Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Mối quan hệ giữa văn học và hiện thực qua tiểu thuyết việt nam sau năm 1986...

Tài liệu Mối quan hệ giữa văn học và hiện thực qua tiểu thuyết việt nam sau năm 1986

.PDF
180
71
149

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ĐINH VĂN THUẦN MỐI QUAN HỆ GIỮA VĂN HỌC VÀ HIỆN THỰC QUA TIỂU THUYẾT VIỆT NAM SAU NĂM 1986 LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC HÀ NỘI - 2017 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ĐINH VĂN THUẦN MỐI QUAN HỆ GIỮA VĂN HỌC VÀ HIỆN THỰC QUA TIỂU THUYẾT VIỆT NAM SAU NĂM 1986 Chuyên ngành: Lý luận văn học Mã số: 62 22 01 20 LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. GS.TS. Đinh Xuân Dũng 2. PGS.TS. Phạm Xuân Thạch HÀ NỘI - 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Kết quả nghiên cứu và các dẫn liệu trong luận án là trung thực và chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào khác. Nếu sai, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Tác giả Luận án Đinh Văn Thuần LỜI CẢM ƠN Tôi chân thành cảm ơn GS. TS Đinh Xuân Dũng và PGS. TS Phạm Xuân Thạch, hai người thầy đã luôn tận tâm định hướng, gợi mở và chỉ dẫn cho tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận án. Sự bao dung và năng lượng tư duy mà các Thầy đã truyền cho tôi là không thể viết hết ở đây. Tôi chân thành cảm ơn các thầy cô ở bộ môn Lý luận văn học, Khoa Văn học, Phòng Đào tạo sau đại học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội; Thường trực Hội đồng, Lãnh đạo Văn phòng Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu. Xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, anh chị em đồng nghiệp đã tận tình giúp đỡ, động viên tôi trong suốt chặng đường đã qua. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 1. Tính cấp thiết của đề tài ..........................................................................................1 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...........................................................................2 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ..........................................................................3 4. Phương pháp nghiên cứu .........................................................................................3 5. Đóng góp mới của luận án ......................................................................................4 6. Cấu trúc của luận án ................................................................................................5 Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU .......................................6 1.1. Tổng quan về mối quan hệ giữa văn học và hiện thực trong tƣ duy lý luận văn học thế giới...................................................................................................6 1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học và hiện thực ở Việt Nam từ sau năm 1986 .........................................................................16 1.3. Tổng quan tình hình nghiên cứu tiểu thuyết Việt Nam sau năm 1986 nhìn từ mối quan hệ giữa văn học và hiện thực ...................................................24 Chƣơng 2. MỐI QUAN HỆ VĂN HỌC - HIỆN THỰC VÀ SỰ VẬN ĐỘNG, ĐỔI MỚI TIỂU THUYẾT VIỆT NAM SAU NĂM 1986 .........................................31 2.1. Về mối quan hệ giữa văn học và hiện thực ....................................................31 2.1.1. Văn học như là hình thức mô hình hóa hiện thực ..................................31 2.1.2. Cơ sở xem xét mô hình hiện thực trong tác phẩm văn học ....................37 2.2. Tiểu thuyết nhƣ là một hình thức mô hình hóa hiện thực ...........................44 2.2.1. Thể loại như một mã chi phối quá trình mô hình hóa hiện thực ............44 2.2.2. Đặc trưng thể loại và vấn đề mô hình hóa hiện thực trong tiểu thuyết .....46 2.3. Bối cảnh lịch sử, văn hóa và sự vận động, đổi mới của tiểu thuyết Việt Nam sau năm 1986 ..................................................................................................51 2.3.1. Bối cảnh lịch sử, văn hóa của tiểu thuyết Việt Nam sau năm 1986 .......51 2.3.2. Sự vận động, đổi mới tiểu thuyết Việt Nam sau năm 1986 trong dòng chảy tiểu thuyết Việt Nam hiện đại ..........................................................57 Chƣơng 3. MÔ HÌNH HIỆN THỰC MÔ PHỎNG TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM SAU NĂM 1986 ..........................................................................................66 3.1. Bản chất mô hình hiện thực mô phỏng trong tiểu thuyết Việt Nam sau năm 1986 ..................................................................................................................66 3.1.1. Mô hình hiện thực mô phỏng và vị thế của các chủ thể giao tiếp ..........66 3.1.2. Mô hình hiện thực mô phỏng và bức tranh thế giới ...............................70 3.2. Tổ chức truyện kể.............................................................................................75 3.2.1. Tính thống nhất của hệ thống motif chủ đề ............................................75 3.2.2. Tổ chức xung đột và sự kiện ...................................................................80 3.3. Nhân vật truyện kể ...........................................................................................84 3.3.1. Xu hướng ưu trội của nguyên tắc phân tuyến ........................................84 3.3.2. Xu hướng ưu trội của mô hình nhân vật tính cách .................................91 3.4. Tổ chức trần thuật ...........................................................................................97 3.4.1. Tính ưu trội của hệ thống trần thuật phân cấp ......................................97 3.4.2. Tính ưu trội của hệ thống mô tả phong cách hóa ................................102 Chƣơng 4. MÔ HÌNH HIỆN THỰC SẮP ĐẶT TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM SAU NĂM 1986 ................................................................................106 4.1. Bản chất mô hình hiện thực sắp đặt trong tiểu thuyết Việt Nam sau năm 1986 ................................................................................................................106 4.1.1. Mô hình hiện thực sắp đặt và vị thế của các chủ thể giao tiếp ............106 4.1.2. Mô hình hiện thực sắp đặt và bức tranh thế giới .................................109 4.2. Tổ chức truyện kể...........................................................................................111 4.2.1. Theo dòng ý thức ..................................................................................112 4.2.2. Ghép mảnh............................................................................................117 4.2.3. Lai ghép các hình thức thể loại ............................................................125 4.3. Nhân vật truyện kể .........................................................................................128 4.3.1. Xu hướng tẩy trắng và mô hình nhân vật phân rã ...............................128 4.3.2. Xu hướng thăm dò và mô hình nhân vật thử nghiệm ...........................132 4.4. Tổ chức trần thuật .........................................................................................135 4.4.1. Vị thế ưu thắng của hệ thống trần thuật đa trị .....................................135 4.4.2. Nhại và vị thế ưu thắng của hệ thống ngôn từ lai ghép tự do ..............138 KẾT LUẬN ............................................................................................................146 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN .......................................................................................151 TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................152 PHỤ LỤC ...............................................................................................................165 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài 1.1. Mối quan hệ giữa văn học và hiện thực là một trong những vấn đề trung tâm, cốt lõi của lý luận văn học, được quan tâm nghiên cứu từ thời cổ đại đến nay. Nhận thức bản chất mối quan hệ này có ý nghĩa quan trọng đối với sáng tạo và tiếp nhận văn học. Ở Việt Nam, quá trình hiện đại hóa lý luận văn học diễn ra trong điều kiện lịch sử, văn hóa đặc biệt của thế kỷ XX, gắn liền với những cuộc kháng chiến vệ quốc, vì vậy, mối quan hệ giữa văn học và hiện thực chưa có điều kiện được nghiên cứu, nhận diện thường xuyên và đầy đủ. Sau năm 1986, đất nước bước vào công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế, lý luận văn học Việt Nam đã có bước phát triển mới, trong đó vấn đề mối quan hệ giữa văn học và hiện thực được kiến giải đa dạng, linh hoạt hơn. Tuy nhiên, trong không gian văn hóa, tri thức đa dạng và cởi mở, cùng với sự tiếp xúc ngày càng sâu rộng với văn học thế giới, nhiều lý thuyết văn học đã được giới thiệu và tiếp nhận ở nước ta, khiến cho thực tiễn tồn tại hai xu hướng lý thuyết đối lập, hoặc phủ nhận mối quan hệ giữa văn học và hiện thực, hoặc quá đề cao vai trò của hiện thực đối với sáng tạo trong kiến giải mối quan hệ này. Thực trạng đó khiến cho những công trình lý luận văn học ở Việt Nam khi bàn về mối quan hệ giữa văn học và hiện thực vẫn bộc lộ khoảng cách nhất định với thực tiễn sáng tác đang ngày càng trở nên đa dạng và mới mẻ. Vì vậy, nhận thức mối quan hệ giữa văn học và hiện thực, lý giải khoa học hơn về mối quan hệ này cần phải được tiếp tục nghiên cứu một cách hệ thống, sâu sắc hơn nữa. 1.2. Sau năm 1986, trong bối cảnh đổi mới toàn diện đất nước và hội nhập quốc tế, văn học nói chung, nhất là văn xuôi ngày càng phát triển phong phú với những kết quả bước đầu đã được ghi nhận. Đặc biệt, với vị trí và ưu thế năng động của thể loại, tiểu thuyết ngày càng hấp dẫn các nhà văn và dần trở thành trung tâm của đời sống văn học. Càng về sau, trong sự tiếp xúc, giao lưu với các thành tựu văn học hiện đại thế giới, đặc biệt là phương Tây, các cây bút tiểu thuyết ngày càng tích cực và tỏ ra nhạy bén trong đổi mới. Tác phẩm của họ đã tạo ra diện mạo đa dạng, bề bộn của tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới. Thực tiễn đó đặt ra những vấn đề lý thú, “vẫy gọi” những tiếp cận từ nhiều chiều hướng khác nhau. Mặt khác, theo M. Bakhtin, “mỗi một thể loại, nhất là thể loại 1 lớn, thể hiện một thái độ thẩm mỹ đối với hiện thực, một cách cảm thụ, nhìn nhận, giải minh thế giới và con người” [15, tr. 7]. Như vậy, mỗi một thể loại văn học đều có những đặc trưng nghệ thuật riêng, tuy nhiên, trong một giai đoạn văn học, việc khảo sát thể loại trung tâm sẽ giúp phát hiện, nhìn nhận những quy luật vận động của cả nền văn học. Trong thời gian qua, đồng hành cùng sáng tạo, nhiều nhà nghiên cứu, phê bình đã vận dụng các lý thuyết hiện đại như thi pháp học, tự sự học, phân tâm học,… để khảo sát, đánh giá những cách tân về phương diện nội dung cũng như hình thức tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới. Đây là những hướng nghiên cứu gắn với đặc trưng của văn học, tính năng nghệ thuật của thể loại, mang lại không ít phát hiện mới. Việc nghiên cứu sự vận động, đổi mới của tiểu thuyết Việt Nam từ sau năm 1986 trong mối quan hệ với hiện thực tuy đã được đề cập ở nhiều cấp độ, nhưng nhìn chung vẫn chịu sự chi phối của khung lý luận cũ, vì vậy chưa lý giải được bản chất của sự vận động này. Nghiên cứu tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới từ giác độ mối quan hệ giữa văn học và hiện thực không những góp phần đánh giá chính xác hơn diện mạo tiểu thuyết thời kỳ này mà còn hướng tới dự báo những khả năng phát triển của thể loại trong tương lai. 1.3. Vấn đề mối quan hệ giữa văn học và hiện thực, lý luận thể loại tiểu thuyết, sự vận động, đổi mới tiểu thuyết Việt Nam sau năm 1986 là những đối tượng nghiên cứu, giảng dạy quan trọng trong nhà trường từ bậc học phổ thông đến đại học, sau đại học. Việc tiếp tục nghiên cứu, lý giải mối quan hệ giữa văn học và hiện thực, từ đó đề xuất hướng tiếp cận, nhận diện sự cách tân, thành tựu và giới hạn của tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới sẽ góp phần bổ sung tài liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu và giảng dạy, học tập những nội dung này trong nhà trường. Như vậy, đề tài Mối quan hệ giữa văn học và hiện thực qua tiểu thuyết Việt Nam sau năm 1986 vừa mang ý nghĩa lý luận, vừa mang ý nghĩa thực tiễn. Đó là những lý do chúng tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài này. 2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 2.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là mối quan hệ giữa văn học và hiện thực qua tiểu thuyết Việt Nam sau năm 1986. 2 2.2. Phạm vi nghiên cứu Về mặt lý thuyết, chúng tôi tập trung nghiên cứu những tài liệu tiêu biểu bàn về mối quan hệ giữa văn học và hiện thực. Về mặt tác phẩm, chúng tôi khảo sát tiểu thuyết Việt Nam từ năm 1986 đến năm 2016. Tuy nhiên, trong điều kiện tư liệu bề bộn của tiểu thuyết trong giai đoạn dài như vậy, chúng tôi chỉ tập trung khảo sát, phân tích những tác phẩm được các nhà nghiên cứu, phê bình chú ý, đánh giá cao (Phụ lục 1). 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Luận án xác định mục tiêu nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học và hiện thực, đề xuất cơ sở lý luận để xem xét, nắm bắt những xu hướng vận động, đổi mới của tiểu thuyết Việt Nam từ sau năm 1986. Nhiệm vụ của luận án là: nghiên cứu về mối quan hệ giữa văn học và hiện thực trên cơ sở lý thuyết ký hiệu học văn hóa, chứng minh giả thuyết văn học là hình thức mô hình hóa hiện thực; đồng thời phân tích căn cứ khoa học và xác lập hệ thống thuật ngữ khả dụng để hệ thống hóa, mô tả các mô hình hiện thực tiêu biểu trong tiểu thuyết Việt Nam từ sau năm 1986. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Để tiếp cận và giải quyết vấn đề nghiên cứu, chúng tôi sử dụng tổng hợp các phương pháp: Phương pháp loại hình; Phương pháp hệ thống; Phương pháp tiếp cận liên ngành; Phương pháp ký hiệu học văn hóa; Phương pháp tiếp cận theo lý thuyết trần thuật học. - Phương pháp loại hình chú ý đến quan hệ cộng đồng giá trị, giúp nắm bắt đối tượng nghiên cứu trong mối quan hệ tổng thể, bao quát, xác định quy luật phát triển của các sự vật, hiện tượng. Phương pháp này được chúng tôi sử dụng trong luận án nhằm nhận diện, phân loại tiểu thuyết Việt Nam sau năm 1986 theo các mô hình hiện thực tiêu biểu. - Phương pháp hệ thống chú ý đến quan hệ phân cấp và quan hệ nhân quả của đối tượng nghiên cứu. Trong luận án, phương pháp này được vận dụng ở các cấp độ vĩ mô và vi mô nhằm nhận thức những biểu hiện đa dạng và thống nhất của mối quan hệ giữa văn học và hiện thực qua tiểu thuyết Việt Nam sau năm 1986. - Phương pháp tiếp cận liên ngành: Văn học trong bản chất văn hóa của nó bao giờ cũng được sáng tạo và tiếp nhận trong một bối cảnh lịch sử, văn hóa cụ thể. 3 Luận án sử dụng phương pháp này để nhận diện, cắt nghĩa sự tác động của bối cảnh lịch sử, văn hóa đối với sự vận động của tiểu thuyết Việt Nam từ sau năm 1986. - Phương pháp ký hiệu học văn hóa: Ký hiệu học là khoa học bao hàm rất nhiều cách tiếp cận khác nhau. Chúng tôi sử dụng những tư tưởng nền móng của ký hiệu học văn hóa (chủ yếu của trường phái Tartu – Moskva), xem ngôn ngữ là một hệ thống ký hiệu, tác phẩm văn học là sự kiến tạo bức tranh thế giới thông qua quá trình ký hiệu hóa. Điều cốt yếu là toàn bộ quá trình mô hình hóa hiện thực trong tác phẩm văn học hay quá trình kiến tạo và tiếp nhận nghĩa của văn bản chỉ có thể diễn ra trong một không gian kí hiệu quyển, với sự tham gia và thông hiểu của các chủ thể giao tiếp. Trong luận án, phương pháp ký hiệu học văn hóa được sử dụng để nhận diện các mô hình hiện thực trong tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới. - Phương pháp tiếp cận theo lý thuyết trần thuật học: Trần thuật học đã trải qua lịch sử phát triển lâu dài và phức tạp. Trong luận án, chúng tôi sử dụng những khái niệm cơ bản của trần thuật học (cấu trúc truyện kể, nhân vật truyện kể, tổ chức trần thuật) để nghiên cứu về các mô hình hiện thực trong tiểu thuyết Việt Nam từ sau năm 1986. Ngoài những phương pháp nghiên cứu chính, luận án sử dụng tổng hợp, thường xuyên các phương pháp khoa học thông dụng: thống kê, phân loại; phân tích, tổng hợp; so sánh. 5. Đóng góp mới của luận án (1) Luận án nghiên cứu, đề xuất quan niệm khoa học, linh hoạt về mối quan hệ giữa văn học và hiện thực trong bối cảnh nhận thức lý luận ở Việt Nam về mối quan hệ này còn tồn tại nhiều khác biệt, thậm chí đối lập. Đóng góp của luận án trên phương diện này được cụ thể hóa thông qua việc lý giải hệ thống khái niệm và vận dụng trong nghiên cứu thực tiễn. (2) Luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu sự vận động, đổi mới của tiểu thuyết Việt Nam sau năm 1986 một cách toàn diện, hệ thống nhìn từ mối quan hệ giữa văn học và hiện thực. Việc chỉ ra hai mô hình hiện thực tiêu biểu (mô hình hiện thực mô phỏng và mô hình hiện thực sắp đặt) đã cơ bản nắm bắt được xu hướng cách tân của tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới. 4 (3) Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần vào thành quả nghiên cứu nói chung, phục vụ cho việc nghiên cứu, học tập và giảng dạy bộ môn lí thuyết và lịch sử văn học, văn học Việt Nam hiện đại. 6. Cấu trúc của luận án Ngoài Mở đầu và Kết luận, phần Nội dung của luận án gồm 4 chương: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu. Chương 2: Mối quan hệ văn học - hiện thực và sự vận động, đổi mới tiểu thuyết Việt Nam sau năm 1986. Chương 3: Mô hình hiện thực mô phỏng trong tiểu thuyết Việt Nam sau năm 1986. Chương 4: Mô hình hiện thực sắp đặt trong tiểu thuyết Việt Nam sau năm 1986. 5 Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. Tổng quan về mối quan hệ giữa văn học và hiện thực trong tƣ duy lý luận văn học thế giới Mối quan hệ giữa văn học và hiện thực là một trong những vấn đề trung tâm của các hệ thống lý thuyết văn học trên thế giới từ cổ đại đến nay với quan niệm rất khác nhau, thậm chí đối lập. Kể từ Platon, Aristote, sự mô phỏng (mimèsis) là thuật ngữ phổ biến và quen thuộc nhất nhằm cắt nghĩa các mối liên hệ giữa văn chương và thực tại. Trong công trình đồ sộ của Erich Auerbach, Mimèsis, Phương thức biểu hiện thực tại trong văn học phương Tây (1946) [7], khái niệm này vẫn còn là chuyện dĩ nhiên. Nhưng sau đó, các lý thuyết văn học đã đặt vấn đề chống lại mimèsis và chủ trương nhấn mạnh đến tính tự trị của văn học đối với thực tại, đối với cái quy chiếu, với thế giới, và bảo vệ luận đề về quyền tối thượng của hình thức đối với nội dung, của từ ngữ đối với nội dung, của cái biểu đạt đối với cái được biểu đạt, của ý nghĩa đối với sự thể hiện, hay nói cách khác, văn học không phản ánh hiện thực [38, tr. 137]. Giữa hai cực đối lập ấy là lịch sử các quan niệm rất phong phú, đa dạng về mối quan hệ giữa văn học và hiện thực. Luận án của chúng tôi không thể miêu tả chi tiết lịch sử phức tạp đó mà chỉ đặt mục tiêu tổng quan những tư tưởng then chốt về mối quan hệ giữa văn học và hiện thực trong dòng vận động của các lý thuyết văn học; từ đó tạo tiền đề lý luận, lý giải sự vận động, đổi mới của tiểu thuyết Việt Nam sau năm 1986. Từ thế kỷ XIX trở về trước, trong tư duy lý luận phương Tây, dù cách hiểu đa dạng nhưng các lý thuyết văn học đều có điểm chung quan trọng, cho rằng văn học có khả năng nhận thức và biểu hiện thế giới khách quan. Sylvan Barnet, Morton Berman, William Burto trong sách Nhập môn văn học cho rằng, một cách khái quát nhất, có thể phân chia các lý thuyết văn học thành ba loại, ba khuynh hướng tiếp cận và xử lý hiện thực của văn học: thuyết bắt chước; thuyết biểu hiện; thuyết cảm xúc [11]. Thuyết biểu hiện cho rằng, nghệ sĩ chủ yếu không phải là người bắt chước hiện thực mà là người biểu hiện những tình cảm của mình: “Người ta giãi bày những nỗi đau trên trang sách, lặp lại và trình bày lại những 6 cảm xúc là để làm chủ được chúng” [11, tr. 10]. Công việc của họ “là xem xét sự vật không phải như chúng tồn tại... mà như chúng hiện ra đối với những cảm giác và những ham mê” [11, tr. 10]. Thuyết cảm xúc có liên quan mật thiết đến thuyết biểu hiện khi cho rằng, công trình nghệ thuật phải gây được một cảm xúc đặc biệt ở người tiếp nhận: “Nghệ thuật là một hoạt động của con người mà thực chất là con người thông qua một số ký hiệu bên ngoài có ý thức truyền cho những người khác những tình cảm mà nó thể nghiệm, để những người khác bị nhiễm những tình cảm này, cùng thể nghiệm chúng” [11, tr. 12]. Thuyết cảm xúc khẳng định, sự kích thích gây ra những cảm xúc có thể có ích: làm nguội dịu tâm hồn, hoặc đáp ứng nhu cầu tổ chức cảm xúc thành mẫu hình đẹp, dễ chịu. Thuyết bắt chước bắt đầu từ Aristote, khẳng định nghệ thuật là sự bắt chước điều gì đó. Bắt chước là xu hướng tự nhiên của con người, và để tạo ra nghệ thuật, bắt chước kết hợp (bao hàm) tiết tấu và sự cách điệu kết hợp với sự hài hòa. Aristote cho rằng, mimèsis không chỉ là bắt chước, nó còn là sự tái tạo, tái hiện, bao hàm sự bắt chước “sát sườn” tự nhiên, kết hợp với sự hài hòa. Ông khẳng định nghệ thuật cao hơn lịch sử bởi vì lịch sử phải gắn với sự kiện, còn nghệ thuật thì hoàn thiện tự nhiên, không trình bày cái đã xảy ra mà trình bày cái có thể xảy ra: “Người nghệ sĩ không bắt chước một cách nô dịch, mà anh ta tái tạo thực tại và giới thiệu nó với chúng ta trong một cái mẫu ở đó ta thấy được bản chất của nó sáng rõ hơn. Bắt chước của người nghệ sĩ trong chừng mực nào đó là sáng tạo, trong đó có sự tham gia của trí tưởng tượng, của sự đoán nhận, sự giải thích; nó phản ánh một cách nhìn đặc biệt về thực tại” [11, tr. 9]. Ngoài sự thích thú, văn học còn đem lại tri thức, trong đó có loại tri thức thông thường góp phần mở mang trí tuệ nhưng đáng chú ý hơn là loại tri thức đặc biệt khiến ta hiểu biết thêm về con người. Thuyết bắt chước với hạt nhân là mimèsis của Aristote có sức ảnh hưởng to lớn trong lịch sử lý luận văn học phương Tây nói riêng, thế giới nói chung, là một trong những cơ sở tạo sinh quan trọng của chủ nghĩa hiện thực, của lý luận văn học marxist với nền tảng phản ánh luận sau này. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Marx khẳng định quan niệm biện chứng, duy vật, đề cập đến tính phức tạp, năng động của nhận thức, khẳng định ý thức không chỉ phản ánh mà còn sáng tạo và về bản chất, con người có khả năng nhận thức chân lý khách quan. Trong lĩnh vực văn học, phản ánh luận phát triển theo nhiều khuynh hướng, tạo ra nhiều phiên bản khác nhau chứ 7 không thuần nhất. Về cơ bản có thể kể đến nhánh phản ánh luận ở các nước xã hội chủ nghĩa và phản ánh luận theo tư tưởng của các nhà marxist phương Tây. Trên nền tảng tư tưởng của Marx và Angels, Lenin tiếp tục phát triển phản ánh luận và được các nhà lý luận văn học ở các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là Xô viết, Trung Quốc và Việt Nam trình bày, diễn giải, sử dụng trong phần lớn thời gian của thế kỷ XX. Trên nền tảng của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, các nhà lý luận văn học marxist phát triển thành các hệ thống rất đa dạng, phong phú. Cũng cần phải nói thêm, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Marx khi bàn về văn học, nghệ thuật thường chỉ đưa ra những luận điểm nằm rải rác và phân tán, ít được phát triển sâu. Trong công trình Chủ nghĩa Marx và phê bình văn học [63], tác giả Terry Eagleton đã chứng minh lý luận, phê bình văn học marxist phát triển phong phú với nhiều khúc quanh, sự phân tán. Marx, Angels và cả Lenin đã chịu nhiều sự diễn giải, “gán ghép” của các trường phái muốn phát triển văn học phục vụ các mục đích chính trị. Bản thân Marx, Angels đã thể hiện quan niệm linh hoạt về sự “cải biến” tự nhiên (hiện thực) trong đầu óc con người, hay sự kiến tạo hiện thực của ý thức [158, tr. 52-53]. Phản ánh có tính năng động, thể hiện ở hai bình diện: 1/ Tính năng động của phản ánh không chỉ giản đơn ở thao tác lựa chọn mà còn cả ở khâu kiến tạo; 2/ Sự phản ánh – kiến tạo đồng thời cũng là sáng tạo, do vậy, không có cơ sở để đối lập phản ánh và sáng tạo (ở đây là mối quan hệ “bao hàm”, “ở trong” chứ không phải mối quan hệ “cộng thêm”) [158, tr. 64]. Những thành tựu của tâm lý học hiện đại đã cho thấy, quá trình phản ánh thông qua cảm giác, tri giác, biểu tượng, khái niệm đều là quá trình kiến tạo với vai trò chủ động, tích cực của chủ thể, còn thực tiễn đóng vai trò kiểm nghiệm. Đây là vấn đề rất quan trọng bởi nếu không quan niệm dứt khoát phản ánh đã đồng thời bao hàm sự kiến tạo (sáng tạo) sẽ dẫn đến cách hiểu xơ cứng rằng phản ánh là sao chép “cộng thêm” sáng tạo. Đây là vấn đề nền móng, tạo lập những biên độ mềm dẻo để kiến giải mối quan hệ giữa văn học và hiện thực. Từ những tư tưởng nền tảng của Marx về phản ánh luận (đặc biệt trong trước tác thời kỳ đầu của ông), các nhà lý luận marxist phương Tây đã có những kiến giải tương đối uyển chuyển về mối quan hệ giữa văn học và hiện thực, tiêu biểu như các tác giả G. Lukács, Ch. Caudwell, P. Macherey,... Lukács cho rằng “hiện thực là cái toàn cục biện chứng, trong đó mọi yếu tố đều chuyển động, va chạm với nhau. Để 8 hiện thực có thể phản ánh vào trong văn học thì nhà văn cần phải sáng tạo lại, trao cho nó hình thức. Nghĩa là một tác phẩm được sáng tạo một cách “đúng đắn” thì “hình thức” văn học sẽ phản ánh hình thức của thế giới hiện thực” [88, tr. 46]. Hình thức đúng đắn mà ông quan niệm là cái hình thức phản ánh hiện thực một cách khách quan nhất. G. Lukács cũng phân biệt “vật tự nó” và “vật cho ta”, đồng thời cho rằng: “Tác phẩm nghệ thuật là vật cho ta xuất hiện trong hình thức của một vật tự nó, chỉ hoàn toàn trong hình thức của nó, chứ không phải là vật tự nó, xét trong ý nghĩa nghiêm túc của khái niệm này” [88, tr. 49]. Trong những nghiên cứu về sau, ông xem ý thức nghệ thuật như một sự can thiệp có tính sáng tạo vào thế giới chứ không phải chỉ như một sự phản ánh thế giới. Khác với G. Lukács, Ch. Caudwell trong công trình Ảo ảnh và hiện thực xem đối tượng của phản ánh nghệ thuật là “thế giới bên trong” để phân biệt với “thế giới bên ngoài” là đối tượng của khoa học. Như vậy, quan điểm của Lukács và Caudwell có những khác biệt. Lukács đề cao tính chân thực của sự phản ánh, còn Caudwell nhấn mạnh tính chân thực lịch sử của thái độ và tư tưởng của nhà văn, nhấn mạnh vai trò của chủ thể sáng tạo. Xét từ mối quan hệ giữa văn học và hiện thực, ngoài mô hình phản ánh, lý luận văn học marxist còn có các mô hình khác như mô hình sản xuất, mô hình phát sinh,... Trong tác phẩm Đến với lý luận sản xuất văn học (1978), P. Macherey, nhà lý luận marxist đã xem sáng tác văn học như là công việc sản xuất, trong đó nguyên vật liệu được tạo thành sản phẩm, các tác phẩm văn học “sản xuất ra hiện thực” còn sự hiểu biết về hiện thực là việc của người đọc: “Theo đó, nhà văn không phải là người sáng tạo, mà là người đến với văn bản văn học bằng việc bố trí các thể loại văn học, các quy ước ngôn ngữ và tư tưởng theo mong muốn của mình” [88, tr. 53]. Mặc dù có những khác biệt trong quan niệm về mối quan hệ giữa văn học và hiện thực trong các lý thuyết truyền thống, từ thuyết biểu hiện, thuyết cảm xúc đến thuyết bắt chước và sau này là phản ánh luận, nhưng có một điểm chung là các thuyết này đều dựa trên nền tảng triết học cho rằng con người có khả năng nhận thức thế giới khách quan như nó vốn có và thể nghiệm sự nhận thức ấy (bằng cách thức khác nhau) trong tác phẩm nghệ thuật. Bên cạnh đó, các lý thuyết trên chưa nhìn nhận đúng vai trò đặc biệt quan trọng của ngôn ngữ trong mối quan hệ giữa văn học và hiện thực. Mặc dù Marx đã đề cập đến vai trò của ngôn ngữ khi bàn đến đặc trưng phản ánh nói chung của con người, tuy vậy, những thành tựu mới nhất 9 của ngành khoa học xã hội và nhân văn nói chung, ngôn ngữ học nói riêng trong thế kỷ XX đã đặt ra những vấn đề mới về mối quan hệ giữa văn học và hiện thực. Đầu thế kỷ XX, khoa học tự nhiên chứng kiến những khám phá mới mẻ với thuyết tương đối, thuyết lượng tử, nguyên tắc bất định… Tuy nhiên, chính những bước nhảy vọt ấy làm cho khoa học trở nên tối tăm và vô lý xét từ tình trạng sống của con người. D.H. Lawrence đã thất vọng thốt lên rằng: “Khi ông khám phá ra ête thì ê-te sẽ bốc hơi hết. Khi ông lặn sâu xuống nền tảng chân thực của một hiện tượng thì hiện tượng sẽ tan rã ra hàng ngàn tiểu hiện tượng, mỗi tiểu hiện tượng lại nêu lên một vấn đề khác. Ông giải quyết được bao nhiêu vấn đề thì lại xuất hiện từng ấy vấn đề khác” [1, tr. 11]. Đây là lời tuyên bố có phần cực đoan, nhưng rõ ràng, đầu thế kỷ XX đã chứng kiến “cú sốc” của khoa học, dẫn đến phá vỡ sự ôm trùm và sức mạnh phổ quát của lý trí, của khả năng nhận thức, làm chủ hiện thực của con người. Đã xuất hiện một cuộc tranh luận chống tri thức trong suốt thập niên đầu thế kỷ XX, tạo ra ảnh hưởng to lớn trong sự phát triển văn học châu Âu suốt thế kỷ. Xét từ phương diện mối quan hệ giữa văn học và hiện thực, những phát hiện của khoa học tự nhiên đầu thế kỷ XX, đặc biệt là vật lý học hiện đại đã cung cấp những cứ liệu mới, buộc chúng ta phải xem xét lại vấn đề từ gốc gác của nó. Bên cạnh những thành tựu về khoa học tự nhiên, đầu thế kỷ XX, hàng loạt các công trình về tâm lý học, triết học đã mang đến những nhận thức mới mẻ về khả năng nhận thức thế giới của con người. Những phát hiện của triết học và khoa học tâm lý đã đặt mối hoài nghi lớn về khả năng nhận thức, nắm bắt thế giới khách quan của con người, chỉ ra hàng loạt vấn đề phức tạp cần tái nhận thức và diễn giải. William James, nhà triết học, tâm lý học người Mỹ, cho rằng ý thức cá nhân hoàn toàn độc lập và tự trị, và trong đó, bản thân các suy nghĩ luôn cấu kết, tạo ra một chuỗi vô hạn của nhận thức. Sigmund Freud đã phát hiện và làm sống dậy thế giới tiềm thức sinh động và đầy bí ẩn với vai trò quan trọng không hề thua kém ý thức. Carl Gustav Jung phát triển những tư tưởng của Sigmund Freud, đồng thời phát hiện ra vô thức tập thể, và chính nó chi phối ý thức của từng cá nhân trong cộng đồng. Bên cạnh đó, những tư tưởng của Henri Bergson, Edmund Husserl, Martin Heidegger và các nhà hiện tượng luận,… cũng chứng minh thuyết phục rằng ý thức con người là một cơ chế rất phức tạp mà ngôn ngữ chiếm vị trí trung tâm, là “ngôi nhà hữu thể” [115, tr. 67]. Có thể nói, những thành tựu tâm lý học, triết học đầu thế kỷ XX đã đánh dấu những 10 nhận thức mang tính bước ngoặt, phá vỡ trật tự duy lý thuần nhất, tạo ra vô số ngã rẽ phong phú, đa dạng về bản thể luận, nhận thức luận. Trong bối cảnh đó, một cuộc cách mạng trong ngôn ngữ, hay “bước ngoặt ngôn ngữ” là điều đã được khẳng định. Bước ngoặt ngôn ngữ thực chất là cuộc chuyển hướng đánh giá vai trò của ngôn ngữ, từ phương tiện biểu đạt trở thành phương thức tồn tại của con người, mà F. de Saussure là người khai mở. Trong công trình Giáo trình ngôn ngữ học đại cương (1916), Saussure khẳng định bản chất xã hội của ngôn ngữ với những quan niệm hệ thống, đột phá. Theo Saussure, ngôn ngữ là một hệ thống ký hiệu, thống nhất giữa hai mặt: cái biểu đạt và cái được biểu đạt. Đồng thời, nhà ngôn ngữ học này cũng cho rằng, cái biểu đạt phụ thuộc và được quyết định bởi quy ước của cộng đồng sử dụng ngôn ngữ; song song tồn tại hai trục quan hệ: trục ý nghĩa là quan hệ giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt, trục giá trị là quan hệ giữa những hệ thống ký hiệu với nhau. Tư tưởng của F. de Saussure có ảnh hưởng to lớn đối với các nhà cấu trúc luận. Trên cơ sở quan niệm của F. de Saussure, các nhà hình thức chủ nghĩa chủ trương cô lập văn bản văn học ra khỏi môi trường sinh thành và tồn tại của nó, xem văn bản như một hệ thống nhị nguyên khép kín ký hiệu/ý nghĩa. Từ đây, các nhà hình thức chủ nghĩa hướng tới triệt tiêu toàn diện mối quan hệ giữa văn học và hiện thực, chỉ quan tâm đến văn bản và đặc trưng cấu trúc của nó để kiến giải nghĩa của văn bản [177, tr. 11-25]. Cùng với F. de Saussure, những đóng góp của nhóm Bakhtin (với 3 tác giả chính là M. Bakhtin, V. Voloshinov và P.N. Medvedev) đối với ngôn ngữ học là hết sức to lớn, không chỉ tạo nền tảng cho chủ nghĩa cấu trúc mà tiếp tục được kế thừa, phát triển, tạo lập trong tư tưởng hậu cấu trúc. Ngoài ra còn phải kể đến tư tưởng của trường phái Humboldt mới (L. Weigerber, H. Holz, E. Sapir, B. Whorf,…). Trường phái này cho rằng, ngôn ngữ không phải là phương tiện biểu hiện tư duy, phản ánh hiện thực khách quan, ngược lại: “ngôn ngữ quyết định tư duy của con người và quá trình nhận thức nói chung, qua đó quyết định cả nền văn hóa và hành vi xã hội của con người, thế giới quan và toàn bộ bức tranh thế giới nảy sinh trong ý thức” [128, tr. 110]. Trên cơ sở đó, các nhà ngôn ngữ học của chủ nghĩa hậu cấu trúc như M. Foucault, J. Derrida, N. Fairclough,… đã thực hiện một “bước nhảy” mới trong lĩnh vực ngôn ngữ khi cho rằng, không có hiện tượng phi diễn ngôn, “tất 11 cả đều là diễn ngôn” [148]. Sự kiến tạo diễn ngôn chịu sự chi phối của hệ tư tưởng, của các diễn ngôn quyền lực và đến lượt nó gia nhập vào hệ thống diễn ngôn thời đại, hình thành thế giới quan, quy định lời nói và hành vi của con người. Tri thức không có tính khách quan mà là sản phẩm của diễn ngôn. Hay nói cách khác, ngôn ngữ kiến tạo tri thức, chân lý, quy phạm, niềm tin,…; ngôn ngữ tạo ra quyền lực, duy trì và củng cố quyền lực; ngôn ngữ quyết định, “lựa chọn” chủ thể; ngôn ngữ tham gia vào sự vận hành quyền lực;… Các nhà hậu cấu trúc nhận thấy những hạn chế của phương pháp truy tìm nghĩa trong một văn bản khép kín nên đã đề xuất các phương pháp giải cấu trúc khi chú tâm vào tìm kiếm những đứt gẫy của văn bản, những nơi mà mối liên hệ về mặt cấu trúc yếu nhất. Từ đó, họ đề xuất khái niệm liên văn bản và cơ chế quy chiếu liên tục giữa các văn bản chứ không quy chiếu về hiện thực. Thuật ngữ “liên văn bản” do Julia Kristeva đưa ra lần đầu tiên vào năm 1967 dựa trên cơ sở quan niệm về tính đối thoại của Bakhtin. Tuy nhiên sau đó, khái niệm này đã được các nhà hậu cấu trúc luận tái diễn giải theo hướng tước bỏ những dấu vết của thực tại, lịch sử, văn hóa để khép kín vào văn bản [38, tr. 158-162]. Theo đó, văn bản văn học không quy chiếu về thế giới mà quy chiếu đến vô vàn các văn bản khác xung quanh nó: “Sự quy chiếu không có thực tại; cái người ta gọi là thực tế chỉ là một mã. Mục đích của mimèsis không còn là tạo một ảo tưởng về thế giới thực nữa, mà là tạo một ảo tưởng diễn ngôn chân thực về thế giới thực” [38, tr. 157]. Trong hình dung về sự đổ vỡ hoàn toàn niềm tin về nhận thức, trào lưu hậu hiện đại trong văn học chủ trương chống lại những cố gắng khôi phục trật tự mà các nhà hiện đại bằng cách này hay cách khác đã làm. Họ đã tạo lập một cảm quan mới về thế giới: cảm quan hậu hiện đại (postmodern sensibility) như một kiểu cảm nhận thế giới là một sự hỗn độn [137, tr. 8]. Sự bất tín nhận thức song hành cùng kết luận cho rằng: “tất cả những gì được coi là hiện thực, trên thực tế không phải là gì khác hơn chính sự hình dung về nó, sự hình dung vốn phụ thuộc vào việc người quan sát lựa chọn nhìn điểm nào và sự thay đổi điểm nhìn dẫn tới sự thay đổi cơ bản chính sự hình dung ấy. Vậy là tiếp nhận của con người buộc phải “đa viễn cảnh”, luôn luôn thấy những dạng thức biến đổi như kính vạn hoa, và thực tại trong sự thay đổi chớp nhoáng ấy không cho con người cái khả năng nắm bắt bản chất của nó, những quy luật và những dấu hiệu cơ bản của nó” [137, tr. 13-14]. Như vậy, cùng đối diện với một thế giới trong nhận thức về sự khó bề nắm bắt, nhưng quan điểm của các 12 nhà hiện đại và hậu hiện đại rất khác biệt: “Nếu như các nhà hiện đại chủ nghĩa cố gắng bằng cách nào đó tự bảo vệ mình trước sự đe dọa của hỗn độn vũ trụ trong điều kiện mọi “trung tâm” đều không chắc chắn, thì các nhà hậu hiện đại chấp nhận sự hỗn độn như là một sự kiện và sống một cách thực tế, xâm nhập vào nó bằng “tình cảm mật thiết”” [137, tr. 15]. Quan niệm như thế, chủ nghĩa hậu hiện đại chủ trương tái tạo sự hỗn độn của cuộc sống bằng sự hỗn độn nhân tạo. Điều này chi phối những cách tân triệt để của văn học theo trào lưu hậu hiện đại, đó là sự trưng bày một “hiện thực thậm phồn” thông qua sự ngụy tạo, kiến tạo những bản sao không có bản gốc, cắt rời trần thuật, xóa bỏ triệt để dấu vết không gian và thời gian. Theo tác giả Lê Huy Bắc, khái niệm hiện thực thậm phồn (hyperreality) dùng để chỉ những vật thay thế giả tạo đối với hiện thực, “nó tạo nên một kiểu hiện thực khác lạ, kiểu hiện thực đa chiều kích, có thể mở rộng đến bất kỳ nơi nào trí tưởng tượng của con người vươn đến” [19, tr. 39]. Khái niệm hiện thực thậm phồn cùng với khái niệm huyền ảo là sự phản ứng của các nhà hậu hiện đại chủ nghĩa với khái niệm hiện thực truyền thống mà theo họ không còn đảm bảo những phẩm chất của hiện thực đúng nghĩa. Như vậy, sự phát triển của tư duy lý luận phương Tây về mối quan hệ giữa văn học và hiện thực gắn chặt với những đột phá của khoa học tự nhiên, triết học, tâm lý học và đặc biệt là ngôn ngữ học. Ở phương Đông, tính đến trước khi có các cuộc giao lưu tư tưởng với phương Tây, quan niệm về mối quan hệ giữa văn học và hiện thực có những đặc trưng riêng. Phương Đông mà chúng tôi đề cập ở đây được hiểu là khu vực Đông Á, bao gồm các nước sử dụng chung Hán tự, có những tương đồng trong phát triển văn hóa thời trung đại. Với sự ảnh hưởng của bối cảnh tam giáo đồng nguyên (Nho, Đạo, Phật) trong suốt quá trình phát triển, tư duy về mối quan hệ giữa văn học và hiện thực ở khu vực này tương đối ổn định và mang bản sắc riêng. Trong bài viết Tính phổ biến và tính đặc thù của văn luận phương Đông – phương Tây (Khảo sát qua phạm trù mimèsis – mô phỏng của phương Tây), tác giả Trần Nho Thìn đã cung cấp một cái nhìn tổng quát về sự khác biệt và tính đặc thù trong quan niệm về mối quan hệ giữa văn học và hiện thực của phương Đông so với phương Tây. Trong tương quan so sánh từ hạt nhân là phạm trù mimèsis, các nhà nghiên cứu cơ bản thống nhất khẳng định sự khác nhau về đường hướng của hai truyền thống văn luận. Trần Dược Hồng viết: “Trên tầm quan sát vĩ mô, người ta nhận thấy trong truyền thống, văn luận 13 phương Tây thiên về mô phỏng, tả chân, tái hiện, cầu thực, cầu chân, còn văn luận phương Đông (ở đây cụ thể là văn luận cổ Trung Quốc) thiên về vật cảm, biểu hiện, trữ tình, cầu tự (tìm sự giống nhau)” [169, tr. 73]. Đồng Khánh Bính cho rằng: “Văn luận cổ đại Trung Quốc thường ít bàn đến vấn đề “chân thực” mà văn học phương Tây nhấn mạnh đi nhấn mạnh lại, mà lại bàn về “chân thành” (Trang Tử): “cái gọi là “chân” chính là cực điểm của sự chân thành. Không có sự chân thành thì không thể cảm động được lòng người” [169, tr. 74]. Quan tâm đến sự ảnh hưởng của hai hệ thống tư tưởng triết học Đông, Tây, Thái Tông Tề cũng khẳng định: “Các nhà phê bình phương Tây cho thấy một sự quan tâm nổi trội về mối quan hệ của văn học với chân lý. Họ thường xuyên trở đi trở lại bàn về văn học trong quan hệ với chân lý và phát triển mô hình quan niệm để nghiên cứu các đối tượng văn học và vấn đề văn học riêng rẽ. Trái lại, giới phê bình Trung Quốc chia sẻ một quan tâm cao độ về vai trò của văn học trong việc làm hài hòa các quá trình khác nhau có ảnh hưởng đến cuộc sống con người” [169, tr. 75]. Với sức ảnh hưởng, chi phối của nền tảng văn hóa, triết mỹ riêng biệt như thế, tư duy lý luận phương Đông và phương Tây về mối quan hệ giữa văn học và hiện thực tuy cùng được đặt ra nhưng cách thức giải quyết rất khác nhau. Trong tư duy lý luận phương Đông, vấn đề mối quan hệ chủ thể sáng tạo và khách thể thẩm mĩ, giữa văn học và hiện thực cũng được đặt ra từ rất sớm và chiếm vị trí quan trọng. Vượt lên trên những nhận định đơn thuần về mặt hiện tượng so sánh, trong công trình Thực tại, cái thực và vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam trung cận đại, nhà nghiên cứu Trần Đình Hượu đã làm rõ quan niệm độc đáo về hiện thực trong tư duy lý luận phương Đông, trên nền tảng loại hình kinh tế, chính trị, văn hóa đặc trưng, từ đó lý giải những khác biệt so với phương Tây. Ông khẳng định: “Ở các nước Đông Á, trong một thời gian dài, Nho giáo, Phật giáo và tư tưởng Lão – Trang thống trị đời sống tinh thần cùng nhau tác động vào văn học. Tất cả tạo ra ở đây những loại hình tác giả, công chúng, tác phẩm rất khác. Không thể nhìn các nhà nho – tác giả và công chúng chủ yếu – như những trí thức, những văn nghệ sĩ phương Tây, nhìn những bài thơ, bài phú ngâm vịnh, xướng tụng trong các buổi bình văn, những buổi xướng họa giống như sách báo in bán. Tình trạng kém phát triển của đô thị có tác động tiêu cực rõ rệt đến tiến trình văn học, nhất là văn học hiện thực chủ nghĩa” [101, tr. 81]. Trên nền tảng của tam giáo đồng 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan