Hàng hóa công cộng
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Hàng hóa công cộng là hàng hóa và dịch vụ mang hai tính chất: không
cạnh tranh và không thể loại trừ. Đối lập với hàng hóa công cộng là hàng
hóa tư nhân không mang hai tính chất trên.
Mục lục
[ẩn]
1 Tính chất của hàng hóa cộng cộng
2 Hàng hóa công cộng thuần túy và không thuần túy
3 Hàng hóa công cộng quốc gia và hàng hóa công cộng địa phương
4 Cung cấp hàng hóa công cộng
o 4.1 Cung cấp hàng hóa công cộng một cách có hiệu quả
o 4.2 Tính không hiệu quả khi khu vực tư nhân cung cấp hàng
hóa công cộng
o 4.3 Hàng hóa công cộng có thể loại trừ nhưng với phí tổn rất
lớn
5 Tham khảo
6 Xem thêm
[sửa] Tính chất của hàng hóa cộng cộng
Không thể loại trừ: tính chất không thể loại trừ cũng được hiểu trên
giác độ tiêu dùng, hàng hóa công cộng một khi đã cung cấp tại một
địa phương nhất định thì không thể hoặc rất tốn kém nếu muốn loại
trừ những cá nhân không trả tiền cho việc sử dụng hàng hóa của
mình. Ví dụ: quốc phòng là một hàng hóa công cộng nhưng quân
đội không thể chỉ bảo vệ những người trả tiền còn không bảo vệ
những ai không làm việc đó. Đối lập với hàng hóa công cộng, hàng
hóa cá nhân có thể loại trừ một cách dễ dàng, ví dụ: bảo vệ rạp hát
sẽ ngăn cản những người không có vé vào xem.
Không cạnh tranh: tính chất không cạnh tranh được hiểu trên góc
độ tiêu dùng, việc một cá nhân này đang sử dụng hàng hóa đó
không ngăn cản những người khác đồng thời cũng sử dụng nó. Ví
dụ pháo hoa khi bắn lên thì tất cả mọi người đều có thể được
hưởng giá trị sử dụng của nó. Điều này ngược lại hoàn toàn so với
hàng hóa cá nhân: chẳng hạn một con gà nếu ai đó đã mua thì
người khác không thể tiêu dùng con gà ấy được nữa. Chính vì tính
chất này mà người ta cũng không mong muốn loại trừ bất kỳ cá
nhân nào trong việc tiêu dùng hàng hóa công cộng.
[sửa] Hàng hóa công cộng thuần túy và không thuần túy
Trong thực tế, có một số hàng hóa công cộng có đầy đủ hai tính chất nêu
trên như quốc phòng, ngoại giao, đèn biển, phát thanh...Các hàng hóa đó
có chi phí biên để phục vụ thêm một người sử dụng bằng 0, ví dụ đài
phát thanh một khi đã xây dựng xong thì nó ngay lập tức có thể phục vụ
tất cả mọi người, kể cả dân số luôn tăng.
Tuy nhiên có nhiều hàng hóa công cộng không đáp ứng một cách chặt
chẽ hai tính chất đó ví dụ đường giao thông, nếu có quá đông người sử
dụng thì đường sẽ bị tắc nghẽn và do đó những người tiêu dùng trước đã
làm ảnh hưởng đến khả năng tiêu dùng của những người tiêu dùng sau.
Đó là những hàng hóa công cộng có thể tắc nghẽn. Một số hàng hóa
công cộng mà lợi ích của nó có thể định giá thì gọi là hàng hóa công
cộng có thể loại trừ bằng giá. Ví dụ đường cao tốc, cầu...có thể đặt các
trạm thu phí để hạn chế bớt số lượng người sử dụng nhằm tránh tắc
nghẽn.
[sửa] Hàng hóa công cộng quốc gia và hàng hóa công cộng địa phương
Hàng hóa công cộng quốc gia: do chính quyền trung ương cung
cấp cho toàn bộ quốc gia. Những loại hàng hóa có cả hai tính chất
trên ở mức cao sẽ thường được xếp vào hàng hóa công cộng quốc
gia. Một số hàng hóa công cộng quốc gia tiêu biểu là ngoại giao,
quốc phòng, chính sách lưu thông tiền tệ, v.v…
Hàng hóa công cộng địa phương: do chính quyền địa phương cung
cấp chủ yếu cho công dân địa. Hàng hóa công cộng địa phương
thường chỉ mang một trong hai tính chất nói trên hoặc mang cả hai
tính chất nhưng ở mức độ không cao. Một số hàng hóa công cộng
địa phương tiêu biểu là giáo dục phổ cập, y tế cộng đồng, vệ sinh
môi trường, cung cấp nước sạch, v.v…
Hơn nữa, tính không cạnh tranh trong tiêu dùng của hàng hóa công
cộng không bó hẹp trong phạm vi địa phương, quốc gia mà còn có
tính chất quốc tế. Tri thức có thể coi là một hàng hóa công cộng
quốc tế, mọi người dân trên thế giới đều có thể được hưởng lợi ích
do tri thức đem lại.
[sửa] Cung cấp hàng hóa công cộng
[sửa] Cung cấp hàng hóa công cộng một cách có hiệu quả
Điều kiện Samuelson: muốn xác định mức cung cấp hàng hóa công
cộng một cách hiệu quả, cần xác định đường cung và đường cầu
của nó. Mỗi cá nhân có một ngân sách nhất định và có nhu cầu
khác nhau về hàng hóa công cộng (G) và hàng hóa cá nhân (X),
nếu giá của hàng hóa công cộng là t (mức thuế cá nhân phỉ trả) và
của hàng hóa cá nhân là p thì đường ngân sách của cá nhân sẽ có
dạng: I = pX + tG. Ở mỗi mức thuế khác nhau, cá nhân sẽ có cầu
về hàng hóa công cộng khác nhau và để tối đa hóa lợi ích, mỗi cá
nhân sẽ có tỷ suất thay thế biên giữa hàng hóa công cộng và hàng
hóa cá nhân bằng tỷ số giá giữa chúng (t/p). Đường cầu của mỗi cá
nhân về hàng hóa công cộng cũng chính là tỷ suất thay thế biên
nên đường cầu tổng hợp của tất cả các cá nhân là tổng tỷ suất thay
thế biên. Mặt khác đường cung về hàng hóa công cộng phản ánh
chi phí biên mà xã hội phải bỏ ra để sản xuất nó và để tối ưu hóa
lợi ích, đường cung này cũng chính là tỷ suất chuyển đổi biên giữa
hàng hóa công cộng và hàng hóa cá nhân. Nhà kinh tế học Paul
Samuelson đã chứng minh rằng, để hàng hóa công cộng được cung
cấp một cách hiệu quả thì tổng tỷ suất thay thế biên của các cá
nhân phải bằng tỷ suất chuyển đổi biên hay tổng giá trị mà các cá
nhân đánh giá đối với đơn vị hàng hóa công cộng cuối cùng bằng
chi phí tăng thêm cho xã hội để sản xuất nó. Dó chính là điều kiện
Samuelson về cung cấp hiệu quả hàng hóa công cộng. Tuy vậy, kể
cả khi đã xác định được mức cung cấp hiệu quả thì việc thực thi
chúng lại còn phụ thuộc vào quá trình lựa chọn công cộng nên
không phải lúc nào cũng đạt được mức hiệu quả
Cân bằng Lindahl: theo các điều kiện của hiệu quả Pareto, hàng
hóa công cộng sẽ được cung cấp một cách hiệu quả nếu tổng giá trị
mà các cá nhân đánh giá đối với đơn vị hàng hóa công cộng cuối
cùng bằng chi phí tăng thêm đối với xã hội để cung cấp nó. Tuy
nhiên vấn đề đặt ra là hàng hóa công cộng thuần túy không có thị
trường để trao đổi như hàng hóa cá nhân, nơi mà cân bằng thị
trường do cung cầu quyết định, do vậy việc xác định điểm cân
bằng hiệu quả gặp khó khăn. Để giải quyết vấn đề xác định mức
cung cấp hàng hóa công cộng thuần túy một cách có hiệu quả, nhà
kinh tế học người Thụy Điển Erik Lindahl đã xây dựng một mô
hình mô phỏng mô hình thị trường cho hàng hóa công cộng gọi là
cân bằng Lindahl. Mô hình này xác định nhu cầu của mỗi cá nhân
về một loại hàng hóa công cộng thuần túy tương ứng với mức thuế
(chính là giá của hàng hóa công cộng) ấn định cho cá nhân đó,
mức cung cấp hàng hóa công cộng thuần túy có hiệu quả là mức
mà cầu của các cá nhân đều như nhau. Lưu ý rằng mức cầu của
mỗi cá nhân tương ứng với những mức thuế khác nhau nên cân
bằng Lindahl khác với cân bằng thị trường hàng hóa cá nhân khi
mà ở đó cân bằng thị trường ở mức giá như nhau đối với mọi cá
nhân.
Thế nhưng mô hình cân bằng Lindahl trong thực tế lại vấp phải vấn đề
kẻ đi xe không trả tiền. Để xác định đúng mức cung cấp hàng hóa công
cộng hiệu quả, các cá nhân phải thực hiện nguyên tắc nhất trí và tự
nguyện đóng góp đồng thời phải bộc lộ một cách trung thực nhu cầu của
mình về hàng hóa công cộng. Nếu một cá nhân biết được số tiền mà cá
nhân khác sẵn sàng đóng góp để có hàng hóa công cộng thì người đó có
thể bộc lộ nhu cầu của mình về hàng hóa công cộng cũng như số tiền sẵn
sàng đóng góp ít hơn thực tế. Trong trường hợp cực đoan, nếu một
người biết rằng việc mình có trả tiền hay không cũng không ảnh hưởng
gì đến việc cung cấp hàng hóa công cộng thì anh ta sẽ không trả tiền hiện tượng kẻ đi xe không trả tiền. Nếu có rất ít kẻ đi xe không trả tiền
thì hàng hóa công cộng vẫn có thể được cung cấp một cách hiệu quả.
Trong những cộng đồng nhỏ, khi mà mọi cá nhân biết rõ nhau nên việc
che giấu nhu cầu về hàng hóa công cộng khó thực hiện thì dư luận, áp
lực cộng đồng có thể buộc mọi người đóng góp đầy đủ để có hàng hóa
công cộng. Ví dụ: một xóm có thể yêu cầu các hộ gia đình đóng góp để
bê tông hóa con đường chung một cách khá dễ dàng. Tuy nhiên, trong
cộng đồng lớn thì vấn đề trở nên rất phức tạp, không thể hoặc phải tốn
chi phí rất lớn mới có thể loại trừ những kẻ đi xe không trả tiền. Đặc biệt
nếu hàng hóa công cộng do tư nhân cung cấp thì họ không có công cụ,
chế tài để buộc những người sử dụng trả tiền. Đây chính là nguyên nhân
quan trọng khiến khu vực tư nhân không muốn cung cấp hàng hóa công
cộng. Vì thế, chính phủ phải đóng vai trò cung cấp hàng hóa công cộng
và thu các khoản đóng góp thông qua thuế.
Cùng với sự phát triển của công nghệ, tính chất không thể loại trừ ngày
càng bị hạn chế. Hiện tượng đi xe không trả tiền, vì thế, có thể ngăn
chặn dễ hơn. Ví dụ, nhờ sự phát triển của công nghệ truyền hình, ngày
nay đài truyền hình có thể cung cấp dịch vụ qua đường cáp thuê bao, qua
đầu thu có cài mã khóa, nên có thể ngăn chặn tốt những người không
chịu mất tiền mà vẫn xem được truyền hình. Điều này giải thích tại sao,
gần đây, tư nhân ngày càng tham gia nhiều hơn vào việc cung cấp hàng
hóa công cộng.
[sửa] Tính không hiệu quả khi khu vực tư nhân cung cấp hàng hóa công
cộng
Cây cầu - một ví dụ về hàng hóa công cộng có thể loại trừ bằng giá
nhưng điều đó là không được mong muốn
Đối với những hàng hóa công cộng có thể loại trừ bằng giá thì để ngăn
chặn tình trạng tắc nghẽn, cần áp dụng việc thu phí để những người tiêu
dùng có thể được hưởng đầy đủ lợi ích do hàng hóa công cộng mang lại.
