LỜI NÓI ĐẦU
Marketing ngày nay đã trở thành một công cụ rất quan
trọng cho các công ty kinh doanh hiện đại. Tuy nhiên để hiẻu cho
được và đúng bản chất của Marketing thì không phải đơn giản,
thậm chí ngay cả những người đứng đầu của các công ty lớn và
nhất là các công ty Nhà nước cũng cho rằng Marketing là huy
động lực lượng bán hàng của mình vào thị trường để bán tất cả
những thứ gì mà công ty làm ra. Quan niệm như vậy sẽ dẫn đến
thảm hoạ cho công ty.
Qua quá trình thực tập tại công ty vật tư vận tải và xây
dựng công trình giao thông (TRANCO) với mong muốn được sử
dụng những kiến thức đã học góp phần làm tăng năng lực
Markting tại công ty TRANCO, người viết xin chọn đề tài : " Một
số giải pháp Marketing hỗn hợp trong kinh doanh thương mại
ở công ty Vật tư vận tải và xây dựng công trình giao thông" làm
đề tài nghiên cứu cho chuyền đề tốt nghiệp của mình. Công ty
TRANCO có đề tài này chỉ giới hạn trong lĩnh vực kinh doanh
thương mại của công ty.
Người viết xin chân thành cảm ơn TS.Nguyễn Hữu Lai đã
giúp đỡ dìu dắt tận tình giúp cho người viết có thể hoàn chỉnh
được chuyên đề tốt nghiệp này. Đồng thời cũng xin cảm ơn
phòng kinh doanh của công ty TRANCO đã tạo điều kiện thuận
lợi cho người viết trong quá trình thực tập tại đây.
CHƯƠNG I: THỊ TRƯỜNG CÁC LOẠI VẬT TƯ VẬI TẢI,
XÂY DỰNG CÔNG TRÌNH VÀ KẾT QUẢ KINH DOANH
CỦA CÔNG TY TRANCO
I. ĐẶC ĐIỂM CỦA THỊ TRƯỜNG CÁC LOẠI VẬT TƯ
VẬN TẢI, XÂY DỰNG CÔNG TRÌNH
1. Phân loại hàng vật tư
Các tổ chức mua rất nhiều chủng loại hàng và dịch vụ khác
nhau. Việc phân loại hàng vật tư theo công dụng sẽ đưa ra những
chiến lược Marketing thích hợp trên thị trường vật tư công
nghiệp. Hàng vật tư công nghiệp có thẻ phân theo sản phẩm và
giá trị tương đối cảu chúng. Ta có thể phân ra thành bao nhóm:
- Vật tư xây dựng và phụ tùng những hạn mục cơ bản
- Vật tư phụ
- Dịch vụ vật tư
* Vật liệu và phụ tùng: những thứ hàng tham gia toàn bộ
vào sản phẩm của nhà sản xuất những ví dụ về vật liệu và phụ
tùng là những vật liệu thành phần ví dụ sắt, sợi, xi măng động cơ
nhỏ, vơ xe, vật đúc. Các vật liệu thành phần thường được gia
công tiếp, chẳng hạn như gang phải đượcluyện thành thép. Sợi
được dệt thành vải. Do các thành phần vật liệu này đã được tiêu
chuẩn hoá, nên thông thường giá cả và mức độ tin cậy vào người
cung ứng là những yếu tố quan trọng nhất đối với việc mua hàng.
Các phụ tùng tham gia toàn bộ vào các thành phẩm và không thay
đổi hình dạng, như các động cơ điệu nhỏ được lắp vào máy hút
bụi chân không vơ xe lắp vào các xe ôtô. Hầu hết các vật liệu phụ
tùng được bán trực tiếp cho người sử dụng công nghiệp theo các
đơn đặt hàng thường được đưa trước một năm, hay sớm hơn. Giá
cả và dịch vụ là những vấn đề marketing quan trọng còn nhãn
hiệu và quảng cáo xu hướng trở thành ít quan trọng hơn.
Hạng mục cơ bản : là những thứ hàng có tuổi thọ dài tạo
thuận lợi cho việc phát triển và quản lý thành phẩm, Chúng có hai
nhóm công trình và thiết bị.
Công trình bao gồm phần xây dựng ví dụ nhà xưởng và văn
phòng và trang bị ví dụ máy phát điện máy dập goõ, máy tính,
thang máy. Công trình là phần mua sắm chủ yếu, chúng thường
được mua trực tiếp từ người sản xuất sau một thời gian thương
lượng dài. Những người sản xuất sử dụng lực lượng bán hàng
giỏi, thường những người bán hàng phải có trình độ nghiệp vụ
chuyên môn cao. Người sản xuất phải luôn sẵn sàng thiết kế theo
yêu cầu kỹ thuật và đảm bảo những dịch vụ hậu đãi. Việc quảng
cáo có được sử dụng nhưng ít quan trọng hơn nhiều so với việc
bán hàng trực tiếp
Thiết bị bao gồm những thiết bị lưu động của xưởng máy
và công cụ (ví dụ, máy đánh chữ bàn làm việc). Những kiểu trang
thiết bị này không trở thành một bộ phận của thành phẩm. Chúng
chỉ hỗ trợ cho quá trình sản xuất, chúng có tuổi thọ ngắn hơn các
công trình, nhưng dài hơn so với tuổi thọ của các vật tư phụ. Tuy
có một số nhà sản xuất thiết bị bán trực tiếp, nhưng thông thường
thì họ sử dụng những người trung gian, bởi vì thị trường phân tán
về mặt địa lý, người mua rất đông và đơn đặt hàng nhỏ. Chất
lượng, tính năng giá cả và dịch vụ là những vấn đề quan trọng
trong công việc lựa chọn người bán. Lực lượng bán hàng có xu
hướng quan trọng hơn quảng cáo. hàng có xu hướng quan trọng
hơn quảng cáo mặc dù quảng cáo có thể sử dụng một cách có hiệu
quả.
*Vật tư phụ và dịch vụ: Vật tư phục vụ sản xuất (ví dụ, các
chất bôi trơn, than, giấy đánh máy, chổi) vật tư phụ tương đương
như hàng dùng ngày trong công nghiệp và chúng thường được
mua sắm moọt cách dễ dàng bằng phương thức tái đặt hàng.
Chúng thường được bán qua trung gian, bởi vì khách hàng rất
đông và phân tán về mặt đại lý, giá trị đơn vị của những thứ hàng
này thấp. Giá cả và dịch vụ là những vấn đề quan trọng vì các mặt
hàng được tiêu chuẩn hoá hoàn toàn và ít có sự ưu thích nhãn
hiệu.
Dịch vụ kinh doanh bao gồm dịch vụ bảo trì và sửa chữa
(ví dụ, lau chuì cửa sổ, sửa chữa máy tính) và dịch vụ tư vấn ví dụ
tư vấn về pháp luật quản lý quảng cáo. Dịch vụ bảo trì và sửa
chữa thường được thực hiện theo hợp đồng. Dịch vụ bảo trì
thường do những người sản xuất những thiết bị độc đáo đảm
nhận. Dịch vụ tư vấn thường cần đến trong trường hợp mua sắm
phục vụ nhiệm vụ mới và người mua vật tư lựa chọn người cung
cấp trên cơ sở uy tín và con người của họ.
Như vậy ta đã tháy rằng đặc điểm cảu sản phẩm sẽ có ảnh
hưởng quan trọng đến chiến lược Marketing. Đồng thời chiến
lược Marketing cũng còn phụ thuộc vào những yếu tố khác nữa,
như giai đoạn, trong chu kỳ sống của sản phẩm chiến lược cảu các
đối thủ cạnh tranh và điều kiện kinh tế.
2. Đặc điểm về khu vực thị trường
Các loại hàng vật tư vận tải và xây dựng công trình do tính
chất và đặc điểm là những loại hàng hoá bán chủ yếu cho các
khách hàng công nghiệp, sẽ lượng mua một lần lớn, quan hệ giữa
người mua và người bán chặt chẽ, điều này ảnh hưởng đến đặc
điểm về khu vực thị trường của những công ty kinh doanh các
loại hàng hoá này.
Các loại hàng vật tư vận tải, xây dựng các công trình có
khu vực thị trường rất rộng lớn, và phân tán về mặt địa lý. Các
khách hàng thường ở khu vực khác nhau về mặt địa lý. Điều này
đã làm cho chi phí vận chuyển sản phẩm tăng lên rất lớn, trong
khi đó các loại hàng vật tư cho vận tải và xây dựng bao giờ khách
hàng cũng đòi hỏi công ty phaỉ vận chuyển đến tận chân công
trình. Do vậy kinh doanh loại mặt hàng này là khó và có nhiểu
rủi ro.
Hiện nay với tốc độ đô thị hoá của Việt Nam rất cao, xuất
hiện thêm nhiều khu dân cư và các đô thị với dẫn đến việc đầu tư
xây dựng cho các cơ sở hạ tầng giao thông. Đây là một cơ hội lớn
cho ngành vật tư vận tải. Tuy nhiên do đặc điểm kinh doanh của
ngành này là coi khu vực thị trường rộng lớn và mỗi khu vực thị
trường lại có những đặc điểm và địa lý, khí hậu, địa hình khác
nhau về địa lý, khí hậu, địa hình khác nhau dẫn đến đòi hỏi, yêu
cầu các loại vật tư cho mỗi khu vực cũng khác nhau.
Hiện nay các loại hàng vật tư vận tải và xây dựng công
trình giao thông như nhựa đường ắc quy, linh kiện lắp ráp
ôtô…thì nền công nghiệp trong nước chưa thể đáp ứng được do
đó hầu hết vẫn phải nhập khẩu từ nước ngoài về đáp ứng cho nhu
cầu cần trong nước.
3. Đặc điểm khách hàng trên thị trường
Một đặc diểm quan trọng của thị trường các loại vật tư đó
là hầu hết các khách hàng của công ty đều là các khách hàng công
nghiệp. Hành vi qua lại hiện hoặc ẩn của việc ra quyết định từng
bước, thông qua đó các trung tâm lợi nhuận chính thức hay không
chính thức được đại diện bởi các đại biểu có thẩm quyền. (1) Xác
định sự cần thiết về các loại vật tư, (2) tìm và xác định các nhà về
các loại tiền hàng, (3) tìm và xác định các nhà nhà cung cấp tiềm
tàng, (4) đàm phán và đi tới thoả thuận về các điều khoản mua,
(5) hoàn thành việc mua (6) đánh giá chất lượng mua hàng đối với
việc thực hiện các mục tiêu của tổ chức.
Như vậy hành vi mua công nghiệp không chỉ đơn giản là
hành động mà ai đó tiến hành, mà giữa những người mua, người
sử dụng, những người có ảnh hưởng người cung cấp và những
người khác. Mua là một bước thực hiện của toàn bộ quá trình ra
quyết định vì thế hiếm khi nó là hành động đơn độc của chính nó.
Các khách hàng của thị trường vật tư hầu hết đều là các tổ
chức, các công ty, Doanh nghiệp khác do đó quyết định mua rất
phức tạp, liên quan đến nhiều phòng ban và nhiều nhân tố ảnh
hưởng đến quyết định mua.
3.1. Những người tham gia vào thị trường mua các loại vật tư
vận tải xây dựng công trình.
Họ là các công ty kinh doanh thương mại, các công ty xây
dựng, các công ty vận tải, thị trường này thì người mua có một số
đặc điểm khác biệt so với thị trường hàng tiêu dùng. Thông
thường trên thị trường này có ít người mua hơn tuy nhiên hon
những người mua lớn với số lượng đặt mua lớn và giá trị cao do
một đơn đặt hàng. Quan hệ giữa khách hàng và tàm cung ứng rất
chặt chẽ do có ít khách hàng và tầm quan trọng cùng quyền lực
của những khách hàng tầm cỡ. Người cung ứng thường sẵn sàng
cung cấp hàng hoá theo ý khách hàng cho các hợp đồng đều đổ
dồn về những người cung ứng nào đảm bảo được những quy cách
kỹ thuật người đi mua hàng là những người chuyên nghiệp, họ
đào tạo.
Họ học tập suốt đời để hành nghề của mình sao cho mua
hàng có lợi nhất.
Trong quá trình ra quyết định mua có nhiều người ảnh
hưởng đến việc mua hàng cho phụ thuộc nhiêù vào yêu cầu của
các công trình xây dựng giao thông. Do đó các công ty bán hàng
phải cử những đại diện bán hàng được đào tạo kỹ và thường là cả
những tập thể bán hàng để làm việc với những người mua có trình
độ nghiệp vụ giỏi.Mặc dù quảng cáo, kích thích tiêu thụ và tuyên
truyền giữ một vài trò quan trọng những biện pháp khuyến mãi
các loaị hàng vật tư vận tải và xây dựng công trình, nhưng việc
bán hàng trực tiếp vẫn là công cụ Marketing chính.
3.2. Những người tác động vào quá trình mua các mặt hàng vật
tư vận tải và xây dựng
- Người sử dụng: là những người có nhu cầu đổi mới trang
thiết bị cho vận tải, sắm mới phương tiện vại tải. Và các chủ đầu
tư xây dựng
- Người ảnh hưởng: là những người có ảnh hưởng đến
quyết định mua sắm. Họ thường giúp xác định quy cách kỹ thuật
và cung cấp thông tin để đánh giá các phương án. Các nhân viên
kỹ thuật, kỹ sư là người ảnh hưởng quan trọng.
- Người quyết định: là những quyết định và yêu cầu của vật
tư hoặc nhà cung cấp vật tư.
- Người phê duyệt thường là người người đứng đầu phê
chuẩn những đề nghị của người quyết định hay người mua.
- Người mua: là người chính thức lựa chọn người cung ứng
và thương lượng những điều kiện mua hàng.
4. Đặc điểm về sản phẩm
Nhân tố quyết định của bất kỳ công ty Marketing công
nghiệp thành đạt nào là sự phát triển và đưa ra liên tục sản phẩm
và dịch vụ đáp ứng được nhu cầu khách hàng và đạt được những
mục tiêu của công ty. Trên thị trường vật tư cũng vậy, sản phẩm
và dịch vụ mới chiếm phần quan trọng trong sản lượng bán và lợi
nhuận. Chiến lược sản phẩm là một yếu tố Marketing - Mix quan
trọng trong thị trường vật tư và sẽ còn rất quant rọng trong tương
lai. Sở dĩ như vậy vì sản phẩm trong thị trường vật tư có những
đặc điểm trong thị trường vật tư có những đặc điểm khác so với
thị trường hàng tiêu dùng. Chiến lược sản phẩm của thị trường vật
tư liên quan tới các vấn đề như là xác định các chính sách sản
phẩm chủ yếu của công ty, thiết lập những mục tiêu sản phẩm cụ
thể phù hợp với các mục tiêu Marketing đã xác định từ trước đó.
Bảng 1: So sánh nhân tố chiến lược trong thị trường
tiêu thụ và thị trường vật tư
Yếu tố
Thị trường tiêu dùng Thị trường vật tư
Sự quan trọng của Quan trọng những Rất
sản
phẩm
quan
trọng,
trong yếu tố giá cả và xúc nhiều khi quan trọng
Marketing hỗn hợp
tiến mạnh hơn
hơn các yếu tố khác
của Marketing - Mix
Người mua và người Người mua và người Người mua vật tư
sử dụng
sử
dụng
thường không phải là người
sử dụng
cùng là một
Các hoạt động hỗ Quan
trợ sản phẩm
trọng trong Thường được coi
một vài sản phẩm trọng bởi vì nhiều
tiêu dùng lớn nhưng khách hàng bao gồm
không tôn tại trong cả sự hỗ trợ trong
nhiều
sản
phẩm các quy cách mua
đòi hỏi của họ
khác
Đóng gói
Cả cho mục đích Chủ yếu cho mục
bảo vệ và xúc tiến
đích bảo vệ hơn là
xúc tiến
Các đặc tính hấp dẫn Thường
cần
thiết Thường không quan
bề ngoài như là màu cho sự thành công trọng với phần lớn
sắc, hình dáng
của sản phẩm
sản phẩm
Quy cách cụ thể
Chung chung tậm Sản phẩm thường
chí
với
các
sản được thiết kế theo
phẩm lớn
quy cách yêu cầu
của
khách
hàng
công nghiệp
Sự quan trọng của Thường là một nhân Thường không là
nghiên
Marketing
cứu tố lớn trong sự phát yếu tố chỉ đạo trong
triển sản phẩm mới
sự phát triển sản
phẩm mới
Do đặc điểm về sản phẩm của thị trường vật tư có những
khác biệt so với thị trường hàng tiêu dùng như vậy nên hoạt động
marketing hàng tiêu dùng như vậy nên hoạt động marketing của
các công ty kinh doanh vật tư vận tải và xây dựng công trình xây
dựng có những nét đặc thù riêng.
Các loại mặt hàng vật tư vận tải và xây dựng công trình
thường bán cho các khách hàng công nghiệp mua vèe để phục vụ
cho mục đích kinh doanh ít khi họ mua về để phục vụ cho nhu
cầu tiêu dùng của Doanh nghiệp mình. Hiện nay lĩnh vực vận tải
của Việt Nam đang phát triển rất mạnh bằng việc phát triển trên
hệ thống vận tải công cộng như xe khách, xe bus do đó nhu cầu
về vật tư cho vận tải như săm lốp ôtô và phụ tùng thay thế đang
rất có tiềm năng phát triển. Vật tư cho ngành xây dựng giao thông
như nhựa đường đang có nhu cầu rất lớn, tuy nhiên loại mặt hàng
này đáng chủ yếu là phải nhập khẩu và việc vận chuyển bảo quản
thì phải sử dụng, những phương tiện và thiết bị chuyên dụng đặc
biệt do đó các Doanh nghiệp kinh doanh loại mặt hàng này chưa
có nhièu đã mở ra cơ hội lựa chọn kinh doanh.
Các loại sản phẩm vật tư vận tải và xây dựng có những đặc
tính kỹ thuật, tính năng phải có những người có trình độ chuyên
môn hiểu biết và được đào tạo thì mới có thể kinh doanh hay mua
chúng do đó quá trình mua bán loại mặt hàng này đòi hỏi phải
thông qua nhiều khâu kiểm định về mặt kỹ thuật chặt chẽ thì
khách hàng mới chấp nhận ký hợp đồng mua. Việc bán chúng chủ
yếu là nhà bán hàng cá nhân trực tiếp, chứ không thể bán chúng
trên cửa hàng do khách hàng xem.
5. Các đối thủ cạnh tranh trên thị trường
Hiểu được các đối thủ cạnh tranh của mình, là điều kiện
cực kỳ quan trọng để có thể lập kế hoạch marketing có hiệu quả.
Công ty phải thườgn xuyên so sánh các sản phẩm của mình, giá
cả, các kênh và hoạt động khuyến mãi của mình đối với các đối
thủ cạnh tranh. Nhờ vậy mà họ có thể phát hiện được những lĩnh
vực mình có ưu thế cạnh tranh hày bị bất lợi trong cạnh tranh.
Tất cả các công ty phải quan tâm đến các đối thủ cạnh
tranh của mình ngang với khách hàng mục tiêu.
Do đặc điểm về sản phẩm của thị trường vật tư vận tải và
xây dựng nên cạnh tranh trên thị trường này cũng có những nét
đặc thù. Các đối thủ cạnh tranh trên thị trường thường là các đối
thủ cạnh tranh lớn, có nguồn lực mạnh, mức độ chuyên môn hoá
cao.
Tuy thị trường vật tư vận tải và xây dựng có tốc độ tăng
trưởng khá nhưng việc mua hàng thường là dựa vào mối quan hệ,
làm ăn lâu dài, các nhà cung ứng lớn, có uy tín trên thị trường, bởi
vậy chỉ có thể tăng mức tiêu thụ bằng cách giành giật các hợp
đòng từ các đối thủ cạnh tranh của công ty.
Các công ty hoạt động kinh doanh trên thị trường vật tư
vận tải xây dựng nay chủ yếu là các công ty thuộc Bộ giao thông
vận taỉ ngoài ra có một số các công ty thuộc Bộ thương mại hay
Bộ xây dựng nhưng những nhà cung ứng lớn vẫn chủ yếu là các
công ty xuất nhập khẩu của Bộ giao thông vận tải.
Như vậy hầu hết các công ty này đều là các Doanh nghiệp
Nhà nước, cạnh tranh với nhau quyết liệt để giành giật được các
hợp đồng về cho mình. Do hầu hết các đối thủ cạnh tranh trên thị
trường đều là các Doanh nghiệp Nhà nước, điều đó đã tác động
đến chiến lược cạnh tranh của các công ty. Các công ty này vẫn bị
ảnh hưởng của cơ chế ràng buộc bởi các cơ quan chủ quản. Do đó
các công ty này vẫn còn thụ động, kém linh hoạt trong kinh
doanh. Việc quan tâm đúng mức cho cạnh tranh vãn còn là bị bỏ
ngỏ, mặc dù đó là một yếu tố quan trọng đưa công ty tới thành
công trong điều kiện kinh doanh ngày nay. Một điều đặc biệt
quan trọng cho vấn đề cạnh tranh trên thị trường này là cạnh tranh
giữa các nhãn hiệu không phải là chủ yếu lựa chọn sản phẩm của
nhà cung ứng này hay nhà cung ứng khác, chủ yếu là dựa vào giá
cả và dịch vụ bán hàng chỉ từ một số loại phụ tùng ôtô săm lốp…
Do đó các đối thủ cạnh tranh thường tập trung mạnh vào
việc cố gắng giảm giá và tăng dịch vụ bán hàng cho khách nhằm
thu hút khách hàng.
II. KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TY TRANCO
2.1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty Tranco
Trong quá trình phát triển nền kinh tế của một quốc gia,
vấn đề đầu tiên tạo tiền đề cho quá trình phát triển đó có cơ sở hạ
tầng, khi có cơ sở hạ tầng vững chắc, các ngành nghề khác trong
nền kinh tế sẽ được đầu tư và phát triển. Dựa trên cơ sở lý luận
này, có thể khẳng định vị trí quan trọng đặc biệt của ngành giao
thông vận tải trong nền kinh tế thị trường. Công ty vật tư vận tải
và xây dựng công trình giao thông ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu
xã hội trong quá trinhf phát triển nền kinh tế đất nước. Công ty
Tranco đã có một quá trình lịch sử phát triển lâu dài trước khi có
tên chính thức như hiện nay.
Sự ra đời của công ty được hệ thống lại bằng quá trình xắp
xếp tổ chức như sau:
Ngày 4 tháng 12 năm 1991 Bộ giao thông vận tải quyết
định số 2450 kết thúc Liên hiệp Xí nghiệp vận tải ô tô để thành
lập các công ty
- Công ty Tranco khi đó được thành lập từ quyết định
2450/4-12-1991 mang tên :
Công ty khai tác XNK vật tư kỹ thuật vận tải ô tô
- Ngày 5 tháng 04 năm 1993 Bộ Giao thông vận tải ra
quyết định 617 thành lập lại Doanh nghiệp Nhà nước mang tên
công ty vật tư kỹ thuật vận tải ô tô.
- Ngày 5 tháng 02 năm 1996 đổi tên thành công ty Vật tư
kỹ thuật và vận tải
- Trước sự ra đời của ngành nghề xây dựng giao thông,
ngày 6 tháng 08 năm 1996 Bộ trưởng Bộ giao thông vận tải Lê
Ngọc Hoàn đã ra quyết định số 2053 đổi tên thành công ty vật tư
vận tải và xây dựng công trình giao thông là tên công ty hiện nay.
Tên giao dịch là : Tranco
Trụ sở giao dịch của công ty: 834 Phố Lý Thường Kiệt,
Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội là một Doanh nghiệp Nhà nước, trực
thuộc Bộ Giao thông vận tải, bước vào những kết quả to lớn góp
phần quan trọng trong công cuộc xây dựng đất nước. Với chức
năng nhiệm vụ chủ yếu là kinh doanh xuất nhập khẩu vật tư, thiết
bị phương tiện ngành giao thông vận tải, công ty đã chiếm vị trí
quan trọng trong ngành giao thông vận tải, do vậy công ty đã có
mặt ở nhiều nơi có nhiều chi nhánh xí nghiệp.
2.2. Chức năng, nhiệm vụ của công ty
* Chức năng chính là nhập khẩu vật tư máy móc thiết bị
phục vụ ngành giao thông vật tư xây dựng công trình giao thông.
* Nhiệm vụ của công ty Tranco
Bao gồm những nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Kinh doanh xuất nhập khẩu phương tiện vận tải, vật tư
thiết bị giao thông vận tải
- Kinh doanh vận tải ô tô và đại lý vận tải
- kinh doanh kho bãi, xếp dỡ, giao nhận hàng hoá, vận
chuyển container, hàng siêu trường, siêu trọng.
- sản xuất cơ khí, và sửa chữa dịch vụ ô tô
- Xây dựng công trình dân dụng, cầu cống loại vừa và nhỏ
- Đào tạo lái xe ô tô, mô tô, dạy nghề dịch vụ về du lịch,
thương mại.
- ứng dụng công nghệ làm sạch môi trường
- Tổ chức hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm
việc có thời hạn ở nước ngoài
Với các nhiệm vụ trên công ty quản lý và sử dụng nguồn
vốn Nhà nước giao khai tác và tự tạo nguồn bằng nhiều cách, hình
thức hợp lý để sản xuất kinh doanh đồng thời bảo đảm, trang trải
về mặt tài chính tự tạo điều kiện thúc đẩy kinh doanh phát triển
tạo hiệu quả cao.
2.3. cơ cấu tổ chức bộ máy của công ty
Để làm tròn và phát huy chức năng quyền hạn của mình
công ty đã từng bước sắp xếp lại bộ máy theo hướng tinh giảm,
gọn nhẹ và có hiệu qủa tạo nên sự độc lập và phụ thuộc lẫn nhau
giữa các bộ phận của Doanh nghiệp là đáp ứng tốt nhất nhu cầu
cần ngành giao thông vận tải.
Dưới đây là sơ đồ bộ máy quản lý của công ty sơ đồ 1
Doanh nghiệp Nhà
TỔNG
Đơn vị hạch
nước hạch toán nội
GIÁM ĐỐC
toán trực
bộ có tư cách pháp
thuộc công ty
PHÓ TỔNG GIÁM
PHÓ TỔNG GIÁM
ĐỐC NỘI CHÍNH
ĐỐC KINH DOANH
Phòng tư
Phòng
Phòng
Phòng
Ban
vấn đầu
kinh
Tài chính
Tổ chức
quản lý
tư kế
doanh
kế toán
hành
nhà
Công ty gồm có 535 cán bộ công nhân viên không kể hợp
đồng thời vụ trong đó số cán bộ công nhân viên có trình độ đại
học, cao đẳng, là 152 người, chiếm 20,8% số có trình độ trung
cấp là 40 người chiếm 7,4% số kỹ thuật viên và thợ là 258 người
chiếm 23,6% (85 người) tuỳ theo trình độ và năng lực mỗi người
mà công ty phân bố vào các bộ phận thuộc công ty một cách hợp
lý để đảm bảo đem lại hiệu quả kinh doanh cao nhất.
* Chức năng, nhiệm vụ của các phòng ban thuộc công ty
- Tổng giám đốc: là người đứng đầu công ty tổng giám đốc
công ty tổ chức điều hành mọi hoạt động của công ty theo chế độ
một thủ trưởng và chịu trách nhiệm toàn diện trước pháp luật.
- Phó tổng giám đốc : gồm một Phó tổng giám đốc phụ
trách công việc nội dung và một phó tổng giám đốc phụ trách
nhiệm vụ về mặt công tác mình phụ trách.
Đồng thời Phó Tổng giám đốc còn có chức năng tham
mưu, cố vấn cho việc quản lý của tổng giám đốc, hỗ trợ và hợp
tác với phòng nghiệp vụ nhằm đạt được một cách tối ưu kế hoạch
công ty
- Phòng tổ chức hành chính
+ Tham mưu cho ban giám đốc trong việc thay đổi và tổ
chức cơ cấu cán bộ trong công ty, tuyển chọn biên chế cán bộ
công nhân viên của toàn công ty.
+ Phụ trách công việc quản trị hành chính và một số công
tác khác dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ban giám đốc. Ngoài ra,
phòng còn có nhiệm vụ phụ trách, quản lý, sửa chữa cơ sở vật
chất của công ty.
- Phòng tài chính kế toán
+ Giúp Ban giám đốc thực hiện tốt chế độ hạch toán, thống
kê tài chính và báo cáo tài chính
+ Tham mưu quản lý, chỉ đạo nghiệp vụ về công tác tài
chính kế toán, thống kê của công ty. Cụ thể như sau:
Phân phối điều hoà vốn vay, phục vụ cho sản xuất và kinh
doanh của công ty. Bố trí vốn cho sản xuất kinh doanh, cung ứng
vật tư xây dựng cơ bản, sửa chữa công trình cho công ty.
Tham mưu cho ban giám đốc ban hành theo dõi và thực
hiện các quy chế pháp lý về kinh tế tài chính, quyết toán và phân
tích hoạt động sản xuất kinh doanh sử lý những tồn tại trong sản
xuất kinh doanh về mặt tài chính.
- Phòng kinh doanh
+ Tham mưu cho lãnh đạo về quản lý nghiệp vụ kinh
doanh, xuất nhập khẩu và thị trường, xây dựng kế hoạch xuất
nhập khẩu.
+ Lo các thủ tục hạn ngạch xuất nhập khẩu, giấy phép và
các thủ tục xuất nhập khẩu, tham mưu cho lãnh đạo ký kết hợp
đồng nhập khẩu.
+ Trực tiếp quản lý các mặt hàng kinh doanh tìm biện pháp
giải quyết hàng tồn, hướng dẫn kiểm tra việc quản lý kho, cùng
phòng tài chính, kế toán đánh gía tài sản.
- Phòng tư vấn đầu tư kế hoạch
- Xem thêm -