Lời mở đầu
Ngày nay xu thế toàn cầu hoá đang diễn ra ngày càng nhanh
và ngày càng sâu rộng, tất cả các doanh nghiệp đều sẽ phải chơi
trên một sân chơi chung, sân chơi công bằng và bình đẳng, sân
chơi chỉ dành cho những người biết tận dụng cơ hội. Điều này mở
ra rất nhiều cơ hội nhưng nó cũng khiến cho các doanh nghiệp
phải đối mặt với những khó khăn thách thức ngày càng lớn không
chỉ trong nước mà còn từ các đối thủ đến từ các quốc gia khác trên
thế giới. Chính vì lẽ đó các doanh nghiệp phải không ngừng nâng
cao năng lực cạnh tranh của mình để tồn tại và phát triển, vượt qua
các đối thủ cạnh tranh. Làm thế nào để nâng cao năng lực cạnh
tranh? Đây là câu hỏi mà doanh nghiệp nào cũng phải đặt ra và có
rất nhiều câu trả lời khác nhau cho từng doanh nghiệp. Tuy nhiên
một trong những câu trả lời quan trọng chính là Sự đổi mới . Các
doanh nghiệp phải luôn có ý thức đổi mới mình để theo kịp với sự
phát triển chóng mặt của xã hội. Không những thế họ còn phải là
người đi trước và tạo ra những tiến bộ ấy.
Công ty gạch ốp lát Hà Nội cũng không nằm ngoài quy luật
ấy. Công là một trong những đơn vị sản xuất và kinh doanh gạch
ốp lát quy mô lớn của nước ta. Hơn thế nữa Công ty còn là đơn vị
đầu tiên, là người đi tiên phong trong lĩnh vực này. Tuy nhiên hiện
nay hiệu quả kinh doanh của Công ty ngày càng đi xuống, thu nhập
của người lao động ngày càng giảm. Một trong những nguyên nhân
chính là do sản phẩm của Công ty không cạnh tranh được trên thị
trường. Để có giúp cho Công ty tiếp tục tồn tại và phát triển thì
Công ty cần có những đổi mới hiệu quả, mà trước tiên là đổi mới
trong công nghệ một trong những yếu tố hàng đầu tạo nên sức cạnh
tranh của một doanh nghiệp. Chính vì vậy em đã chọn đề tài: “Kế
hoạch đổi mới công nghệ nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của
Công ty gạch ốp lát Hà Nội”
Chuyên đề gồm 3 chương:
Chương 1: Công ty gạch ốp lát Hà Nội và sự cần thiết
phải đổi mới sản phẩm
Chương II: Đánh giá thực trạng đổi mới sản phẩm của
Công ty gạch ốp lát Hà Nội
Chương III: Kế hoạch đổi mới sản phẩm
Chuyên đề nghiên cứu thực trạng sản phẩm của Công ty gạch
ốp lát Hà Nội và đưa ra kế hoạch đổi mới sản phẩm nhằm góp
phần nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty.
Trong suốt quá trình thực hiện chuyên đề em đã nhận được sự giúp
đỡ rất lớn từ phía Công ty gạch ốp lát Hà Nội đặc biệt là các cán
bộ và nhân viên phòng Kế hoạch & Đầu tư cùng sự hướng dẫn
nhiệt tình của thầy giáo TS Ngô Thắng Lợi khoa KH&PT.
Do còn nhiều hạn chế về kiến thức nên chuyên đề không tránh
khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của
các thầy cô và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Chương 1: Công ty gạch ốp lát Hà Nội và sự cần thiết phải đổi
mới sản phẩm
I. Công ty gạch ốp lát Hà Nội
1. Lịch sử hình thành
Tiền thân của công ty gạch ốp lát Hà Nội là xí nghiệp gạch
ngói Hữu Hưng chuyên sản xuất gạch xây dựng được thành lập
theo quyết định số: 094A/BXD/TCLĐ tháng 6 năm 1959 của bộ
trưởng bộ xây dựng. Tháng 8 năm 1994 xí nghiệp gạch ngói Hữu
Hưng được đổi tên thành công ty gốm xây dựng Hữu Hưng. Và
công ty chính thức được tách thành công ty gạch ốp lát Hà Nội
theo quyết định số: 284/QĐ-BXD ngày 15 tháng 5 năm 1998. Từ
đây công ty gạch ốp lát Hà Nội trực thuộc tổng công ty Thủy tinh
và gốm xây dựng (VIGLACERA)- Bộ xây dựng.