Tuy nhiên nếu mức phí quá cao (chẳng hạn do chi phí giao dịch để thực
hiện cơ chế loại trừ lớn) thì số lượng người sử dụng có thể thấp hơn
điểm gây tắc nghẽn quá nhiều dẫn đến tổn thất phúc lợi xã hội. Trong
trường hợp khu vực tư nhân đứng ra cung cấp hàng hóa cộng cộng thì
mức phí họ thu của người tiêu dùng sẽ khiến cho tổn thất phúc lợi xã hội
xảy ra. Hình bên là đồ thị minh họa trường hợp một cây cầu có công suất
thiết kế là Qc, trong khi nhu cầu đi lại tối đa qua đó chỉ là Qm. Nếu việc
qua cầu miễn phí thì sẽ có Qm lượt người đi qua nhưng nếu thu phí ở
mức p thì chỉ còn Qe lượt và xã hội bị tổn thất một lượng bằng diện tích
hình tam giác bôi đậm. Do vậy, đối với hàng hóa công cộng mà chi phí
biên để cung cấp bằng 0 hoặc không đáng kể thì hàng hóa đó nên được
cung cấp miễn phí, kể cả khi nó có thể được loại trừ bằng giá.
Một nguyên nhân nữa khiến cho tư nhân cung cấp hàng hóa công cộng
không hiệu quả là nó thường có xu hướng được cung cấp với số lượng ít.
Một người có vườn bên đường được trồng hoa thì cả khu vực gần đó sẽ
tăng vẻ mỹ quan cũng như nhiều người cùng được thưởng thức vẻ đẹp
của hoa. Thế nhưng người trồng hoa sẽ cân đối thời gian, chi phí bỏ ra
với nhu cầu thưởng thức vẻ đẹp của hoa của cá nhân mình chứ không
tính đến nhu cầu của những người hàng xóm, chính vì vậy người đó
nhiều khả năng sẽ trồng ít hoa đi.
[sửa] Hàng hóa công cộng có thể loại trừ nhưng với phí tổn rất lớn
Hàng hóa công cộng có chi phí giao dịch lớn
Có những hàng hóa công cộng mà chi phí để duy trì hệ thống quản lý
nhằm loại trừ bằng giá (gọi là chi phí giao dịch) rất tốn kém, ví dụ chi
phí để duy trì hệ thống các trạm thu phí trên đường cao tốc,...thì có thể
sẽ hiệu quả hơn nếu cung cấp nó miễn phí và tài trợ bằng thuế. Tuy vậy,
để cân nhắc việc này cần so sánh tổn thất phúc lợi xã hội trong hai
trường hợp. Đồ thị bên phải mô tả việc lựa chọn này. Giả sử hàng hóa
công cộng có chi phí biên để sản xuất là c và do phát sinh thêm chi phí
giao dịch nên giá của nó bị đẩy lên tới p. Mức cung cấp hàng hóa cộng
cộng hiệu quả nhất là khi chi phí biên bằng lợi ích biên nghĩa là Qo. Tuy
nhiên do giá bị đẩy lên p bởi chi phí giao dịch nên chỉ còn Qe người sử
dụng hàng hóa, xã hội bị tổn thất một lượng phúc lợi bằng diện tích tam
giác ABE. Thế nhưng nếu hàng hóa được cung cấp miễn phí thì sẽ có
Qm người sử dụng chứ không phải Qo. Trong trường hợp này lợi ích
biên (chính là đường cầu) nhỏ hơn chi phí biên c nên xã hội cũng bị tổn
thất một lượng phúc lợi bằng diện tích hình tam giác EFQm do tiêu dùng
quá mức. Trong trường hợp này chính phủ muốn quyết định xem nên
cung cấp hàng hóa công cộng miễn phí hay thu phí cần phải so sánh tổn
thất phúc lợi xã hội, nếu tổn thất do tiêu dùng quá mức nhỏ hơn tổn thất
trong trường hợp tiêu dùng dưới mức hiệu quả thì cung cấp miễn phí và
ngược lại. Tuy nhiên việc cung cấp hàng hóa cộng cộng miễn phí hay
thu phí hoàn toàn không liên quan đến khu vực công cộng hay khu vực
tư nhân sẽ sản xuất nó. Nếu chính phủ thấy rằng một hàng hóa công
cộng nào đó cần được cung cấp miễn phí thì chính phủ hoàn toàn có thể
đặt hàng khu vực tư nhân sản xuất rồi cung cấp nó
- Xem thêm -