Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Một số biện pháp tăng cường công tác tiêu thụ sản phẩm tại nhà máy gỗ cầu đuống ...

Tài liệu Một số biện pháp tăng cường công tác tiêu thụ sản phẩm tại nhà máy gỗ cầu đuống ( www.sites.google.com/site/thuvientailieuvip )

.PDF
62
71
141

Mô tả:

MỞ ĐẦU Trong những năm gần đây, kể từ khi nền kinh tế chuyển đổi từ cơ chế hoá tập trung nên kinh tế thị trường, hoạt động sản xuất kinh doanh có nhiều biến đổi. Nếu như trước đây các doanh nghiệp chỉ lo tới việc làm sao hoàn thành được các chỉ tiêu do Nhà nước đặt ra thì ngày nay họ vừa phải lo sản xuất lại vừa phải lo tiêu thụ. Chính vì lý do đó mà công tác tiêu thụ sản phẩm trở thành một trong những yếu tố quyết định sự thành bại của một doanh nghiệp . Trong lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh thì tiêu thụ hàng hoá là mối quan tâm hàng đầu của một doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Tiêu thụ sản phẩm là giai đoạn cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh , là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp . Tiêu thụ sản phẩm thực hiện mục đích và tiêu dùng. Nó là khâu lưu thông hàng hoá , là cầu nối trung gian giữa sản xuất và tiêu dùng. Xuất phát từ vai trò và tầm quan trọng của công tác tiêu thụ sản phẩm , trong thời gian thực tập tại Nhà máy Gỗ Cầu Đuống, được sự hỗ trợ giúp đỡ nhiệt tình của các cô chú và lãnh đạo Nhà máy, đặc biệt là sự ân tình chỉ đạo, trực tiếp hướng dẫn của Thầy Đỗ Quốc Bình, em đã chọn chủ đề "s" làm đề tài luận văn của mình. Luận văn này gồm 3 chương chính: Chương I: Cơ sở lý luận của công tác tiêu thụ sản phẩm . Chương II: Thực trạng tiêu thụ sản phẩm ở Nhà máy Gỗ Cầu Đuống. Chương III: Một số giải pháp nhằm tăng cường công tác tiêu thụ sản phẩm ở Nhà máy Gỗ Cầu Đuống. CHƯƠNG I CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CÔNG TÁC TIÊU THỤ Tiêu thụ sản phẩm hàng hoá là một trong saua chức năng hoạt động chủ yếu của doanh nghiệp (chức năng tiêu thụ, hậu cân trong kinh doanh, tài chính, kế toán, quản trị doanh nghiệp). Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động tiêu thụ sản phẩm hàng hoá dịch vụ đòi hỏi phải tiến hành một loạt các công việc đa dạng, liên quan đến chức năng khác và diễn ra ở một phạm vi rất rộng. Các nhà quản trị doanh nghiệp phải xây dựng chiến lược phát triển và tiêu thụ sản phẩm hàng hoá dịch vụ : đê ra hàng loạt chính sách đúng đắn liên quan đến việc tiêu thụ sản phẩm hàng hoá dịch vụ cũng như phải biết sử dụng phương tiện thích hợp. I. THỰC CHẤT VÀ VAI TRÒ CỦA CÔNG TÁC TIÊU THỤ SẢN PHẨM 1. Thực chất của công tác tiêu thụ sản phẩm Tiêu thụ sản phẩm là giai đoạn cuối của quá trình sản xuất kinh doanh, là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp . Tiêu thụ sản phẩm thực hiện mục đích của sản xuất là đưa sản phẩm từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng. Nó là khâu lưu thông hàng hoá, là cầu nối trung gian giữa một bên là sản xuất phân phối và một bên là tiêu dùng. Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phải tự mình quyết định 3 vấn đề trọng tâm, đó là: sản xuất gì? Cho ai? Bao nhiêu? cho nên việc tiêu thụ sản phẩm cần được hiểu theo nghĩa rộng hơn. Đó là một quá trình baogồm nhiều khâu từ việc nghiên cứu thị trường, xác định nhu cầu khách hàng, tổ chức lại sản xuất,xúc tiến bán hàng nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Nguyên tăc cơ bản trong tiêu thụ sản phẩm là nhận thức và thoả mãn đầy đủ nhu cầu của khách hàng về các sản phẩm, đảm bảo tính liên tục trong quá trình sản xuất tiêu thụ sản phẩm, tiết kiệm và nâng cao trách nhiệm giữa các bên khi tham gia giao dịch thương mại. 2. Vai trò của công tác tiêu thụ sản phẩm Trong một doanh nghiệp, toàn bộ các hoạt động sản xuất kinh doanh từ khâu đầu đến khâu cuối cùng của chu kỳ sản xuất diễn ra một cách nhịp nhàng, liên tục. Các khâu có mối liên hệ mật thiết với nhau; khâu trước là khâu cơ sở, là tiền đề cho việc thực hiện khâu sau. Trong đó tiêu thụ sản phẩm là khâu cuối cùng, là mắt xích kết thúc của một chu kỳ kinh doanh. Công tác tiêu thụ sản phẩm gắn người sản xuất với người tiêu dùng, nó giúp các nhà sản xuất hiểu thêm về kết quả sản xuất của mình và nhu cầu khách hàng. Về phương diện xã hội thì tiêu thụ sản phẩm có vai trò trong việc cân đối giữa cung và cầu. Thông qua tiêu thụ sản phẩm mà xác định nhu cầu của xã hội nói chung và từng khu vực nói riêng với từng sản phẩm. trên cơ sở đó các doanh nghiệp sẽ xây dựng được các kế hoạch phù hợp nhằm dạt hiệu quả cao nhất. Tiến hành tốt công tác tiêu thụ sản phẩm là động lực thúc đẩy sản xuất, tăng nhanh vòng quay vốn kinh doanh vì sự biến động thơi gian của một chu kỳ phụ thuộc một phần vào tiêu thụ sản phẩm. Tóm lại, để hoạt động sản xuất kinh doanh được tiến hành thường xuyên, liên tục, hiệu quả thì công tác tiêu thụ sản phẩm phài được tiến hành tốt. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, việc tiêu thụ sản phẩm có ý nghĩa quan trọng quyết địn sự sống còn của các đơn vị sản xuất kinh doanh. II. NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA CÔNG TÁC TIÊU THỤ SẢN PHẨM 1. Tổ chức nghiên cứu thị trường và xác định chính sách Marketing 1.1 Nhiệm vụ chủ yếu của nghiên cứu thị trường Vắn tắt nhất có thể hiểu thị trường là nơi diễn ra các hoạt động (trực tiếp và gián tiếp) mua bán hàng hoá. Nghiên cứu thị trường là sự nhận thức một cách khoa học, có hệ thống mọi nhân tố tác động tới thị trường mà các doanh nghiệp phái tính đến khi ra quyết định. Nghiên cứu thị trường tạo ra các thông tin cần thiết về ảnh hưởng của thị trường tới việc quyết định về chính sách tiêu thụ sản phẩm hàng hoá. Vì vậy nghiên cứu thị trường không chỉ giới hạn ở nghiên cứu thị trường hiện tại mà còn cả thị trường tương lai. Mục tiêu của nghiên cứu thị trường là xác định thực trạng của thị trường theo các tiêu thức có thể lượng hoá về nguyên tắc có thể đạt được bằng khoa học thống kê. Nghiên cứu thị trường tìm cách giải thích các ý kiến về cầu hàng hoá, dịch vụ do doanh nghiệp cung cấp, lý do không mua hàng, dịch vụ do doanh nghiệp hay lý do về sự trội hơn của các cơ hội cạnh tranh sản phẩm. Đây là cơ sở để doanh nghiệp đưa ra các quyết định của mình. Nghiên cứu thị trường phải quan tâm 3 lĩnh vực: Cầu hàng hoá và dịch vụ, cạnh tranh về hàng hoá dịch vụ, guồng máy phân phối. a/ Phân tích cầu Phân tích nhu cầu để tìm cách biết được các dữ liệu về cầu trong hiện tại hoặc trong khoảng thời gian tương lai xác định - khả năng chấp nhận của thị trường. Nghiên cứu cầu sản