Những nét sơ lược về công ty:
♦ Tên gọi: công ty gạch ốp lát Hà Nội
♦ Tên giao dịch quốc tế: HN ceramic Tiles company
♦ Trụ sở: Phường Trung Hòa quận Cầu Giấy thành phố Hà
Nội
♦ Điện thoại: 045530771
♦ Fax: 048524889
♦ Email:
[email protected]
♦ Website: www.ceramicshn.com
♦ Tổng diện tích mặt bằng trong kinh doanh: 22600m2
Tổng số vốn kinh doanh: 317.762.877.000 (đ)
Trong đó:
Vốn cố định: 204.236.154.000 (đ)
Vốn lưu động: 113.526.723.000 (đ)
Tổng số cán bộ công nhân viên trong công ty: 860 người
Tư cách pháp nhân: công ty gạch ốp lát Hà Nội là một doanh
nghiệp nhà nước hạch toán kinh tế độc lập, tự chủ về tài chính, là
thành viên chịu sự quản lí của tổng công ty Thủy tinh và gốm xây
dựng thuộc bộ Xây dựng.
Ngành nghề kinh doanh: sản xuất và cung ứng gạch ốp lát
các loại
2. Chức năng hoạt động
Hiện nay công ty đang tiến hành sản xuất và kinh doanh các
loại sản phẩm về gạch ốp lát phục vụ nhu cầu xây dựng.
♦ Về sản phẩm
Sản phẩm của công ty gạch ốp lát Hà Nội là các loại gạch
tráng men cao cấp được sản xuất trên dây chuyền công nghệ hiện
đại nhập từ nước ngoài với nguyên liệu đa dạng, được nhập từ
nhiều nguồn khác nhau. Các sản phẩm của công ty bao gồm:
Tên sản phẩm
Loại kích cỡ
Gạch lát nền
200 x 200 x 7,5mm
300 x 300 x 8mm
400 x 400 x 9mm
500 x 500 x 10mm
Gạch lát nhà vệ sinh
200 x 200 x 7,5mm
250 x 250 x 7,5mm
Gạch viền
100 x 300 x 8mm
100 x 400 x 9mm
130 x 400 x 8mm
Bảng 1: Các sản phẩm của công ty gạch ốp lát Hà Nội
Với công nghệ hiện đại công ty đã sản xuất được những sản
phẩm đa dạng về mẫu mã, chủng loại, kích cỡ, phong phú về màu
sắc, hoa văn.
♦ Đặc điểm sản xuất của công ty gạch ốp lát Hà Nội ???
- Các yếu tố đầu vào cho quá trình sản xuất của doanh nghiệp
bao gồm đất sét, cao lanh, đôlômit, fenspats….Các nguyên liệu đều
ở rất xa vị trí nhà máy của Công ty nên khiến cho chi phí về vận
chuyển tăng lên, làm ảnh hưởng lớn đến giá thành và khả năng
cạnh tranh của Công ty.
- Chu kì sản xuất ngắn, cơ cấu chi phí sản xuất sản phẩm ổn
định tạo điều kiện cho quay vòng vốn nhanh cũng như tạo sự ổn
định cho quá trình sản xuất và kinh doanh của Công ty.
- Dây chuyền sản xuất hiện đại đòi hỏi tính chính xác cao và
yêu cầu chặt chẽ về an toàn lao động. Đặc điểm này vừa là yêu cầu
vừa là động lực giúp Công ty tăng cường công tác quản lý và thực
hiện các biện pháp về an toàn lao động.
3. Tổ chức bộ máy
Bộ máy của công ty gạch ốp lát Hà Nội với hơn 800 cán bộ
được tổ chức theo mô hình trực tuyến chức năng. Sơ đồ tổ chức bộ
máy của công ty như sau:
Theo sơ đồ trên chức năng nhiệm vụ cụ thể của từng bộ phận
như sau:
* Ban giám đốc công ty:
Bao gồm giám đốc và 3 phó giám đốc
- Giám đốc công ty
Là người đứng đầu bộ máy lãnh đạo của công ty, là đại diện
cho công ty trong việc kí kết hợp đồng kinh tế. Ngoài ra giám đốc
còn là ngừời trực tiếp điều hành các phòng ban chức năng.
- Phó giám đốc
Là những người tham mưu, giúp việc trực tiếp cho giám đốc,
chịu trách nhiệm về các nghiệp vụ cụ thể trong phạm vi chức năng
của mình.
Phó giám đốc phụ trách sản xuất:
Là người trực tiếp phụ trách phụ trách sản xuất, tổ chức điều
hành bộ máy sản xuất của toàn công ty, chịu trách nhiệm trước
giám đốc về kết quả điều hành sản xuất.
Phó giám đốc phụ trách kinh doanh:
Là người phụ trách phòng kinh doanh, chịu trách nhiệm lập
kế hoạch kinh doanh, chiến lược kinh doanh trình giám đốc phê
chuẩn. Chỉ đạo việc thực thi kế hoạch kinh doanh, chiến lược kinh
doanh của bộ phận kinh doanh. Ngoài ra Phó giám đốc phụ trách
có trách nhiêm đưa ra các giải pháp thúc đẩy quá trình tiêu thụ sản
phẩm và phát triển thị trường.
Phó giám đốc phụ trách thiết bị:
Trực tiếp phụ trách phân xưởng cơ điện, chịu trách nhiệm
trực tiếp với giám đốc về kết quả quản lí điều hành mọi hoạt động
liên quan đến máy móc của công ty, đàm bảo cho quá trình sản
xuất được liên tục.
- Các phòng ban
Phòng hành chính
Chức năng chính là quả lí và thực hiện toàn bộ công tác hành
chính trong công ty.
Phòng tổ chức
Chịu trách nhiệm quản lí mọi công tác về lao động, tổ chức
lao động: tiền lương, bảo hiểm, định mức lao động …
Phòng tài chính kế toán
Có chức năng quản lí và theo dõi việc biến động vốn kinh
doanh trong công ty bao gồm cả việc lập kế hoạch tài chính và tổ
chức, giám sát việc thực hiện kế hoạch đó; thực hiện hạch toán kế
toán quá trình hoạt động của doanh nghiệp.
Phòng kế hoạch đầu tư
Tổ chức việc lập các kế hoạch của công ty bao gồm: kế
hoạch sản xuất, kế hoạch giá thành, kế hoạch cung ứng vật tư…và
giám sát đánh giá việc thực hiện kế hoạch.
Phòng kĩ thuật – KCS
Xây dựng và hoàn thiện quy trình công nghệ sản xuất, nghiên
cứu sản phẩm mới; kiểm tra đánh giá chất lượng vật tư, nguyên vật
liệu, sản phẩm…
Phòng xuất khẩu
Nghiên cứu tìm hiểu, xúc tiến việc mở rộng thị trường xuất
khẩu kết hợp với phòng kinh doanh.
4. Tình hình kinh doanh của công ty gạch ốp lát Hà Nội
Tình hình kinh doanh của công ty gạch ốp lát Hà Nội được
thể hiện qua các chỉ tiêu tổng hợp trong những năm vừa qua (bảng
2)
MỘT SỐ CHỈ TIÊU TỔNG HỢP QUA CÁC NĂM
Đơn vị: Nghìn đồng
Chỉ tiêu
ĐVT
Thực hiện Thực hiện Thực hiện
năm 2003 năm 2004 năm 2005
Tổng giá trị sản Trđ
xuất
395.656
375.380
Sản lượng sản M2
xuất
6.381.556
6.054.512 5.600.000
Sản lượng tiêu M2
6.047.170
6.100.000 5.515.320
347.200
thụ
Thu nhập bình Trđ
quân/ng/tháng
1.672
1.492
1.455
Nguồn: Công ty gạch ốp lát Hà Nội
Bảng 2: Một số chỉ tiêu tổng hợp về tình hình kinh doanh qua
các năm
BÁO CÁO KẾT QUẢ KINH DOANH QUA CÁC NĂM
Đơn vị: Nghìn đồng
Chỉ tiêu
Năm 2004
Năm 2005
290.611.000
273.147.000
269.687.424
253.293.710
20.923.576
19.853.290
1.047.600
108.000
Chi phí BH 16.894.112
16.242.907
15.257.342
Chi
3.083.069
2.985.948
550.000
530.000
550.000
530.000
396.000
381.600
DT
Năm 2003
thuần 304.412.000
về BH và
CCDV
Giá
vốn 280.416.867
hàng bán
LN gộp
Chi
23.995.133
phí 1.296.000
HĐTC
phí 3.455.021
QLKD
LN
thuần 2.350.000
từ HĐKD
Tổng
LN 2.350.000
trước thuế
LN
thuần 1.692.000
sau thuế
Nguồn Công ty gạch ốp lát Hà Nội
Bảng 3: Báo cáo kết quả kinh doanh
Nhìn vào bảng trên ta nhận thấy tình hình kinh doanh của
công ty hiện đang gặp nhiều khó khăn thể hiện qua việc doanh thu
liên tục giảm qua các năm, kéo theo lợi nhuận thuần cũng giảm đi
đáng kể, và thu nhập bính quân của công nhân viên cũng giảm đi.
Đây là một điều đáng lo ngại của công ty gạch ốp lát Hà Nội hiện
nay. Công ty đang đứng trước những khó khăn không nhỏ trong
quá trình phát triển. Kết quả kinh doanh của Công ty kém hơn
nhiều so với các năm trước là do một số nguyên nhân:
Sở dĩ có tình trạng trên là do công ty gạch ốp lát Hà Nội đang
gặp phải những khó khăn như sau:
- Một trong những khó khăn của công ty gạch ốp lát Hà Nội
là công ty ở xa vùng nguyên vật liệu: đất sét ở Sóc Sơn, Feldspar
Yên Bái Tuyên Quang…và một số nguyên liệu nhập ngoại từ Thái
Lan, Malaixia, Tây Ban Nha…
- Các đối thủ cạnh tranh của công ty về sản xuất gạch
Ceramic ngày càng nhiều, qui mô ngày càng lớn, công nghệ ngày
càng hiện đại. Trong đó có những thương hiệu nổi tiếng và được
người tiêu dùng ưa thích như gạch Đồng Tâm, Taicera, Mĩ Đức,
ngoài ra công ty còn phải đương đầu với sự cạnh tranh của hàng
hóa Trung Quốc đang chiếm ưu thế rất lớn về giá cả.
- Một vấn đề lớn hiện nay của Công ty là tình hình thị trường
đang gây khó khăn chung cho toàn ngành gạch ốp lát, đó là tình
trạng cung lớn hơn cầu. Theo thống kê của bộ xây dựng thì hiện
nay cầu của ngành chỉ bằng khoảng 75-80% tổng cung về sản
phẩm này trên thị trường (chỉ trừ một số loại sản phẩm mới, kích
thước lớn). Chính vì vậy mà từ vài năm gần đây Công ty đều phải
cắt giảm sản xuất, chỉ sản xuất khoảng 80% công suất của Công ty
nhưng vẫn bị tồn đọng rất nhiều sản phẩm không bán được. Đây có
thể nói là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng kinh doanh ngày
càng kém hiệu quả của Công ty.
- Ngoài ra giá nhiên liệu như Gaz, dầu, xăng lại đươc điều
chỉnh tăng liên tục đã ảnh huởng đáng kể đến tình hình lợi nhuận
của Công ty.
Như vậy vấn đề cần quan tâm hiện nay của công ty là đẩy
mạnh tiêu thụ, tìm ra hướng phát triển mới cho công ty nhằm nâng
cao khả năng cạnh tranh của mình. Công ty cần tăng cường đầu tư
vào công tác nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí và quan
trọng nhất là tìm ra hướng mới cho phát triển sản phẩm, tránh khỏi
tình trạng chung của ngành hiện nay.
II. Sự cần thiết phải đổi mới công nghệ của công ty gạch ốp lát
Hà Nội
1. Đổi mới công nghệ và vai trò của nó đối với doanh nghiệp
1.1. Một số khái niệm
* Công nghệ
Hiện nay có rất nhiều định nghĩa về công nghệ, mỗi khái
niệm đó đều dựa trên một khía cạnh nhất định như khoa học, thị
trường, kỹ thuật… Trong phạm vi nghiên cứu của chuyên đề xin
dựa theo định nghĩa đang được sử dụng rộng rãi ở nước ta.
Theo luật khoa học và công nghệ năm 2000 thì “ Công nghệ
là tập hợp các phương pháp, quy trình, kỹ năng, bí quyết, công cụ,
phương tiện dùng để biến đổi các nguồn lực thành sản phẩm”.
Định nghĩa này nói rõ công nghệ bao gồm cả “công cụ và phương
tiện”, hay còn gọi là phần cứng và các “phương pháp, quy trình, kỹ
năng” hay chính là phần mềm của công nghệ.
Như vậy, có thể hiểu đơn giản công nghệ chính là một hệ
thống kiến thức (phương pháp, kỹ năng ) và phương tiện (máy móc
thiết bị) tham gia vào quá trình sản xuất ra sản phẩm và dịch vụ.
Từ đó ta thấy bất cứ một công nghệ nào dù đơn giản cũng
phải gồm bốn thành phần cơ bản tác động đồng bộ qua lại lẫn nhau
để tạo ra sự biến đổi mong muốn hay chính là tạo ra sản phẩm và
dịch vụ. Các thành phần đó là:
- Thành phần trang thiết bị gồm: máy móc thiết bị, khí cụ,
nhà xưởng…
- Thành phần con người đó là kỹ năng tay nghề, kinh nghiệm,
tính sáng tạo, sự khôn ngoan, khả năng lãnh đạo, đạo đức lao
động...của những người vận hành và sử dụng công nghệ.
- Thành phần thông tin gồm các bí quyết, quy trình, phương
pháp, các dữ liệu và các bản thiết kế về sản phẩm, quá trình sản
xuất, vận hành dây chuyền thiết bị…
- Thành phần tổ chức thể hiện trong việc bố trí, sắp xếp, điều
phối, quản lý các hoạt động trong quá trình sản xuất.
Trong đó, thành phần đầu tiên “trang thiết bị” được gọi là “
phần cứng”, còn ba thành phần sau thường được gọi là “phần
mềm”.
* Đổi mới công nghệ
Có thể hiểu đổi mới công nghệ là sự chủ động thay thế một
phần đáng kể (cốt lõi, cơ bản) hay toàn bộ công nghệ đang sử dụng
bằng công nghệ khác. Do vậy việc đổi mới có thể là đổi mới một
phần (tức là đổi mới một hoặc vài yếu tố trong bốn yếu tố của công
nghệ: máy móc thiết bị, nhân lực, phương pháp hoặc quy trình
quản lý) hoặc đổi mới đồng thời cả bốn yếu tố trên. Nói một cách
khác đổi mới công nghệ là một tiến bộ về công nghệ, tiến bộ đó dưới dạng phương pháp mới về sản xuất hay kỹ thuật mới, tổ chức,
quản lý hay marketing mà nhờ chúng, sản phẩm sản xuất ra sẽ có
năng suất cao hơn, chất lượng tốt hơn, chí phí sản xuất thấp hơn và
do đó giá cả có thể giảm xuống.
Về nội dung: đổi mới công nghệ bao gồm hai nội dung là đổi
mới sản phẩm và đổi mới quy trình sản xuất.
Đổi mới sản phẩm là việc tạo ra một sản phẩm hoàn toàn
mới, hoặc cải tiến các sản phẩm truyền thống của doanh nghiệp
mình hoặc doanh nghiệp khác. Đối với các nước đang phát triển do
còn hạn chế nhiều mặt nên thường lựa chọn việc cải tiến sản phẩm.
Cải tiến sản phẩm thường theo xu hướng hoàn thiện sản phẩm hiện
có qua việc cải tiến các thông số kỹ thuật, hoặc các kiểu dáng, màu
sắc, nguyên liệu sản xuất. Cải tiến sản phẩm cho phép tiết kiệm
nguồn tài nguyên thiên nhiên, hoặc tăng độ hấp dẫn của sản phẩm.
Đổi mới quy trình sản xuất là việc tạo ra một quy trình sản
xuất mới hoặc đạt được những tiến bộ đáng kể về mặt công nghệ
đối với quy trình sản xuất. Tiến bộ công nghệ đối với các nước
đang phát triển được tập trung chủ yếu vào việc cải tiến hiệu quả
của quy trình công nghệ. Việc cải tiến này cho phép nâng cao năng
suất máy móc thiết bị cũng như nâng cao năng suất của người lao
động.
1.2. Vai trò của đổi mới sản phẩm đối với doanh nghiệp
Trước hết cần khẳng định rằng đổi mới công nghệ có vai trò
rất lớn đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp,
nhất là trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh khốc liệt.
- Thứ nhất, đổi mới công nghệ làm nâng cao trình độ năng
lực sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, làm tăng năng suất
lao động, sử dụng hợp lý tiết kiệm nguyên vật liệu nhờ đó mà phát
huy có hiệu quả nguồn lực về vốn và lao động của doanh nghiệp.
- Đổi mới công nghệ là cơ sở để nâng cao chất lượng sản
phẩm, đa dạng hoá mặt hàng, nâng cao sức cạnh tranh của doanh
nghiệp. Điều này càng đặc biệt có ý nghĩa khi các doanh nghiệp
ngày càng phải đối mặt với sức ép cạnh tranh ngày càng lớn không
chỉ từ phía các doanh nghiệp trong nước mà còn từ phía các doanh
nghiệp nước ngoài. Đối với hầu hết các doanh nghiệp trên thế giới
hiện nay, nhất là tại các nước phát triển, chi phí nghiên cứu và phát
triển sản phẩm mới chiếm tỷ trọng khá lớn trong cơ cấu chi phí
nhằm đầu tư nghiên cứu các công nghệ kỹ thuật mới nâng cao chất
lượng và năng suất lao động hay tạo ra các sản phẩm mới, độc đáo,
hiện đại, đáp ứng tốt hơn các yêu cầu của khách hàng, qua đó làm
tăng hiệu quả kinh doanh và tạo một vị trí vững chắc trên thị
trường. Qua điều tra, có 69,1% doanh nghiệp đầu tư chi phí cho R
& D. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài có ty lệ cao nhất chiếm
84,6%, cuối cùng là khu vực doanh nghiệp ngoài Nhà nước. Tuy
nhiên, các doanh nghiệp chỉ dành 0,2% đến 0,3% doanh thu cho
nghiên cứu phát triển sản phẩm mới. Thực tế là nhiều doanh
nghiệp Việt Nam chưa có chiến lược kinh doanh, trong điều hành
chủ yếu vẫn là "xử lý tình huống" vời công việc hàng ngày, chưa
thấy được yêu cầu của quản lý hiện đại nên chưa chú ý đến công
tác nghiên cứu và phát triển.
- Đổi mới và nâng cao trình độ khoa học công nghệ cũng có
ảnh hưỏng rất lớn đến việc mở rộng quy mô của doanh nghiệp.
Thông thường trình độ công nghệ càng cao thì càng có khả năng
tạo ra khối lượng sản phẩm lớn, cùng với nó là lượng vốn đầu tư
càng lớn. Như vậy, việc đổi mới công nghệ thường đi kèm với việc
mở rộng quy mô doanh nghiệp, từ đó tăng sức cạnh tranh của
doanh nghiệp (lợi thế về quy mô).
2. Sự cần thiết phải đổi mới công nghệ tại Công ty gạch ốp lát Hà
Nội
2.1. Xu thế đổi mới công nghệ
2.1.1. Xu hướng chung: Xu hướng của các nước đang phát triển và
các doanh nghiệp Việt Nam
Cùng với sự phát triển của xã hội khoa học công nghệ cũng
ngày càng phát triển, đồng thời những nhu cầu của con người ngày
càng được nâng cao. Điều đó dẫn đến xu hướng chung của các
doanh nghiệp hiện nay là không ngừng nâng cao chất lượng sản
phẩm để đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng. Và để nâng cao chất
lượng sản phẩm thì các doanh nghiệp phải không ngừng cải tiến
phưong thức sản xuất , đổi mới công nghệ sản xuất tiên tiến, hiện
đại.
Không nằm ngoài xu hướng chung đó, các doanh nghiệp Việt
nam cũng phải tăng cường đầu tư đổi mới công nghệ để có thể
cạnh tranh được với các doanh nghiệp nước ngoài. Không những
vậy, nước ta là một nước có nền sản xuất lạc hậu rất nhiều so với
thế giới và các nước trong khu vực. Chính vì vậy nhu cầu đầu tư
đổi mới công nghệ càng trở nên bức thiết và là xu thế tất yếu cho
các doanh nghiệp trong nứơc hiện nay. Trong những năm qua,
nhiều doanh nghiệp đã có những đổi mới, nhiều máy móc thiết bị
và công nghệ mới được chuyển giao từ các nước công nghiệp phát
triển. Song tốc độ đổi mới công nghệ và trang thiết bị còn chậm,
chưa đồng đều và chưa theo một định hướng phát triển rõ rệt. Hiện
vẫn còn tồn tại đan xen trong nhiều doanh nghiệp các loại thiết bị
công nghệ từ lạc hậu, trung bình đến tiên tiến, do vậy đã làm hạn
chế hiệu quả vận hành thiết bị và giảm mức độ tương thích, đồng
nhất giữa sản phẩm đầu vào, đầu ra. Theo thống kê của Bộ Khoa
học & Công nghệ trường năm 2005 thì phần lớn các doanh nghiệp
nước ta đang sử dụng công nghệ tụt hậu so với mức trung bình của
thế giới 2 - 3 thế hệ, 80% - 90% công nghệ nước ta đang sử dụng
là công nghệ ngoại nhập. Có 76% máy móc, dây chuyền công nghệ
nhập thuộc thế hệ 1950 - 1960, 75% số thiết bị đã hết khấu hao,
50% là đồ tân trang. Rất nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh
đang sử dụng máy móc, thiết bị do các doanh nghiệp nước ngoài
đã thải bỏ. Tính chung cho các doanh nghiệp, mức độ thiết bị hiện
đại chỉ có 10%, trung bình 38% lạc hậu và rất lạc hậu 52%. Đặc
biệt ở khu vực sản xuất nhỏ, thiết bị ở mức lạc hậu và rất lạc hậu
chiếm 75%. Trong khi đó, các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư đổi
mới công nghệ ớ mức thấp, chi phí chỉ khoảng 0,2 - 0,3% doanh
thu, so với mức 5% ở ấn Độ hay 10% ở Hàn Quốc. Theo đánh giá