đối với dịch vụ mà còn đối
với hàng hóa hiện hữu. Hoạt động quan trọng của Marketing trên thị
trường này là tổ chức cung cấp các nguồn lực. Đó là việc hình thành
một số trung gian quan trọng, phát triển các mối quan hệ với những
nguồn lực cả hiện tại và tương lai. Triển khai kế hoạch Marketing
để phân phối nguồn lực cho các thị trường cung cấp đồng thời các
doanh nghiệp phải có kế hoạch phát triển nguồn lực thị trường.
14
- Thị trường tuyển dụng (bổ sung): Nguồn lao động có kĩ năng
luôn cần thiết và bức xúc trong chuyển giao dịch vụ. Đây là nguồn
lực ngày càng khan hiếm đối với các tổ chức kinh doanh dịch vụ và
các tổ chức kinh doanh khác. Quan hệ cung cầu trong thị trường này
diễn ra rất phức tạp và biến động. Do yêu cầu chất lượng dịch vụ
cao, nhu cầu lại năng động nên đòi hỏi lao động vừa có kĩ năng
chuyên sâu cao lại vừa đa dạng hóa ở một số loại ngành.
- Thị trường uy lực: Đây là một thị trường thích hợp cho
Marketing quan hệ. Bằng các giải pháp và chiến lược Marketing,
các doanh nghiệp dịch vụ tập trung nguồn lực thiết lập các quan hệ
của mình với các nhóm uy lực của thị trường dịch vụ nhằm tạo
thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Các tập đoàn uy lực trên thị trường bao gồm:
+ Tập đoàn tài chính-ngân hàng: Quyết định về vốn, về khả năng
thanh toán, lượng tiền mặt… làm cho hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp trở nên thông thoáng.
+ Những tập đoàn kinh doanh có uy tín và thế lực: Doanh nghiệp
cần có mối quan hệ tốt để thâm nhâp thị trường, tạo cơ hội cho
doanh nghiệp trong tương lai.
+ Các lực lượng chính trị: Chính trị thường gắn với luật pháp và
quyền lực, cần thực hiện các quan hệ để có được sự chấp nhận về
pháp lý đối với doanh nghiệp đồng thời thỏa mãn được những quy
chế của cơ quan quản lý nhà nước địa phương.
15
+ Các lực lượng thị trường (hiệp hội tiêu dùng, hiệp hội thương
mại, tổ chức bảo vệ môi trường…): Công ty cần tuân thủ các điều
luật và thiết lập mối quan hệ thân thiện với các nhóm, ủng hộ những
hoạt động đúng đắn và tích cực của họ.
- Thị trường bên trong: Đó là thị trường nội bộ trong công ty bao
gồm toàn bộ cán bộ công nhân viên chức, những nhà cung cấp và
khách hàng nội bộ. Khách hàng nội bộ cũng có nhu cầu và mong
muốn đòi hỏi doanh nghiệp phải thỏa mãn. Doanh nghiệp cần tiến
hành nghiên cứu nhu cầu, mong muốn, phân đoạn thị trường nội bộ,
tìm hiểu các nguyên nhân chi phối nhu cầu. Nhu cầu, mong muốn
của khách hàng nội bộ là những nhu cầu gắn liền với cuộc sống cá
nhân, gia đình họ như điều kiện làm việc, cơ chế giải phóng sức lao
động có kĩ năng, thu nhập, thăng tiến, làm việc và nghỉ ngơi, chế độ
đãi ngộ v..v..
Những công cụ Marketing dùng để thu hút khách hàng bên ngoài
được áp dụng để duy trì khách hàng nội bộ. Các hoạt động nghiên
cứu Marketing, các nỗ lực truyền thông cần hướng trực tiếp vào các
nhân viên và các lao động gián tiếp cũng như khách hàng bên ngoài
tạo ra và thu hút đội ngũ lao động có kỹ năng để tạo ra dịch vụ có
năng suất và chất lượng cao.
Những công cụ trong Marketing (Mar-mix) dịch vụ khác với
những công cụ trong Marketing hàng hóa. Trong Marketing hàng
hóa, Mar-mix bao gồm 4 chính sách bộ phận (4ps) là: Chính sách
16
sản phẩm; chính sách giá cả; chính sách phân phối và chính sách
xúc tiến hỗn hợp.
Trong Marketing dịch vụ những công cụ được mở rộng để phù
hợp với đặc thù của Marketing dịch vụ. Tới nay người ta đã thừa
nhận 7 yếu tố cơ bản thuộc công cụ Marketing dịch vụ đó là: Sản
phẩm dịch vụ, phí dịch vụ (giá cả), hoạt động giao tiếp dịch vụ (xúc
tiến dịch vụ), phân phối, con người, quy trình dịch vụ và hiện diện
vật chất. Thông thường được gọi là 7p (product service; price;
place; promotion; people; processes và physical evidence).
Các nhà Marketing sử dụng phối hợp các yếu tố trên với mức độ
quan trọng khác nhau tạo thành những khung Marketing riêng cho
từng dịch vụ cụ thể với đoạn thị trường riêng biệt.
1.1.3. Mar-mix trong Marketing dịch vụ
1.1.3.1. Chính sách sản phẩm dịch vụ
Sản phẩm nói chung là một khái niệm bao quát gồm những sự
vật hoặc những tập hợp hoạt động nào đó sẽ đem lại những giá trị
cho khách hàng. Thực sự khách hàng không phải mua hàng hóa hay
dịch vụ mà họ mua những lợi ích, những giá trị do hàng hóa, dịch
vụ mang lại.
Dịch vụ là một tập hợp các hoạt động bao gồm các nhân tố
không hiện hữu, tạo ra chuỗi giá trị và mang lại lợi ích tổng thể. Do
đó trong dịch vụ người ta thường phân ra theo hai mức là dịch vụ
cốt lõi (cơ bản) và các dịch vụ bao quanh.
17
+ Dịch vụ cơ bản là dịch vụ chính, quyết định hệ thống dịch vụ
của doanh nghiệp. Nó thỏa mãn một loại nhu cầu nhất định vì nó
mang lại một loại giá trị lợi ích cụ thể giúp khách hàng phân biệt
dịch vụ này với dịch vụ khác.
+ Dịch vụ bao quanh là những dịch vụ phụ, thứ sinh, nó tạo ra
những giá trị phụ thêm cho khách hàng, giúp khách hàng có cảm
nhận tốt hơn về dịch vụ cơ bản. Càng nhiều dịch vụ bao quanh càng
tăng thêm lợi ích cho khách hàng và giúp họ phân biệt rõ dịch vụ
công ty cung cấp và các dịch vụ của đối thủ cạnh tranh.
* Những quyết định cơ bản về dịch vụ
- Quyết định về dịch vụ cơ bản cung ứng cho thị trường. Dịch vụ
cơ bản được xác định từ nhu cầu chung về loại dịch vụ trên thị
trường, được định hướng về loại hình dịch vụ cơ bản cụ thể. Dịch
vụ cơ bản gắn liền với thị trường mục tiêu.
- Quyết định dịch vụ sơ đẳng: Dịch vụ sơ đẳng phụ thuộc vào
cấu trúc dịch vụ, các mức dịch vụ và các doanh nghiệp cung cấp.
- Dịch vụ tổng thể: Là hệ thống dịch vụ bao gồm dịch vụ cơ bản,
dịch vụ bao quanh, dịch vụ sơ đẳng. Khi quyết định cung cấp dịch
vụ tổng thể cần xem xét lợi ích tổng thể mà hệ thống dich vụ mang
lại đồng thời so sánh nó với lợi ích mà hệ thống dịch vụ của các
hãng cạnh tranh mang lại.
- Quyết định đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ: Thực hiện đa dạng
hóa dịch vụ nhằm thỏa mãn nhiều loại nhu cầu của khách hàng,
18
- Xem thêm -