phẩm hàng hoá, dịch vụ thông qua những đối tượng có cầu sản phẩm hàng hoá, dịch vụ cho sản xuất và tiêu dùng của các doanh nghiệp, gia đình và các tổ chức khác. Sản phẩm hàng hoá chia làm 2 loại: Vật phẩm tiêu dùng và tư liệu sản xuất. Nếu doanh nghiệp xác định cầu về hàng hoá tư liệu sản xuất thì doanh nghiệp phải số lượng và quy mô các doanh nghiệp có cầu về loại tư liệu sản xuất mà doanh nghiệp phải cung ứng. Việc xác định cầu loại này có điều kiện tiền đề ở các quá trình mua sắm diễn ra ở các doanh nghiệp có khả năng mua sắm vì chỉ có thế mới có được chìa khoá chính xác khuôn khổ xác định cầu thị trường. Nghiên cứu thị trường còn phải tìm ra các khả năng có thể ảnh hưởng tới cầu. Đó chẳng hạn là giá cả sản phẩm do doanh nghiệp xác định và cả các đối thủ cạnh tranh, giá cả các sản phẩm thay thế, thu nhập người có cầu, co giãn cầu,… nếu doanh nghiệp xác định được các đại lượng đó đối với một sản phẩm của một chương trình sản xuất sẽ đem lại cho doanh nghiệp khả năng kết hợp các phương tiện để xây dựng kế hoạch tiêu thụ của mình. b/ Phân tích cạnh tranh cung. Bên canh việc nghiên cứu và quan sát cầu sản phẩm hàng hoá , dịch vụ, sản phẩm doanh nghiệp còn phải hiểu hết về các đối thủ cạnh tranh cung cấp cho thị trường cùng loại sản phẩm hàng hoá và dịch vụ. Trước hết, nghiên cứu thị trường phải xác định rõ đối thủ cạnh tranh và phải quan tâm tới các nhân tố có ý nghĩa đối với chính sách tiêu thụ của các đối thủ như thị phần, chương trình sản xuất, đặc biệt là chất lượng và hình thức của các sản phẩm cạnh tranh, chính sách giá cả, phương pháp bán hàng, phương pháp quảng cáo, phục vụ khách hàng, các điều kiện thanh toán và tín dụng. Doanh nghiệp còn phải thường xuyên theo dõi xem liệu các đối thủ cạnh tranh có kịp thời có các biện pháp gía vả, quảng cáo cần thiết không? Tất nhiên không phái lúc nào doanh nghiệp cũng phân tích được mọi đối thủ cạnh tranh của mình trong nhiều trường hợp chỉ cần phân tích với những đối thủ chủ yếu, chiếm thị phần cao trên thị trường. c/ Phân tích mạng lưới tiêu thụ. Việc tiêu thụ sản phẩm đạt kết quả ở một mức độ nào đó không chỉ phụ thuộc vào các yếu tố cung cấp sản phẩm hàng hoá , dịch vụ trên thị trường mà còn phụ thuộc rất lớn vào việc tổ chức mạng lưới tiêu thụ chúng. Mạng lưới tiêu thụ được tổ chức cụ thể như thế nào lại phụ thuộc rất lớn vào đặc điểm sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp sản xuất sẽ hình thành mạng lưới tiêu thụ sản phẩm không giống với một doanh nghiệp thương mại hay dịch vụ. Trong phân tích mạng lưới tiêu thụ doanh nghiệp phải chỉ rõ được ưu nhược điểm của từng kênh tiêu thụ và so sánh kênh tiêu thụ của doanh nghiệp với đối thủ cạnh trành. 1.2 Chính sách định hướng tiêu thụ. Để có được chiến lược sản phẩm đúng đắn, bên cạnh việc tìm hỉêu các nhu cần của thị trường và khả năng đáp ứng của doanh nghiệp thì doanh nghiệp phải nghiên cứu kỹ chu kỳ sống của sản phẩm ; nó luôn gắn liền với một thị trường nhất định vì nhu cầu về một loại sản phẩm luôn có sự biến động theo không gian thời gian. Thông thường chu kỳ sống của một sản phẩm trải qua 4 thời kỳ (4 pha): Pha triển khai, Pha tăng trưởng, Pha chín muồi, Pha suy thoái. * Các chiến lược trong pha triển khai: Ở giai đoạn này các doanh nghiệp có thể áp dụng 1 trong 4 chiến lược sau tuỳ thuộc vào đặc điểm của từng loaị sản phẩm và thị trường. + Chiến lược "Thu lượm" nhanh phối hợp giá cả, khuyến mại cao. Chiến lược này có hiệu quả khi phân lớn khách hàng đều biết đến sản phẩm, có sự quan tâm tiềm ẩn cao với sản phẩm. + Chiến lược "Thu lượm" chậm phối hợp giá cao khuyến mại thấp. chiến lược này thích hợp với quy mô thị trường nhỏ, khách hàng có biết đến sản phẩm của doanh nghiệp, không nhạy cảm với giá cả,ít có sự cạnh tranh. + Chiến lược "Thâm nhập" nhanh: Phối hợp giá thấp khuyến mại tăng. Chiến lược này thích hợp khi tiềm năng thị trường lớn, khách hàng chưa biết sản phẩm của doanh nghiệp, nhạy cảm với giá, đối thủ tiềm ẩn mạnh, có thể tiết kiệm được do quy mô sản xuất lớn. + Chiến lược "Thâm nhập chậm phối hợp giá thấp, khuyến mại ở mức thấp. Chiến lược này thích hợp với thị trường tiềm năng lớn, sản phẩm được biết đến ở mức độ cao. * Chiến lược ở giai đoạn tăng trưởng: Giai đoạn tăng trưởng được đặc trưng bởi lượng hàng hoá bán ra nhanh. Vấn đề quan trọng trong giai đoạn nay là phải đảm bảo nguồn lực để tăng trưởng cùng thị trường. Mỗi lĩnh vực cần phải sử dụng nguồn lực ở đây là: + Tập trung cải tiến chất lượng và phát triển mẫu mã mới: + Tập trung khai thác các đoạn thị trường mới: + Tìm kiếm các kênh tiêu thụ mới… * Chiến lược giai đoạn bão hoà: Giai đoạn bão hoà là giai đoạn có xu hướng kéo dài nhất được đặc trưng bởi số lượng hàng hoá bán ra ổn định. Mục tiêu của giai đoạn này là tìm ra các chiếm lược phù hợp với các cơ hội trên thị trường và bảo vệ thị phần hiện có. Có 3 phương án khả dụng, đó là: + Chú trọng đến việc tìm các đoạn thị trường mà trước đó chưa khai thác; + Cải tiến chất lượng, kiểu dáng, tạo ra tính năng cho sản phẩm ; + Cải tiến hiệu quả nếu điều kiện cho phép trong các khâu sản xuất và tiêu thụ, các công đoạn Marketing. * Chiến lược trong giai đoạn suy thoái: Đặc trưng của giai đoạn này là lượng hàng bán giảm, lợi nhuận thấp hoặc không có lợi nhuận. Nếu lượng hàng hoá bán ra có biểu hiện tiếp tục giảm thì ban lãnh đạo cần xem xét để đổi mới hoặc loại bỏ sản phẩm đó bởi lẽ việc giữ lại sản phẩm yếu kém có thể gây cho doanh nghiệp tốn kém trong tương lai cũng như tạo ra sản phẩm mới. 1.3 Chính sách giá Việc quy định mức giá bán cho một sản phẩm của doanh nghiệp sản xuất kinh doanh được gọi là chính sách giá. Mức giá bán này có thể là mức giá bán cho các trung gian hoặc người khách hàng cuối cùng. Việc quy định sản phẩm là một quyết định quan trọng đối với doanh nghiệp vì giá cả sản phẩm luôn được coi là công cụ mạnh mẽ hữu hiệu trong sự cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Nó làm ảnh hưởng to lớn tới khối lượng sản phẩm tiêu thụ, tác động mạnh tới thu nhập doanh nghiệp. Để có thể lựa chọn được mức giá hợp lý cho sản phẩm của mình trước hết doanh nghiệp cần xác định giới hạn trên và giới hạn dưới trên cơ sở tính toán mức chi phí và phân tích dự đoán tình hình thị trường. Sơ đồ trang bên thể hiện các bước quy định giá sản phẩm. Sơ đồ 1: Các bước định giá sản phẩm Phân tích thị Tính toán và trường và ước phân tích chi phí đoán lượng bán Xác định vùng giá (giới hạn cao thấp) và các mức giá dự Đánh giá lựa chọn mức giá tối ưu Cơ cấu giá Báo cáo và thực hiện 1.4 Quảng cáo Hoạt động quảng cáo có thể hiểu là hoạt động nhằm giới thiệu sản phẩm hàng hoá dịch vụ của doanh nghiệp cho khách hàng, gây sự chú ý của khách hàng đối với sản phẩm hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp làm cho khách hàng quen biết có thiện cảm và ngày càng tăng thiện cảm đối với sản phẩm hàng hoá dịch vụ của doanh nghiệp. Phương tiện quảng cáo rất đa dạng và phong phú. Tuỳ đặc điểm của sản phẩm hàng hoá dịch vụ như đặc điểm của doanh nghiệp mà chúng ta có thể lựa chọn và kết hợp các phương tiện quảng cáo khác nhau: Báo chí, áp phích, hội trợ triển lãm,…. Các yêu cầu quan trọng nhất cần đặt ra cho công tác quảng cáo là: Thông tin quảng cáo cần ngắn gọn, cụ thể, rõ ràng và tập trung trên nguyên tắ chỉ đưa vào những thông tin mà khách hàng quan tâm như chất lượng, giá cả và tính có thể so sánh. Thông tin quảng cáo phải bao hàm trong đó tính nghệ thuật nhằm thu hút khách hàng. Hiệu quả của quảng cáo có được là nhờ độ tin cậy của quảng cáo. Muốn vậy thông tin quảng cáo cần phải chính xác. 2.Tổ chức hoạt động tiêu thụ 2.1 Xác định kênh tiêu thụ Việc xác định hệ thống kênh tiêu thụ sản phẩm hàng hoá dịch vụ phụ thuộc vào đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và đặc điểm của sản phẩm hàng hoá dịch vụ. Các doanh nghiệp sản xuất có thể tiêu thụ sản phẩm của mình thông qua con đường trực tiếp gián tiếp. Trong trường hợp tiêu thụ gián tiếp thì được thông qua các doanh nghiệp thương mại bán buôn và bán lẻ và các đại lý của mình. Sơ đồ 2: Tổ chức kênh tiêu thụ sản phẩm Kênh ngắn: Doanh nghiệp Người tiêu dùng sản xuất Doanh nghiệp Đại lý Người tiêu dùng sản xuất Kênh dài: Môi giới Doanh Người Người Người nghiệp sản bán buôn bán lẻ tiêu dùng Đại lý 2.2 Tổ chức công tác bán hàng Việc tổ chức công tác bán hàng gồm trong đó rất nhiều nội dung khac nhau. Chúng ta chỉ đề cập ở đây một số nội dung cơ bản được trình bày một cách khái quát. Do đặc điểm của công tác bán hàng là giao tiếp với khách hàng vì vậy nên lựa chọn người bán hàng phải có đầy đủ điều kiện về hình thức, nghiệp vụ chuyên môn, nghệ thuật giao tiếp và ứng xử những điều kiện rất quan trọng trước hết đối với công tác tổ chức bán hàng. Bên cạnh đó là công việc trưng bày và bố trí hàng hoá. Hàng bày bán phải đảm bảo yêu cầu dễ thấy để khách hàng dễ tiếp cận với hàng hoá. Tuy nhiên do điều kiện về diện tích và không gian bán hàng luôn giới hạn nên việc bố trí cần theo ưu tiên tăng doanh thu thì phải được ưu tiên ở chỗ thuận lợi nhất, những mặt hàng được ưa chuộng phải được xắp xếp vào vị trí hấp dẫn để thu huát khách hàng. 3. Tổ chức hoạt động sau bán hàng Phát triển công tác bán hàng được thực hiện nhịp nhàng đồng bộ tại mọi điểm bán hàng của doanh nghiệp nhằm giới thiệu sản phẩm mới, tăng cường việc bán hàng sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp. Tuy nhiên phát triển bán hàng còn nằm ngay ở việc tổ chức hoạt động sau bán hàng. Việc tổ chức này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc giữ khách hàng cũ và thu hút khách hàng mới. Các hoạt động quan trọng nhất là: + Có phiếu hướng dẫn cách sử dụng kèm theo sản phẩm; + Nội dung hướng dẫn phải đầy đủ rõ ràng song phải trình bày ngắn gọn và dễ hiểu; + Trực tiếp hướng dẫn cách sử dụng khi bán sản phẩm cho khách hàng; CHƯƠNG II THỰC TRẠNG CÔNG TÁC TIÊU THỤ SẢN PHẨM Ở NHÀ MÁY GỖ CẦU ĐUỐNG I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ NHÀ MÁY GỖ CẦU ĐUỐNG 1. Lịch sử hình thành và phát triển của Nhà máy Để thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất trong công cuộc xây dựng các cơ quan xí nghiệp ở miền Bắc, năm 1956 Nhà máy Gỗ Cầu Đuống được khởi công xây dựng và chính thức đi vào hoạt đồng tháng 9 năm 1958 với tổng diện tích mặt bằng 138.610 m2, phía trước giáp Quốc lộ số 1, bên cạnh là sông Đuống thuộc địa bàn thị trấn Đức Giang huyện Gia Lâm, Hà Nội, cách trung tâm thủ đô 9 km. Đây là một Nhà máy chế biến gỗ đầu tiên của ngành Công nghiệp Việt Nam với hệ thống dây chuyển sản xuất hiện đại nhâts Đông Nam á do nước Cộng hoà xã hội Chủ nghĩa Tiệp Khắc viện trợ. Ban đầu có hai phân xưởng: Phân xưởng dán chuyên sản xuất gỗ dán, gỗ xẻ, gỗ lạng với công suất thiết kế 5000 m3 một năm và Phân xưởng Mộc chuyên sản xuất hàng mộc với công suất thiết kế 1500 sản phẩm chuẩn (SPC) một năm tổng số lao động là 1000 người. Nhà máy cũng rất vinh dự bởi sau một năm hoạt động được đón Bác Hồ về thăm tháng 10 năm 1959, đón Bác Tôn Đức Thắng về chúc Tết ở Khu công nhân năm 1959. Quá trình phát triển của Nhà máy có thể chia thành 3 giai đoạn như sau:  Giai đoạn 1 (1958 - 1994) Trong thời kỳ chiến tranh chống Mỹ, Nhà máy đã nhiều lần bị máy bay Mỹ ném bom làm sập nhà cửa và hỏng nặng máy móc thiết bị (MMTB), công nhân phải đi sơ tán nhiều nơi. Đến tận năm 1973, Nhà máy mới được phục hổi một cách chắp vá và tiếp tục sản xuất. Năm 1980, dây chuyền sản xuất bút chì của Nhà máy Văn phòng phẩm Hồng Hà được chuyển về Nhà máy Gỗ Cầu Đuống. Năm 1984, Nhà máy sát nhập với Công ty Diêm Thống Nhất và lấy tên là Xí nghiệp Liên hiệp Gỗ Diêm Cầu Đuống nhằm sử dụng hợp lý nguồn nguyên liệu đầu vào và hỗ trợ nhau cùng phát triển nhưng do suy nghĩ đặc thù của một vài cấp trong ban lãnh đạo rằng như vậy sẽ không tạo được khối gắn kết chặt chẽ, vì vậy, đến đầu năm 1988, Gỗ và Diêm lại tách riêng ra. Năm 1990 -1991, một số thiết bị chủ yếu của dây chuyền sản xuất bút chì do Trung Quốc chế tạo được thay thế bằng thiết bị của Nhật do nguồn vốn SIDA Thuỵ Điển tài trợ. Trong giai đoạn này Nhà máy đã nhiều lần được người người cấp vốn đầu tư cho khôi phục nhà xưởng và thiết bị để phục hồi và duy trì sản xuất. Năm 1991, bằng nguồn vốn vay, Nhà máy đã đầu tư xây dựng dây chuyền sản xuất đũa gỗ từ gỗ Bồ đề. Năm 1992, Nhà máy Gỗ Cầu Đuống được Bộ Công nghiệp nhẹ cho phép đầu tư đại tu và bổ sung hoàn chỉnh dây chuyền sản xuất gỗ dán, gỗ ván ghép, đồ mộc nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm các trong nước và xuất khẩu bằng nguồn vốn tự có và vốn vay đầu tư ngắn hạn của Ngân hàng Công thương. Đây là thời kỳ kinh doanh hiệu quả nhất, là cơ sở sản xuất gỗ số một Việt Nam. Nhìn chung ở giai đoạn này tuy gặp khó khăn bởi chiến tranh nhưng Nhà máy vẫn tồn tại và phát triển bởi sản phẩm Nhà máy sản xuất ra được phân phối theo chỉ tiêu của Bộ Công nghiệp nhẹ và việc nhập gỗ được căn cứ theo chỉ tiêu của Nhà nước quy định. Giá vật tư mua vào và sản phẩm bán ra đều theo sự chỉ đạo của Nhà nước, mọi hoạt động đều dưới sự bảo trợ của Nhà nước.  Giai đoạn 1 (1994 - 1997) Khoảng đầu năm 1994, sau khi xoá bỏ bao cấp đối với Nhà máy, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh trở nên khó khăn hơn, sản phẩm sản xuất ra không còn được phân phối như trước nữa và nguyên vật liệu đầu vào cũng không được phân bổ theo chỉ tiêu của Bộ Lâm nghiệp. Vì vậy Nhà máy phải tự cân đối đầu vào và đầu ra hợp lý để đảm bảo sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Trong sự cạnh tranh không lành mạnh, Nhà máy phải vất vả đương đầu với các cơ sở sản xuất tư nhân bởi họ có thể trốn thuế và một số thủ tục giấy tờ liên quan đến giá thành của họ thấp hơn 18%- 20% giá mua của Nhà máy. Ngoài ra việc thu mua gỗ tròn gặp nhiều khó khăn bởi: + Một số quy định mới về khai thác rừng của Nhà nước, địa phương làm cho giá nguyên vật liệu đầu vào tăng cao kéo theo sự tăng giấ thành sản phẩm. + Trước đây, ngành chế biến gỗ nộp thuế doanh thu 4%, nay theo Nghị định 96CP của Chính phủ ban hành ngày 27 tháng 12 năm 1995 tăng thuế chế biến gỗ leen 6% (thực hiện từ năm 1996). Đứng trước một loạt những khó khăn thách thức đó, Nhà máy quyết định sản xuất đũa gỗ do khó khăn về nguyên vật liệu đầu vào cũng như giá thành cao không được thị trường chấp nhận. Thay vào đó, Nhà máy sử dụng một phần dây chuyền để sản xuất que kem, que đè lưỡi phục vụ y tế nhằm tận dụng nguyên vật liệu nhưng cũng không có kết quả mấy. Từ 1000 lao động đã giảm xuống còn gần 300 do nghỉ hưu, chờ việc hoặc chuyển đơn vị công tác vậy mà số lao động còn lại vẫn không đủ việc làm. Nhà máy làm ăn thua lỗ mấy năm liên tiếp, thu nhập của người lao động thấp, bình quân năm 1997 chỉ có 338.000 đồng một người một tháng. Do không có khả năng thanh toán nên Ngân hàng tạm ngừng cho vay. Trước tình hình đó, Bộ Công nghiệp đã có quyết định số 05 ngày 25/10/1997 sát nhập Nhà máy Gỗ Cầu Đuống vào Công ty Giấy Bãi Bằng và chính thức trở thành một thành viên của Công ty Giấy Bãi Bằng kể từ ngày 01/01/1997. Dưới đây là một vài con số thống kê về tình hình tài chính của Nhà máy Gỗ Cầu Đuống tại thời điểm bàn giao cho Công ty Giấy Bãi Bằng (tính đến ngày 30/10/1997): (1) Lỗ cộng dồn (2) + Nợ phải trả khách hàng đồng = 1.832 triệu + Thuế phải nộp cho Nhà nước = 5.773 triệu = 4.935 triệu đồng + v.v… (3) + Phải thu của khách hàng + Giá trị vật tư thành phẩm tồn kho đồng + Tiền mặt tồn quỹ Như vậy, nếu thu được hết nợ và bán được toàn bộ giá trị sản phẩm, vật tư, nguyên liệu tồn kho thì Công ty Giấy Bãi Bằng vẫn phải bù vào tổng số tiền là: 1.832 + 5.773 - 4.935 = 2.670 triệu đồng. Đây là thời kỳ yếu kém nhất của Nhà máy.  Giai đoạn 3 (1998 - 2000) Sau khi được Công ty Giấy Bãi Bằng tiếp nhận, Nhà máy đã lắp đặt thêm dây chuyền sản xuất với công suất thiết kế 1500 tấn giấy 1 năm, duy trì sản xuất các mặt hàng truyền thống như gỗ dán các loại, hàng mộc đảm bảo chất lượng cao; tổ chức sắp xếp lại lao động, ổn định việc làm cho 294 người, bố trí sản xuất hợp lý hơn nhằm phục hồi dần sản xuất kinh doanh và Nhà máy bắt đầu có lãi. Hiện nay Nhà máy đang đầu tư thêm dây chuyền sản xuất giấy vệ sinh cao cấp Tissue với tổng vốn đầu tư ban đầu 100 tỉ, công suất thiết kế 10.000 tấn giấy một năm. Nhà máy dự định tạm nhập giấy ngoại về thực hiện khâu bao gói cuối cùng để làm quen dần với thị trường (tiến hành vào đầu
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan