Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Lễ hội phật giáo việt nam hiện nay (qua nghiên cứu trường hợp một số chùa tại th...

Tài liệu Lễ hội phật giáo việt nam hiện nay (qua nghiên cứu trường hợp một số chùa tại thành phố hà nội)

.PDF
106
86
139

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN --------------------------------- PHAN NHẬT DŨNG LỄ HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM HIỆN NAY (QUA NGHIÊN CỨU TRƢỜNG HỢP MỘT SỐ CHÙA TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI) LUẬN VĂN THẠC SĨ TÔN GIÁO HỌC HÀ NỘI - 2017 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN --------------------------------- PHAN NHẬT DŨNG LỄ HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM HIỆN NAY (QUA NGHIÊN CỨU TRƢỜNG HỢP MỘT SỐ CHÙA TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI) Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Tôn giáo học Mã số: 60 22 03 09 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. LÊ BÁ TRÌNH HÀ NỘI - 2017 2 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, trả lời phỏng vấn, trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chƣa từng đƣợc công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Hà Nội, ngày 26 tháng 7 năm 2017 TÁC GIẢ LUẬN VĂN Phan Nhật Dũng 3 LỜI CẢM ƠN Tác giả xin trân thành cảm ơn các Thầy, Cô giáo trong Bộ môn Tôn giáo học đã giảng dạy, trang bị kiến thức giúp tác giả nắm vững những vấn đề lý luận và phƣơng pháp luận để hoàn thành tốt luận văn này. Đặc biệt, tác giả xin trân thành cảm ơn TS. Lê Bá Trình - ngƣời thầy đã nhiệt tình hƣớng dẫn, chỉ bảo tác giả trong suốt quá trình làm luận văn. Con xin đê đầu đảnh lễ và tri ân chƣ tôn Hòa Thƣợng, chƣ Thƣợng tọa lãnh đạo Trung ƣơng Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã quan tâm giúp đỡ và tạo nhiều thắng duyên cho con trong suốt quá trình học tập, bên cạnh đó nhờ sự động viên và trợ duyên quý báu của gia đình, cũng nhƣ đàn na thí chủ. Kính chúc chƣ Liệt vị pháp thể khinh an, đạo lộ tấn phát, chúng sinh dị độ, Phật đạo viên thành. Tác giả xin trân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày 26 tháng 7 năm 2017 TÁC GIẢ LUẬN VĂN Phan Nhật Dũng 4 MỤC LỤC MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1 Chƣơng 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LỄ HỘI PHẬT GIÁO VÀ KHÁI QUÁT ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU ..................................................... 9 1.1. Một số vấn đề lý luận về lễ hội Phật giáo .......................................... 9 1.1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài nghiên cứu ......................... 9 1.1.2. Truyền thống lễ hội trong Phật giáo và truyền thống lễ hội trong Phật giáo Việt Nam ................................................................................. 11 1.2. Khái quát địa bàn nghiên cứu .......................................................... 20 1.2.1. Chùa Quán sứ ................................................................................ 21 1.2.2. Chùa Hƣơng .................................................................................. 22 1.2.3. Chùa Tiêu Dao .............................................................................. 22 Tiểu kết chƣơng 1 ..................................................................................... 23 Chƣơng 2. NỘI DUNG VÀ GIÁ TRỊ VĂN HÓA CỦA LỄ HỘI PHẬT GIÁO HIỆN NAY ........................................................................................ 24 2.1. Nội dung lễ hội Phật giáo .................................................................. 24 2.1.1. Cấu trúc của lễ hội Phật giáo ......................................................... 24 2.1.2. Trình tự, các bƣớc tiến hành một lễ hội Phật giáo ........................ 31 2.1.3. Một số lễ hội Phật giáo tiêu biểu ................................................... 32 2.2. Giá trị văn hóa của lễ hội Phật giáo ................................................. 39 2.2.1. Giá trị đối với Phật giáo ................................................................ 39 2.2.2. Giá trị đối với văn hóa Việt Nam .................................................. 45 Tiểu kết chƣơng 2 ..................................................................................... 50 5 Chƣơng 3. VẤN ĐỀ BẢO TỒN, PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA CỦA LỄ HỘI PHẬT GIÁO GIAI ĐOẠN HIỆN NAY ...................................... 51 3.1. Một số vấn đề đặt ra đối với lễ hội Phật giáo hiện nay .................. 51 3.2. Nguyên nhân của các vấn đề đặt ra đối với lễ hội Phật giáo hiện nay ..................................................................................................... 58 3.3. Những giải pháp nhằm bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa của lễ hội Phật giáo giai đoạn hiện nay .................................................................... 67 Tiểu kết chƣơng 3 ...................................................................................... 71 KẾT LUẬN ................................................................................................... 72 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................... 74 PHỤ LỤC 6 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Việt Nam là một quốc gia đã có bề dày hàng nghìn năm lịch sử. Những lớp trầm tích văn hóa đƣợc tích tụ hàng nghìn năm ấy đã tạo tạo cho Việt Nam một nền văn hóa mang hình hài, cốt cách, bản sắc riêng. Chính đó là chất "kháng sinh" để dân tộc Việt Nam "giữ mình", chống lại mọi sự xâm lăng, đồng hóa của các nền văn hóa khác. Nhờ thế mà lịch sử nghìn năm đã chứng minh: có những thời kỳ dài Việt Nam nằm dƣới ách thống trị của kẻ xâm lăng, chịu cảnh phụ thuộc về chính trị, kinh tế nhƣng vẫn không hề bị đồng hóa về mặt văn hóa hay nói cách khác bản sắc văn hóa vẫn đƣợc giữ gìn. Trong bề dày các lớp trầm tích của văn hóa Việt Nam, sinh hoạt lễ hội là một lớp dày đặc sắc. Lễ hội là loại hình sinh hoạt cộng đồng hầu nhƣ có mặt ở khắp mọi miền đất nƣớc từ rất lâu đời, thậm trí có nhiều lễ hội ra đời cách đây hàng nghìn năm đến nay vẫn đƣợc duy trì. Theo thống kê, hiện nay, một năm, Việt Nam có đến hơn 8000 lễ hội lớn nhỏ 1, trong đó lễ hội tôn giáo chiếm một phần không nhỏ. Phật giáo du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, đã cắm rễ sâu trong mảnh đất văn hóa Việt Nam đầy sắc màu, trở thành một tôn giáo truyền thống của Việt Nam, lễ hội Phật giáo đã thực sự trở thành lễ hội truyền thống của Việt Nam. Và bất cứ lễ hội Phật giáo nào ở Việt Nam hiện nay cũng có sự đan xen các yếu tố của văn hóa bản địa Việt Nam, chính điều đó góp phần làm nên sức sống của lễ hội Phật giáo của Việt Nam. Mỗi một làng quê Việt Nam hầu nhƣ đều có chùa, ngôi chùa đã trở thành một phần không thể thiếu của đời sống tinh thần ngƣời dân trong các làng xã Việt Nam: 1 Theo thống kê năm 2004 của Cục Văn hóa Thông tin cơ sở, Bộ Văn hóa Thông tin, cả nƣớc có 8902 lễ hội trong đó có 7005 lễ hội dân gian truyền thống , 1399 lễ hội tôn giáo, 409 lễ hội lịch sử cách mạng và 25 lễ hội du nhập từ nƣớc ngoài vào Việt Nam. 1 "Mái chùa che chở hồn dân tộc Nếp sống muôn đời của Tổ tông". Hòa thƣợng Mãn Giác Điều đó có nghĩa, Phật giáo đã hòa quyện vào văn hóa làng xã Việt Nam sâu đậm, không thể bóc tách đƣợc. Lễ hội Phật giáo luôn mang tính cộng đồng sâu sắc, đoàn kết tình làng nghĩa xóm vì một ƣớc nguyện chung cho sự phát triển thịnh vƣợng của làng. Do vậy, lễ hội Phật giáo trong mỗi làng quê chính là cầu nối của sự kết tinh, hòa hợp giữa những giá trị truyền thống với giá trị hiện tại và tƣơng lai. Và cũng chẳng biết tự bao giờ, lễ hội đã trở thành một Di sản văn hóa phi vật thể bất biến của ngƣời Việt. Thứ di sản đặc biệt này không những phản ánh đời sống tâm linh, tín ngƣỡng của cƣ dân trồng lúa nƣớc mà còn lƣu dấu bản sắc đặc trƣng, phong tục, tập quán của mỗi địa phƣơng - làng xã. Năm 1986, Công cuộc đổi mới toàn diện đất nƣớc đƣợc tiến hành, đã mở ra cho đất nƣớc Việt Nam một trang sử mới với nhiều thành tựu đạt đƣợc: đời sống vật chất của con ngƣời đƣợc cải thiện, đời sống tinh thần ngày càng đƣợc nâng cao. Tuy nhiên, bên cạnh đó là không ít những thách thức: nền kinh tế thị trƣờng với những quy luật khốc liệt, đề cao giá trị của đồng tiền đã dẫn đến hệ lụy nhiều giá trị truyền thống bị lãng quên, đạo đức một bộ phận ngƣời dân bị suy thoái, các sinh hoạt tinh thần con ngƣời phát triển lệch lạc... Trong bối cảnh chung đó, sinh hoạt lễ hội nói chung, lễ hội Phật giáo nói riêng của ngƣời Việt Nam cũng không tránh khỏi sự thay đổi. Với vị trí là ngƣời thực hành tín ngƣỡng, thƣờng xuyên tham gia tổ chức các lễ hội Phật giáo, tôi luôn trăn trở làm sao khắc phục đƣợc những hạn chế, phát huy tối đa những mặt giá trị, tích cực của lễ hội Phật giáo để Phật pháp phát triển bền vững, đồng hành cùng xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. 2 Với những lý do trên đây, tôi lựa chọn đề tài "Lễ hội Phật giáo Việt Nam hiện nay (Qua nghiên cứu trường hợp một số chùa tại Thành phố Hà Nội)" làm đề tài nghiên cứu cho luận văn của mình. Hy vọng nghiên cứu này với việc chỉ ra nội dung, những giá trị, những vấn đề đặt ra của lễ hội Phật giáo hiện nay và đặc biệt chỉ ra nguyên nhân để từ đó đƣa ra các giải pháp góp phần vào công tác bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa của Phật giáo ở Việt Nam hiện nay, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập văn hóa toàn cầu với những thách thức lớn, việc khẳng định bản sắc văn hóa dân tộc là nhiệm vụ có ý nghĩa sống còn để "hội nhập nhƣng không hòa tan". 2. Tình hình nghiên cứu Với sự đa dạng, phong phú và đặc sắc của văn hóa lễ hội ở Việt Nam, đề tài về các lễ hội ở Việt Nam nói chung, lễ hội Phật giáo Việt Nam nói riêng là đề tài thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu, tiếp cận dƣới nhiều góc độ khác nhau: Văn hóa học, dân tộc học, xã hội học,... * Về lễ hội Việt Nam nói chung Cuốn 60 Lễ hội truyền thống Việt Nam của hai tác giả Thạch Phƣơng và Lê Trung Vũ, là công trình miêu tả khá toàn diện và có hệ thống về 60 lễ hội truyền thống tiêu biểu ở các địa phƣơng, các dân tộc trên cả nƣớc. Cuốn sách còn viết khá chi tiết về phần các câu ca trong hội hè và các trò diễn, trò chơi, cuộc thi tài trong lễ hội - đây là bộ phận cấu thành không thể thiếu của lễ hội. Cùng với PGS.TS. Lê Hồng Lý, PGS.TS. Lê Trung Vũ còn chủ biên cuốn sách Lễ hội Việt Nam, là công trình tập thể của nhiều Giáo sƣ, Tiến sĩ, nhà nghiên cứu, biên khảo..., sách tập trung một cách hệ thống các bài viết về những lễ hội hiện còn duy trì trên đất nƣớc ta, thông qua những mô tả sinh động của các bài viết, ngƣời đọc sẽ có những nhận thức khá đầy đủ về lễ hội Việt Nam. 3 Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật tập hợp, chọn lọc và biên soạn cuốn sách Kho tàng Lễ hội cổ truyền Việt Nam, là các bài viết của các tác giả lớn nhƣ: Nguyễn Chí Bền, Trần Lâm Biền,... Cuốn sách tập hợp một cách đầy đủ các lễ hội cổ truyền trong khối di sản văn hóa Việt Nam mà các thế hệ cha ông đã dày công vun đắp: Tết văn hóa và văn hóa Tết; Hội cúng rừng, lễ hội lập tịch; Hội đền An Dƣơng Vƣơng... giúp cho ta có cái nhìn tƣơng đối toàn diện và sâu sắc về kho tàng các lễ hội cổ truyền Việt Nam, đồng thời cảm nhận đƣợc vai trò to lớn, linh thiêng cùng những ý niệm về văn hóa dân tộc trong cuộc sống của mỗi con ngƣời Việt Nam. Tác giả Nguyễn Quang Lê có tác phẩm Bản sắc văn hóa qua lễ hội truyền thống người Việt. Cuốn sách có 7 chƣơng chính, trong đó chƣơng 1 viết về một số vấn đề lý lý luận cơ bản; chƣơng 2 viết về Lớp văn hóa bản địa - Nền tảng của bản sắc văn hóa qua lễ hội truyền thống; Bốn chƣơng tiếp theo là các lớp giao lƣu văn hóa với các tôn giáo, tín ngƣỡng nhƣ Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo, tín ngƣỡng Chăm; Chƣơng cuối cùng là việc bảo tồn phát huy bản sắc văn hóa qua lễ hội truyền thống trong đời sống xã hội Việt Nam. Trong đó, chúng tôi đặc biệt quan tâm chƣơng III, Lớp giao lƣu văn hóa với Phật giáo trong bản sắc văn hóa: Lễ hội chùa và chƣơng VII: bảo tồn phát huy bản sắc văn hóa qua lễ hội truyền thống vì nó có liên quan trực tiếp đến đề tài nghiên cứu. Tác giả Vũ Kim Yến biên soạn cuốn sách Văn hóa làng Việt Nam qua lễ hội truyền thống, tác phẩm đƣợc biên soạn dựa trên những công trình nghiên cứu của các nhà khoa học, nhà văn hóa lớn về hội làng Việt Nam. Trong đó tác giả khẳng định: "Lễ hội là một sản phẩm, là biểu hiện, là minh chứng cho nét đẹp văn hóa ngàn đời của ông cha ta. Nói đến "lễ hội", "hội hè", "đình đám"... là nói đến sinh hoạt văn hóa cộng đồng của nhân dân từ xƣa đến nay. Lễ hội chứa đựng những yếu tố văn hóa tinh thần của dân tộc, 4 đặc biệt là tính cộng cảm làng xã - vun đắp, nâng đỡ tinh thần cho từng cá nhân" [81,tr.7]. Về cấu trúc của lễ hội, cũng có nhiều tác giả đi sâu vào nghiên cứu: Trên tạp chí Di sản Văn hóa số 3 năm 2012, PGS.TS. Nguyễn Chí Bền có bài viết: Từ nghiên cứu cấu trúc đến quản lý lễ hội truyền thống của ngƣời Việt. Trong bài viết này, tác giả cho rằng: "Thực ra, cấu trúc của lễ hội truyền thống của ngƣời Việt không chỉ có hai bộ phận là lễ và hội, mà gồm nhiều thành tố hợp thành các bộ phận. Tôi nghĩ rằng, cấu trúc của lễ hội cổ truyền của ngƣời Việt gồm ba bộ phận tạo thành: Nhân vật phụng thờ, Các thành tố hiện hữu, Các thành tố tàng ẩn nhƣng hiện hữu trong thời gian thiêng"[6. tr.26]. Thông qua việc cắt lát cấu trúc của lễ hội nhƣ trên, tác giả đã xác lập quan niệm về quản lý lễ hội truyền thống của ngƣời Việt. Đi sâu vào nghiên cứu cấu trúc của lễ hội còn có luận án tiến sĩ chuyên ngành Lịch sử Văn hóa và Nghệ thuật của tác Đoàn Minh Châu với tên đề tài Cấu trúc của lễ hội đương đại (trong mối liên hệ với cấu trúc lễ hội truyền thống người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ). Viết về lễ hội cụ thể ở một địa phƣơng có nhiều tác phẩm nhƣ: Viết về lễ hội ở vùng đất thủ đô - nghìn năm văn hiến, PGS.TS. Lê Hồng Lý có cuốn sách Tìm hiểu lễ hội ở Hà Nội, cuốn sách đã phân tích rõ vai trò của lễ hội ở Hà Nội trong việc phát triển kinh tế, xã hội của Thủ đô trong xu thế hội nhập toàn cầu hiện nay ở nƣớc ta; xem xét những giá trị cụ thể của nó trong đời sống xã hội hiện tại và vai trò của nó trong sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của Thủ đô; đặc biệt khi mà Hà Nội đã đƣợc mở rộng và đang đứng trƣớc một nguy cơ bị tác động mạnh mẽ của đô thị hóa và toàn cầu hóa; xem xét lễ hội Hà Nội trong bối cảnh đô thị Hà Nội và là Thủ đô của cả nƣớc; khảo sát các lễ hội mới đƣợc du nhập vào Hà Nội trong quá trình giao lƣu và tiếp xúc với quốc tế. 5 Đăng trên các tạp chí nghiên cứu chuyên sâu, đáng chú ý có bài viết: "Bàn về lễ hội", đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo số 1/2002 của nhà nghiên cứu Đặng Nghiêm Vạn... Ngoài ra còn nhiều công trình khác nữa nhƣ: Lễ hội truyền thống các dân tộc Việt Nam các tỉnh phía Bắc của PGS.TS. Hoàng Lƣơng; Hội xuân của người Việt, những lễ hội xuân đặc sắc của tác giả Ngọc Hà... * Về lễ hội Phật giáo Trong kho tàng các lễ hội Việt Nam, phần lớn trong số đó là các lễ hội tôn giáo. Phật giáo với vị thế là một tôn giáo lớn, có phạm vi ảnh hƣởng rộng lớn với hệ thống chùa chiền bao phủ khắp nơi, là thành tố quan trọng trong đời sống tín ngƣỡng tôn giáo, tín ngƣỡng của ngƣời Việt thì hệ thống lễ hội Phật giáo là một phần không thể thiếu trong kho tàng lễ hội quý giá đó. Viết liên quan khá trực tiếp đến Lễ hội tôn giáo nói chung, lễ hội Phật giáo nói riêng, tác giả Chu Huy có công trình: Tâm thức người Việt qua lễ hội đền chùa, cuốn sách là sự tiếp cận tâm thức ngƣời Việt một cách tinh tế thông qua các hoạt động lễ hội đền chùa, các hoạt động tín ngƣỡng dân gian nhƣ: Đàn xã tắc Thăng Long, nét tâm linh kiến trúc chùa thầy hay tìm lại nguồn cội qua lễ hội Đền Hùng,… Từ đó tâm thức của ngƣời Việt đƣợc miêu tả súc tích và sống động. Với vai trò là ngƣời thực hành tín ngƣỡng, TT. Thích Đạt Đạo, ĐĐ. Thích Nguyên An, MC. Tánh Thuần có cuốn sách Nghệ thuật Diễn giảng và xướng ngôn Lễ hội Phật giáo. Cuốn sách là cẩm nang cần thiết với những ngƣời tổ chức các sự kiện lễ hội Phật giáo, đặc biệt với vai trò MC của các lễ hội Phật giáo bởi các Lễ hội Phật giáo có những đặc trƣng rất riêng trong cách sử dụng ngôn từ và phƣơng pháp diễn giảng. Vấn đề này còn đƣợc đề cập đến trong rất nhiều các công trình nghiên cứu về Phật giáo, văn hóa Phật giáo bởi xét cho cùng thì lễ hội Phật giáo là 6 một phần của văn hóa Phật giáo. Quý Long, Kim Thƣ đã sƣu tầm, hệ thống và cho ra đời tác phẩm: Tìm hiểu văn hóa Phật giáo và lịch sử các ngôi chùa ở Việt Nam, trong đó tác giả phân tích rất rõ nét về ảnh hƣởng của Phật giáo đến văn hóa, tƣ tƣởng, đạo đức dân tộc; ý nghĩa, nét đẹp của các biểu tƣởng, nghi lễ, lễ hội Phật giáo... Viết cụ thể về nghi lễ Phật giáo trong các lễ hội, tác giả Tạ Văn Tác với luận văn Thạc sĩ Tôn giáo học: Nghi lễ thờ cúng của Phật giáo ở Đồng bằng Bắc Bộ hiện nay, trong đó là những phân tích, mô tả khá kỹ lƣỡng về nghi lễ Phật giáo, và tiêu biểu trong các dịp lễ lớn nhƣ: Vu Lan, Cầu Siêu,... tác giả cũng đã phân tích và chỉ ra những giá trị của nghi lễ Phật giáo. Nhìn chung, các công trình về cả hai chủ đề kể trên đều cho ta thấy bức tranh đa dạng, đầy màu sắc của các lễ hội Việt Nam nói chung, trong đó có sự góp mặt của các lễ hội Phật giáo; lát cắt ngang về cấu trúc lễ hội; vai trò của các lễ hội với việc gìn giữ bản sắc văn hóa Việt Nam. Tuy nhiên, một công trình nghiên cứu chuyên sâu về lễ hội Phật giáo, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay với những tác động mạnh mẽ của thời cuộc thì còn vắng. Vì thế nghiên cứu này sẽ góp phần bù đắp vào mảng trống nói trên. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở khảo sát thực tiễn chỉ ra đƣợc nội dung, giá trị, và một số vấn đề đặt ra trong lễ hội Phật giáo hiện nay để đƣa ra những giải pháp nhằm bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa của lễ hội Phật giáo Việt Nam hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện đƣợc mục đích, luận văn thực hiện những nhiệm vụ sau: - Khái quát một số vấn đề lý luận về lễ hội Phật giáo và địa bàn nghiên cứu. - Chỉ ra đƣợc nội dung của lễ hội Phật giáo ở Việt Nam hiện nay qua các phƣơng diện: cấu trúc, trình tự, một số lễ hội cụ thể tiêu biểu. 7 - Chỉ ra giá trị văn hóa của lễ hội Phật giáo trên cả hai chiều kích là văn hóa Việt Nam và văn hóa Phật giáo. - Từ những vấn đề đặt ra trong lễ hội, luận văn đƣa ra những giải pháp nhằm bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa của lễ hội Phật giáo giai đoạn hiện nay. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu: Lễ hội Phật giáo Việt Nam hiện nay. 4.1. Phạm vi nghiên cứu - Thời gian: từ năm 1986 đến nay - Không gian: khảo sát một số lễ hội ở các chùa tại thành phố Hà Nội. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận: Luận văn đƣợc thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, Nhà nƣớc Việt Nam về tôn giáo. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu liên ngành của tôn giáo học nhƣ phƣơng pháp điều tra xã hội học, phƣơng pháp thống nhất logic - lịch sử, phƣơng pháp so sánh, phân tích - tổng hợp, khái quát hóa... 6. Đóng góp của luận văn Luận văn góp phần nhỏ vào công tác nghiên cứu tôn giáo nói chung, Phật giáo Việt Nam nói riêng. Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc học tập, giảng dạy và nghiên cứu về tôn giáo, đặc biệt là Phật giáo Việt Nam hiện nay. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Nội dung luận văn gồm 3 chƣơng, 7 tiết. 8 Chƣơng 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LỄ HỘI PHẬT GIÁO VÀ KHÁI QUÁT ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU 1.1. Một số vấn đề lý luận về lễ hội Phật giáo 1.1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài nghiên cứu Để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu và tiếp cận đối tƣợng nghiên cứu một cách toàn diện hơn, chúng ta không thể bỏ qua khái niệm về đối tƣợng nghiên cứu. Việc mổ xẻ nội hàm khái niệm đối tƣợng nghiên cứu cho chúng ta thấy rõ đƣợc bản chất của đối tƣợng, từ đó tiếp cận đối tƣợng khoa học hơn, toàn diện hơn. Tuy nhiên khái niệm Lễ hội Phật giáo là một khái niệm hẹp, để hiểu đƣợc nó ta cần tiếp cận những khái niệm có nội hàm rộng hơn hoặc có liên quan đến nó. * Khái niệm Lễ hội Định nghĩa và giải nghĩa Lễ hội, theo Từ điển Bách khoa Việt Nam: "Lễ là hệ thống các hành vi, động tác nhằm biểu hiện lòng tôn kính của con ngƣời với thần linh, phản ánh những ƣớc mơ chính đáng của con ngƣời trƣớc cuộc sống mà bản thân họ chƣa có khả năng thực hiện. Hội là sinh hoạt văn hóa, tôn giáo, nghệ thuật của cộng đồng, xuất phát từ nhu cầu cuộc sống, từ sự tồn tại và phát triển của cộng đồng, sự bình yên cho từng cá nhân, hạnh phúc cho từng gia đình, sự vững mạnh cho từng dòng họ, sự sinh sôi nảy nở của gia súc, sự bội thu của mùa màng, mà từ bao đời nay quy tụ niềm ƣớc mơ chung vào bốn chữ "nhân khang, vật thịnh". Lễ hội là hoạt động của một tập thể ngƣời, liên quan đến tín ngƣỡng và tôn giáo"[31, tr674]. Lý giải thêm về lễ hội, mối quan hệ giữa tôn giáo và lễ hội: Do nhận thức, ngƣời xƣa rất tin vào trời đất, sông núi, vì thế ở các làng, xã thƣờng có miếu thờ thiên thần, thổ thần, thủy thần, sơn thần. Lễ hội cổ truyền đã phản ánh hiện tƣợng đó. Tôn 9 giáo có ảnh hƣởng đáng kể đối với lễ hội, mối quan hệ này thể hiện ở cả hai chiều: đối với tôn giáo, tôn giáo thông qua lễ hội làm phƣơng tiện phô trƣơng thanh thế, ngƣợc lại đối với lễ hội, lễ hội thông qua tôn giáo để thần linh hóa những gì trần tục [Xem 31, tr 674]. Từ điển điện tử Wikipedia: Lễ hội là một sự kiện văn hóa đƣợc tổ chức mang tính cộng đồng. "Lễ" là hệ thống những hành vi, động tác nhằm biểu hiện sự tôn kính của con ngƣời với thần linh, phản ánh những ƣớc mơ chính đáng của con ngƣời trƣớc cuộc sống mà bản thân họ chƣa có khả năng thực hiện. "Hội" là sinh hoạt văn hóa, tôn giáo, nghệ thuật của cộng đồng, xuất phát từ nhu cầu cuộc sống. Trong cuốn Văn hóa Việt Nam hỏi và đáp các tác giả đƣa ra quan điểm: "Lễ hội (hay hội lễ) là một sinh hoạt văn hóa dân gian nguyên hợp mang tính cộng đồng cao của nông dân hay thị dân, diễn ra trong những chu kỳ không gian, thời gian nhất định để làm những nghi thức về nhân vật đƣợc sùng bái, để tỏ rõ những ƣớc vọng, để vui chơi trong tinh thần cộng mệnh và cộng cảm" [47, tr.197]. Từ khái niệm đó, các tác giả đi đến nhận định: "Có thể coi lễ hội cổ truyền nhƣ là thời điểm mạnh của cuộc sống; là cái mốc của một chu kỳ kết thúc và tái sinh; là cuộc đời thứ hai bên cạnh cuộc đời thực; là trạng thái thăng hoa từ đời sống thực tế; là hình thức tổng hòa văn hóa nghệ thuật; là một hiện tƣợng văn hóa mang tính trội"[47, tr.197]. Giáo sƣ Nguyễn Duy Quý định nghĩa về lễ hội: "Lễ hội truyền thống là một sinh hoạt văn hóa tổng hợp, bao gồm các mặt tinh thần và vật chất, tôn giáo, tín ngƣỡng và văn hóa nghệ thuật, linh thiêng và đời thƣờng. Đó còn là một sinh hoạt có quy mô lớn về tầm vóc và có sức mạnh cuốn hút một số lƣợng lớn những hiện tƣợng của đời sống xã hội..." [Xem 81, tr.8]. 10 * Cấu trúc Cấu trúc là một "Hệ thống những hiện tƣợng có liên quan khăng khít với nhau tới mức mỗi hiện tƣợng chỉ giữ đƣợc bản chất của mình là vì có mặt và tồn tại ở trong mối liên quan đến toàn thể. Đứng dƣới góc độ Triết học, cấu trúc đƣợc hiểu: "Phƣơng thức, cách thức tổ chức tƣơng đối bền vững của các yếu tố trong một hệ thống". Và " Nếu nhƣ khái niệm hệ thống bao quát các mặt hết sức khác nhau của một khách thể, một chính thể phức tạp nào đó (nhƣ cấu tạo, thành phần, phƣơng thức tồn tại, hình thức phát triển) thì khái niệm cấu trúc trƣớc hết vạch ra những nhân tố nhƣ tính bền vững, tính ổn định của khách thể hay đối tƣợng mà nhờ đó, nó duy trì đƣợc chất của nó khi các điều kiện bên ngoài hay bên trong biến đổi. Khi cấu trúc bị phá vỡ hay biến đổi thì hệ thống không tránh khỏi bị phá vỡ hoặc biến đổi. Nếu hệ thống là sự liên kết các yếu tố có mối liên hệ qua lại và quy định lẫn nhau thì cấu trúc là thành phần cấu tạo, là tổ chức bên trong của một chỉnh thể thống nhất" [31, tr. 459] * Khái niệm Lễ hội Phật giáo Từ những khái niệm và sự phân tích ở trên, chúng tôi hiểu khái niệm lễ hội Phật giáo: Lễ hội Phật giáo là một hình thức sinh hoạt tôn giáo mang tính cộng đồng của ngƣời theo Phật giáo (hoặc có cả sự tham gia của cả những ngƣời không theo Phật giáo), là một phƣơng thức biểu hiện đức tin của ngƣời Phật tử diễn ra vào một khoảng thời gian nhất định nào đó và mang tính chất kỷ niệm một sự kiện nào đó ý nghĩa đối với Phật giáo. 1.1.2. Truyền thống lễ hội trong Phật giáo và truyền thống lễ hội trong Phật giáo Việt Nam 1.1.2.1. Truyền thống lễ hội trong Phật giáo Trong truyền thống Phật giáo nguyên thủy, những ngày lễ hội thƣờng mang ý nghĩa lịch sử dựa theo kinh điển hơn là lễ hội dân gian truyền thống nhƣ những tôn giáo khác. Ða số các ý nghĩa lịch sử đó dựa trên cuộc đời và sự 11 nghiệp hoằng pháp của đức Phật Thế Tôn. Cho nên lễ hội là để biểu duơng đức hạnh và lời dạy của Ngài nhằm rút ra những bài học cho Tứ chúng áp dụng tu học. Vì thế, trong những ngày lễ hội này, Phật giáo nguyên thủy thƣờng tổ chức lễ thọ hạnh Ðầu Ðà, thức một đêm không ngủ, tỉnh niệm nghe pháp và hành thiền hầu gieo duyên lành giải thoát, và nhờ đó ngƣời tại gia cƣ sĩ có cơ hội tốt để hiểu thêm về lời dạy của đức Phật để áp dụng tu tập có hiệu quả. Chính vì vậy, lễ hội Phật giáo ban đầu chủ yếu là phần lễ với các nghi thức đƣợc tổ chức long trọng, trang nghiêm, mang ý nghĩa đánh dấu sự kiện lớn. Trải qua thời gian, các ngày lễ này có sự mở rộng, phát triển thêm về phần hội nhƣ ngày nay. Các ngày lễ tiêu biểu, lớn trong truyền thống Phật giáo có thể kể đến: Lễ Phật Đản, Lễ Vu Lan, Lễ dâng y Kathina... * Lễ Phật Đản Đức Phật ra đời vào một đêm trăng tròn, vào năm 563 Trƣớc Công Nguyên, tại vƣờn Lâm Tì ni. Ngài sinh ra không giống nhƣ ngƣời bình thƣờng. Khi vừa giáng sinh nhân gian, Ngài đƣợc chín con rồng phun nƣớc tắm, một mình đã có thể tự bƣớc đi bảy bƣớc, mỗi bƣớc là một đài sen hiện ra, Ngài giơ tay phải và cất lên tiếng rống sƣ tử làm chấn động mƣời phƣơng với câu nói: "Thiên thƣợng thiên hạ duy ngã độc tôn". Ngài chào đời nhƣ ánh bình minh rực rỡ, nhƣ đoá đàm ƣu bừng nở, gió nhạc êm đềm, chim hót líu lo, núi Tu di cúi đầu đón mừng bậc Thầy nhân thiên ba cõi. Ngài hƣớng về phía Bắc, ung dung đi trên bảy đoá sen vàng, một tay chỉ trời, một tay chỉ đất làm chấn động cả vũ trụ càn khôn. Nhƣ vậy, lần đầu tiên trong nhân loại, tin mừng thật sự đã đến với nhân gian. Mặc dù là hoàng tử, con vua Tịnh Phạn, trị vì một vƣơng quốc nhỏ là Ca Tỳ la vệ, Ngài đƣợc chiều chuộng, nâng niu hết mực nhƣng với trí tuệ xuất 12 chúng và tâm hồn nhạy cảm, nên khi vô tình nhìn thấy những cảnh khổ đau ở chốn ra vào hoàng cung đã tạo nên bƣớc ngoặt trong tâm hồn Ngƣời "nảy sinh cảm giác thế gian vô thƣờng và nảy ra ý nghĩ xuất gia tu đạo"[46, tr.35]. Năm 29 tuổi, Ngài rời bỏ cung điện nguy nga, từ chối giàu sang để trở thành một ngƣời ẩn tu. Một thời gian dài tu khổ hạnh vẫn không tìm đƣợc sự yên tĩnh trong tâm hồn, Ngài đi vào tƣ duy trí tuệ. Sau 49 ngày thiền định dƣới gốc cây Bồ đề, cuối cùng Ngài đã ngộ đƣợc đạo, đạt đƣợc đến chân lý. Từ đó, Ngài đi nhiều nơi giảng đạo và có biệt hiệu là Thích Ca Mâu Ni, gọi là Buddha. Lễ Phật Đản chính là ngày lễ để kỷ niệm sự kiện màu nhiệm đức Phật ra đời đó, đƣợc tổ chức hàng năm ở các nƣớc có ngƣời dân theo Phật giáo. Trƣớc năm 1959, các nƣớc Đông Á thƣờng tổ chức ngày lễ Phật Đản vào ngày 8/4 âm lịch. Từ năm 1999, ngày lễ Phật Đản 15/4 (âm lịch) đã đƣợc Liên Hiệp Quốc công nhận là ngày lễ hội văn hóa tâm linh thế giới. Lễ Phật Đản là một trong ba lễ cấu thành Lễ Tam hợp mà Liên Hiệp Quốc gọi là Vesak (lễ Phật Đản sinh, lễ Phật thành đạo và lễ Phật nhập Niết bàn). Hơn 26 thế kỷ trôi qua, nhƣng nhân loại vẫn còn nhớ hình bóng của một vị Phật đản sinh. Lễ Phật Đản là dịp để các Phật tử ôn lại cuộc đời đức Phật, bày tỏ lòng thành kính, khích lệ nghị lực của ngƣời đệ tử Phật trên lộ trình tu tập gian nan theo gƣơng đức Phật. * Lễ Vu Lan Lễ Vu Lan hay Vu Lan Bồn là phiên âm từ tiếng Phạn Ullambana, dịch sang tiếng Hán Việt là Giải Ðảo Huyền, nghĩa là cởi trói cho ngƣời bị treo ngƣợc. Ðảo Huyền là hình phạt đau khổ nhất cho loài ngạ quỉ (quỉ đói) (nỗi đau cùng cực của vong nhân). Ullambana hay Giải Ðảo Huyền có nghĩa cứu vớt những vong hồn đang phải chịu những hình phạt đau đớn vì nghiệp chƣớng do mình gây nên khi còn ở trần gian. 13 Tƣơng truyền, lễ Vu Lan có nguồn gốc từ Ðức Phật, khi Ngài chỉ cho đệ tử của Ngài là Mục Kiền Liên (Maudgalyayana) cách cứu mẹ mình khỏi hình phạt của kiếp ngạ quỉ. Về sau, các Phật tử cũng áp dụng phƣơng cách đó để cứu những vong hồn thân nhân của mình. Theo truyền thuyết trong Kinh Vu Lan, thì Mục Kiền Liên là một trong số những ngƣời đệ tử thân tín, xuất chúng của Đức Phật. Sau khi tu hành đắc quả, đạt đƣợc trạng thái tịnh tâm, có quyền pháp vô biên, Mục Kiền Liên dùng huệ nhãn thần thông tìm kiếm mẹ và nhìn thấy mẹ đang phải chịu kiếp ngạ quỷ ở dƣới địa ngục bị đói khát hành hạ, chịu dầu sôi lửa bỏng. Thƣơng mẹ, Ngài xin Đức Phật đi cứu mẹ, Đức Phật ban cho Ngài “Tích trƣợng, y và bát”. Ngài đem cơm xuống tận cõi ngạ quỷ để dâng mẹ, nhƣng vì nghiệp chƣớng quá nặng nề, khi cơm vừa đƣa lên miệng thì biến thành những cục than hồng nóng bỏng, khiến bà không ăn đƣợc. Nhìn thấy cảnh đó, Ngài vô cùng thƣơng xót mẹ, liền về xin Đức Phật chỉ cho phƣơng pháp cứu mẹ. Đức Phật thƣơng tình đã chỉ cho Ngài phƣơng pháp: “Rằm tháng bảy là ngày Tự tứ Mười phương Tăng đều dự lễ nầy Phải toan sắm sửa chớ chầy, Thức ăn trăm món, trái cây năm màu Lại phải sắm gường, nằm nệm lót Cùng thau, bồn, đèn đuốc, nhang dầu Món ăn tinh, sạch báu mầu Đựng trong bình bát Vọng – cầu kính dâng Chư Đại – đức mười phương thọ thực Trong bảy đời sẽ đặng siêu thăng 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan