Kho¸ luËn tèt nghiÖp
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay cùng với quá trình toàn cầu hoá, tự do hoá thương mại
là yêu cầu bức thiết đòi hỏi các quốc gia phải tăng cường mở cửa,
bang giao kinh tế thông qua đàm phán cắt giảm thuế quan, loại bỏ
các hàng rào phi thuế quan cản trở thương mại,... Theo đó cạnh
tranh sẽ khốc liệt hơn và các công ty kinh doanh các hàng hoá này
sẽ chẳng ngại ngần sử dụng cả các biện pháp cạnh tranh không lành
mạnh, trong đó có việc bán phá giá hàng hoá của mình ra thị trường
nước ngoài nhằm tiêu thụ được nhiều sản phẩm. Điều này thực sự
đã gây ra nhiều thiệt hại cho ngành sản xuất của những nước nhập
khẩu. Tuy nhiên, trong khi nhiều nước trên thế giới tiến hành chống
bán phá giá mạnh mẽ để đối phó với tình trạng này thì từ lâu chúng
ta lại bỏ mặc cho hiện tượng bán phá giá tiếp diễn tại Việt Nam mà
không chịu bất cứ sự kiểm soát nào. Đây thực sự là vấn đề bất cập
gây nhức nhối cần nhanh chóng được khắc phục. Để giải quyết vấn
đề bất cập này đòi hỏi phải nghiên cứu và đưa vào áp dụng biện
pháp chống bán phá giá để có thể sử dụng công cụ mà WTO cho
phép (được tổ chức này công khai hoá trong bản Hiệp định chống
bán phá giá của nó năm 1995) để bảo hộ sản xuất trong nước và
cũng là để tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh hơn trong
thương mại. Chính vì vậy mà em chọn đề tài "Hiệp định về chống
bán phá giá của WTO và một số giải pháp chống bán phá giá
của Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế" với
1
TrÇn ThÞ BÝch Thñy - A11K38D FTU
mong muốn có thể góp phần làm khởi động một chương trình chống
bán phá giá hiệu quả ở Việt Nam trong một tương lai gần.
2. Mục đích của đề tài
Giới thiệu những vấn đề cơ bản về Hiệp định chống bán phá giá
của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), kinh nghiệm chống bán
phá giá của một số nước, cộng đồng kinh tế tiêu biểu đã và mới là
thành viên của WTO. Từ đó, trên cơ sở đánh giá thực trạng công tác
này ở Việt Nam đề xuất một số giải pháp chống bán phá giá đối với
hàng nhập khẩu vào nước ta trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Hiệp định chống bán phá giá của WTO, tình hình chống bán phá
giá đối với hàng nhập khẩu ở một số nước thành viên WTO và ở
Việt Nam trong giai đoạn từ khi WTO ra đời vào 1/1/1995 đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện những nội dung trên, người viết đã sử dụng những
phương pháp nghiên cứu sau :
- Phương pháp thu thập, tổng hợp tài liệu.
- Phương pháp thống kê học đơn giản.
- Phương pháp diễn giải, quy nạp.
- Phương pháp phân tích - tổng hợp.
5. Bố cục đề tài
2
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Với mục đích nghiên cứu như trên, đề tài sẽ bao gồm các phần :
- Chương 1 : Khái quát chung về bán phá giá và thực trạng bán
phá giá trên thế giới.
- Chương 2 : Hiệp định về chống bán phá giá của WTO.
- Chương 3 : Một số giải pháp chống bán phá giá của Việt Nam
trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Do thời gian và trình độ hạn chế, đề tài này chắc chắn không
tránh khỏi thiếu sót, em mong nhận được những ý kiến đóng góp
quý báu của các thầy cô.
Em xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Hoàng Ngọc Thiết, Phó hiệu
trưởng trường Đại học Ngoại Thương - Giảng viên khoa Quản trị
Kinh doanh đã hướng dẫn em trong quá trình thực hiện đề tài này.
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BÁN PHÁ GIÁ VÀ THỰC TRẠNG
BÁN PHÁ GIÁ TRÊN THẾ GIỚI
Từ xưa cho đến mãi gần đây, người ta vẫn cho rằng trong buôn
bán để có lợi nhuận thì dĩ nhiên doanh thu phải cao hơn chi phí bỏ
ra. Muốn vậy, giá bán hàng phải lớn hơn chi phí giá thành. Tuy
nhiên, trên thế giới hiện nay có hiện tượng một nước xuất khẩu sản
phẩm thấp hơn giá bán trên thị trường nội địa, thậm chí thấp hơn giá
thành. Vậy, đó là hiện tượng gì? Vì sao lại tồn tại hiện tượng này?...
Tất cả sẽ được làm sáng tỏ ở mục 1.1 chương này.
1.1. Khái quát chung về bán phá giá
1.1.1. Khái niệm về bán phá giá
3
TrÇn ThÞ BÝch Thñy - A11K38D FTU
Có nhiều khái niệm khác nhau về bán phá giá chẳng hạn như:
bán phá giá hàng hoá là xuất khẩu hàng hoá theo giá cả thấp hơn
hoặc theo giá rẻ mạt. Định nghĩa này có thể gây hiểu nhầm vì bán
phá giá hàng hoá không đồng nghĩa với hàng hoá bán rẻ- một nước
có thể xuất khẩu hàng hoá tới nước khác, bán với giá rẻ hơn hàng
hoá cùng loại đang bán trên thị trường nước nhập khẩu, nếu giá bán
không thấp hơn giá bán của hàng hoá đó trên thị trường nước xuất
khẩu thì hành động đó không phải là bán phá giá. Hay cũng có khái
niệm cho rằng: bán phá giá là bán hàng ra nước ngoài với giá thấp
hơn giá bán tại thị trường nội địa. Theo các cách hiểu này thì muốn
xác định được hành vi bán phá giá người ta cần phải xác định giá
nội địa. Tuy nhiên, việc xác định giá nội địa đôi khi không chính
xác vì trong một số trường hợp, giá bán tại thị trường nội địa của
công ty còn nhỏ hơn chi phí sản xuất.
Ngày nay, khái niệm về bán phá giá ngày càng được phát triển
hoàn chỉnh hơn. Người ta cho rằng bán phá giá là bán hàng ra nước
ngoài với giá thấp hơn chi phí sản xuất. Quan điểm này ngày càng
được nhiều người thừa nhận.
1.1.2. Mục tiêu và điều kiện thực hiện việc bán phá giá
1.1.2.1. Mục tiêu và nguyên nhân
Hành động bán phá giá xảy ra là nhằm đạt được một số mục tiêu
cụ thể và do một số nguyên nhân dẫn đến hành động đó. Dưới đây
là một số nhóm mục tiêu và nguyên nhân.
4
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
1.1.2.1.1.
Bán phá giá nhằm chiếm lĩnh thị trường, tối đa hoá lợi
nhuận
Bằng việc bán phá giá một số công ty có thể dễ dàng loại bỏ đối
thủ cạnh tranh trên thị trường bản địa từ đó thực hiện được mục tiêu
chiếm lĩnh thị trường nước nhập khẩu. Đó là điều vẫn thường thấy.
Nhưng vấn đề đặt ra ở đây là tại sao bằng việc bán phá giá này thì
các công ty đó vẫn đảm bảo được mục tiêu chiếm lĩnh thị trường và
mục tiêu gia tăng lợi nhuận đồng thời. Vấn đề này sẽ được làm sáng
tỏ qua ví dụ minh hoạ từ nước Nhật.
Từ những năm 60, sáu công ty điện tử hàng đầu của Nhật Bản là
Hitachi, Mitsubishi, Masushita, Sanyo, Sharp và Toshiba đã cạnh
tranh gay gắt với nhau. Nhưng ngày 10/9/1964, họ đã thoả thuận
thống nhất nâng giá bán, qui định sản lượng của mỗi công ty. Kết
quả của việc thoả thuận này là trong nhiều năm, người tiêu dùng ở
Nhật phải trả 700 USD cho một tivi màu, trong khi các công ty đó
bán ở Mỹ chỉ với giá 400 USD một tivi màu cùng loại. Việc bán phá
giá tivi Nhật ở Mỹ làm cho các công ty Mỹ không chịu nổi quá trình
cạnh tranh. Cho đến năm 1989, sáu hãng tivi lớn và nhiều hãng nhỏ
của Mỹ đã bị phá sản, công nghiệp sản xuất tivi của Mỹ bị suy yếu
mạnh.
Sở dĩ các công ty Nhật bán phá giá mà vẫn thu nâng cao được lợi
nhuận là do họ có thể tận dụng được tối đa năng lực sản xuất của
mình. Thật vậy, với việc các công ty Nhật Bản thoả thuận bán ở
trong nước như nêu trên, các doanh nghiệp đều có lợi nhuận cao,
song họ lại bị dư thừa năng lực sản xuất. Vì vậy nếu họ sản xuất hết
5
TrÇn ThÞ BÝch Thñy - A11K38D FTU
năng lực, song không bán thêm vào thị trường trong nước mà xuất
khẩu, thì sẽ không làm giảm giá thị trường trong nước. Và nếu bán
ra nước ngoài với giá thấp, thì có thể chiếm được thị trường mới.
Thực hiện chiến lược này ở thị trường Mỹ, sau 30 năm Nhật đã
đánh bại ngành công nghiệp tivi của Mỹ, mặc dù chi phí sản xuất
của các công ty Nhật có thể vẫn cao hơn các công ty Mỹ.
Nói tóm lại, trong trường hợp này bán phá giá được sử dụng như
là công cụ cạnh tranh. Sau khi đã chiếm lĩnh được thị trường nội địa
của nước nhập khẩu, triệt tiêu được sự cạnh tranh của hàng hoá nội
địa, thì các hãng nước ngoài sẽ tìm cách thao túng thị trường để thu
lợi nhuận tối đa.
1.1.2.1.2.
Bán phá giá nhằm đạt mục tiêu chính trị, thao túng các
nước khác
Chính phủ Mỹ đặc biệt quan tâm đến xuất khẩu gạo, bởi vì cạnh
tranh giá gạo gây ảnh hưởng lớn đến việc đạt các mục tiêu quan
trọng khác. Mỹ sẵn sàng bỏ ngân sách mua phần lớn số gạo trên thị
trường thế giới rồi bán phá giá. Điều này làm cho nhiều nước xuất
khẩu gạo phải lao đao và sẽ phải chịu vòng phong toả của Mỹ.
Chẳng hạn, năm 1998 giá xuất khẩu gạo của Mỹ vào khoảng 400
USD/tấn, thậm chí 800 USD/tấn, và nước này cũng sẵn sàng bán ra
thị trường thế giới chỉ bằng 60-70%, thậm chí 40% mức giá mua.
Mức này thấp hơn nhiều so với giá thành của chính nông dân Mỹ
sản xuất ra. Như vậy, Mỹ có thể sẵn sàng bỏ ra 700-800 triệu
USD/năm để trợ giá xuất khẩu gạo, nhằm thực hiện mục tiêu của
mình. Chính vì điều này mà mặc dù sản lượng gạo xuất khẩu của
6
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Mỹ hàng năm thấp, nhưng Mỹ lại thao túng giá gạo trên thị trường
thế giới.
1.1.2.1.3.
Do có các khoản tài trợ của Chính phủ nước ngoài
Chính phủ các nước phương Tây coi tài trợ là con đường ngắn
nhất để đạt được sự cân bằng kinh tế và đảm bảo cho thị trường hoạt
động một cách tối ưu. Chính sách tài trợ nhằm đạt được hai mục
đích sau: (i) duy trì và tăng cường mức sản xuất xuất khẩu; (ii) duy
trì mức sử dụng nhất định đối với các yếu tố sản xuất như lao động
và tiền vốn trong nền kinh tế. Các khoản tài trợ có thể được cấp cho
người sản xuất cũng như cho người tiêu dùng, nhưng về mặt tác
động kinh tế thì chúng đều như nhau vì đều đưa đến những hệ quả
kinh tế tương tự.
Các khoản tài trợ cho công nghiệp
Những hình thức tài trợ chủ yếu là: Trợ cấp, ưu đãi về thuế, tín
dụng ưu đãi, sự tham gia của chính phủ vào các chi phí kinh doanh
cũng như hỗ trợ xuất khẩu.
- Trợ cấp:
Đặc điểm cơ bản của trợ cấp là hướng vào sự giúp đỡ phát triển
sản xuất. Ở các nước công nghiệp phát triển, các khoản trợ cấp
chiếm một nửa khối lượng tài trợ. Tỷ trọng của các khoản trợ cấp
cho từng ngành trong tổng số giúp đỡ của chính phủ có sự dao động
đáng kể ở các nước khác nhau. Như ở Anh, Ý, Hà Lan trợ cấp
chiếm phần lớn.
- Ưu đãi về thuế:
7
TrÇn ThÞ BÝch Thñy - A11K38D FTU
Những ưu đãi về thuế là nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho một số
ngành trong một số loại hoạt động riêng biệt. Chúng được áp dụng
rộng rãi ở nhiều nước, mặc dù ít khi được phản ánh trong các chỉ
tiêu của chính phủ, vì chúng là ngoại lệ khi áp dụng các thuế suất
chuẩn. Ở Anh, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch giá trị của chúng không lớn,
còn ở Mỹ thì tổng số ưu đãi về thuế cho công nghiệp lớn gấp 3 lần
khối lượng trợ cấp.
- Ưu đãi về tín dụng:
Những ưu đãi về tín dụng là sự cho vay của chính phủ với điều
kiện hấp dẫn hơn là tìm kiếm trên thị trường vốn. Ở các nước thuộc
cộng đồng kinh tế Châu Âu, khoảng 14% tổng khối lượng giúp đỡ
cho công nghiệp được thực hiện dưới hình thức tín dụng ưu đãi.
Năm 1988, khối lượng cam kết trực tiếp về tín dụng của chính phủ
Mỹ là 222 tỷ USD, chiếm 0,6% tổng sản phẩm quốc gia, tương ứng
khối lượng bảo lãnh tín dụng là 550 tỷ USD, chiếm 2,1%. Phần lớn
khối lượng tín dụng của chính phủ Nhật được cấp cho các hãng vừa
và nhỏ với lãi suất thấp hơn lãi suất ở thị trường vốn 0,5%.
Các chính phủ cũng thường xuyên bảo đảm các khoản tín dụng,
tức là bảo lãnh cho các công ty vay mà không trả được nợ. Phương
pháp tài trợ này thường dùng cho các hợp đồng xuất khẩu để đảm
bảo cho các công ty xuất khẩu của nước mình. Theo đánh giá, quy
mô của công cụ tài trợ này ở vào khoảng 2% đến 8% tổng tài trợ
công nghiệp ở các nước công nghiệp phát triển.
- Tham gia của chính phủ vào chi phí kinh doanh
8
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Sự tham gia của chính phủ vào chi phí kinh doanh thường là
15% tổng tài trợ trở xuống. Từ thập kỷ 80 đến nay, phần sở hữu nhà
nước trong hoạt động kinh doanh có xu hướng giảm. Phương pháp
này được sử dụng để bù đắp những tổn thất trong những lĩnh vực
kinh tế riêng đang suy thoái.
Khả năng tài trợ của chính phủ
Hiện nay, tài trợ cho công nghiệp vẫn được chính phủ các nước
phương Tây duy trì ở mức khá cao. Ví dụ, ở các nước thuộc EU,
trung bình mức tài trợ là gần 9% tổng chi tiêu của chính phủ, mặc
dù mức chênh lệch giữa các nước là khá lớn, từ 1,2% ở Mỹ đến
14% ở Ý.
Trên thực tế, các khoản tài trợ giúp các ngành thực hiện công
nghệ mới, trang bị máy và thiết bị hiện đại, nghĩa là giúp cho các
ngành mới gia nhập thị trường và đẩy mạnh phát triển những ngành
công nghiệp mũi nhọn.
Bảng 1: Phương hướng sử dụng các khoản tài trợ cho công
nghiệp (%)
Nước
Nghiên
cứu khoa
học kỹ
thuật và
phát triển
Kinh
doanh
nhỏ và
vừa
Phát triển
cơ sở hạ
tầng
9
Giúp đỡ Phát triển
cho
khu vực
những
ngành
riêng biệt
TrÇn ThÞ BÝch Thñy - A11K38D FTU
Đức
7,5
2,2
4,3
66,7
19,3
Pháp
1,2
0,5
22,6
73,3
2,4
Ý
3,2
3,2
28,0
43,0
22,6
Anh
6,8
1,1
11,4
63,7
17,0
Bỉ
3,1
3,1
8,3
80,3
5,2
Đan
12,2
0,4
14,9
71,1
1,4
Mạch
6,0
3,0
46,6
27,3
17,1
Hy Lạp
12,8
1,1
22,4
19,0
44,7
Phần Lan
Nguồn: Ủy ban kinh tế Châu Âu, năm 1998
1.1.2.1.4. Một nước có thể do nhập siêu lớn, cần phải có ngoại tệ
để bù đắp cho thiếu hụt này. Khi đó có thể áp dụng công cụ bán phá
giá để giải quyết vấn đề thiếu hụt ngoại tệ.
1.1.2.1.5.
Bán phá giá cũng có thể xảy ra trong trường hợp một
nước có quá nhiều hàng tồn kho không thể giải quyết theo cơ chế
giá bình thường
Trong nền kinh tế hàng hoá trước đây, khi gặp khủng hoảng
thừa, các chủ doanh nghiệp thường chất đống hàng hoá của mình,
châm lửa đốt, hoặc đổ xuống biển để giữ giá, nhất định không bán
phá giá. Còn hiện nay, ở các nước kinh tế phát triển, gặp trường hợp
này, nhà buôn có thể chọn một trong vài giải pháp thường dùng.
Trước hết là lưu kho chờ ngày tốt đẹp hơn. Nhưng lưu kho đòi hỏi
phải có chỗ chứa, và chỉ áp dụng được với những mặt hàng không
bị hư. Giải pháp thứ hai là bán xôn. Nhiều khi đây là giải pháp duy
nhất đối với một số mặt hàng: thực phẩm sắp hết thời hạn sử dụng,
10
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
máy vi tính đời cũ, một số kiểu giày, quần áo hết mốt... Nhiều cửa
hàng lớn ở Pháp (Paris) ngay từ khi vào mùa đã có số hàng tồn đọng
lên tới 50% số dự trữ bán ra. Hàng tồn kho này sẽ nhanh chóng
được mang bán với giá khuyến mại thấp hơn 30% giá bán thông
thường. Đến cuối mùa số hàng tồn đọng tụt xuống còn vài phần
trăm, được nhượng lại cho dân bán xôn chuyên nghiệp với giá chỉ
bằng 1/10 giá cũ. Dân chuyên nghiệp sẽ đẩy hết hàng ra nước ngoài,
chủ yếu là sang Châu Phi, Châu Á và Đông Âu.
1.1.2.1.6. Một số nước làm ra được một số sản phẩm với giá thành
rất thấp là nhờ sử dụng lao động trẻ em tiền lương thấp, và sử dụng
lao động của tù nhân làm hàng xuất khẩu
Theo số liệu năm 1998 của Văn phòng quốc tế về lao động trẻ
em (BIT) thì trên toàn thế giới hiện có tới 250 triệu trẻ em từ 5-14
tuổi đang tham gia hoạt động kinh tế. Còn theo Quĩ nhi đồng Liên
hiệp quốc (UNICEF) đánh giá thì tại các nước nghèo, cứ 4 trẻ em
thì có một trẻ em phải làm việc như người lớn. Theo Ủy ban quyền
con người ở Pakistan, con số trẻ em làm việc ở nước này lên đến 15
triệu, trong đó có một nửa chưa đến 10 tuổi. Lao động trẻ em không
chỉ diễn ra tại các nước đang phát triển mà còn ở các nước phát triển
Âu-Mỹ. Chẳng hạn, ở Ý và Bồ Đào Nha, Anh cho phép một vài
ngành sản xuất được phép tuyển dụng trẻ em từ 12 đến 15 tuổi.
Việc sử dụng lao động trẻ em ngoài việc mang lại siêu lợi nhuận,
còn là cách để cạnh tranh với các đối thủ làm ăn. Nhờ giá nhân công
rẻ mạt, người ta có thể hạ giá thành sản phẩm, xuất khẩu hàng hoá
bán phá giá ở nước ngoài. Có nước còn sử dụng lao động tù nhân
11
TrÇn ThÞ BÝch Thñy - A11K38D FTU
không phải trả tiền công, làm hàng xuất khẩu để bán phá giá ra nước
ngoài. Trung Quốc đã bị nhiều nước lên án về việc này.
1.1.2.1.7. Ở nước ta còn có hiện tượng một số công ty kinh doanh
hàng nhập khẩu trả chậm, đã dùng nguồn vốn nước ngoài để kinh
doanh mặt hàng khác. Do đó, họ tìm cách bán phá giá trên thị
trường, có lúc bán ồ ạt chịu lỗ 10-20% so với giá vốn nhập khẩu để
nhanh chóng thu hồi vốn, đi buôn mặt hàng khác có lợi nhuận cao
hơn, không những đủ bù số lỗ hàng nhập trả chậm mà còn “lãi
đậm”. Năm 1995, ba mặt hàng quan trọng đã bị bán phá giá: xăng
dầu, thép xây dựng và phân bón. Cuối năm 1995, giá phân ure
Inđônêxia nhập vào Việt nam đang ở mức rất cao (260-265 USD/tấn
CIF cảng Sài Gòn), nhưng giá bán buôn cả tàu tại Tân Quy, Nhà Bè,
Thành phố Hồ Chí Minh liên tục giảm xuống chỉ còn 2.425
đồng/kg.
1.1.2.1.8. Hàng ngoại nhập lậu
Với lợi nhuận siêu ngạch có được từ trốn thuế nhập khẩu, hàng
ngoại sẽ điều tiết và chiếm lĩnh được thị trường với giá cạnh tranh
so với hàng sản xuất trong nước. Chẳng hạn, mặt hàng mỹ phẩm,
các chế phẩm để trang điểm, các chế phẩm dưỡng da chịu thuế nhập
khẩu là 20-50%, nếu ai trốn được khoản thuế này, người đó có
quyền quyết định giá cạnh tranh áp đảo và giành được lợi nhuận
siêu ngạch để rồi loại khỏi thị trường các doanh nghiệp làm ăn chân
chính.
1.1.2.2. Điều kiện thực hiện
12
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Điều kiện để bán phá giá một loại hàng hoá nào đó là phải lũng
đoạn được mặt hàng đó ở thị trường trong nước để tránh nguồn
hàng nhập khẩu trở lại. Bán phá giá hàng hoá thường gây nên những
tổn thất cho nhà xuất khẩu do việc bán giá thấp hơn tại thị trường
nội địa. Những thua thiệt do bán phá giá
thường được bù đắp bằng các nguồn sau đây:
(i) Có sự hỗ trợ hữu hiệu của chính phủ đối với sản phẩm bán
phá giá thông qua khuyến khích sự thoả thuận giữa các doanh
nghiệp trong nước về giá, bảo hộ mậu dịch và trợ cấp xuất khẩu.
Thông qua những biện pháp này, một mặt các doanh nghiệp đẩy
được giá trong nước lên cao làm tăng lợi nhuận mặt khác bằng việc
xuất khẩu để sử dụng tối đa công suất, các doanh nghiệp giảm được
chi phí, do đó tăng thêm được lợi nhuận của phần bán sản phẩm
trong nước. Chính khoản lợi nhuận tăng thêm này trên thị trường
nội địa là nguồn tài chính để bù lỗ do việc bán ở ngoài nước.
(ii) Nhờ lợi nhuận cao thu được sau khi đã chiếm lĩnh được
thị trường nước nhập khẩu. Nhiều doanh nghiệp tại các nước công
nghiệp phát triển sau khi bóp chết ngành công nghiệp tại nước nhập
khẩu bằng biện pháp bán phá giá, họ đã nâng giá bán lên nhằm thu
lợi nhuận tối đa.
(iii)
Có các khoản tài trợ của chính phủ. Trong nền kinh tế
thị trường, nhiều nước xem tài trợ là một giải pháp tốt để đạt được
sự ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ cho thị trường hoạt động có hiệu
quả. Các hình thức hỗ trợ của chính phủ rất đa dạng như trợ cấp
13
TrÇn ThÞ BÝch Thñy - A11K38D FTU
phát triển sản xuất, ưu đãi về thuế, ưu đãi về tín dụng, tham gia của
chính phủ vào chi phí kinh doanh, trợ giá...
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng theo Hiệp định về trợ cấp và các biện
pháp đối kháng của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) thì có rất
nhiều khoản trợ cấp bị cấm. Vì vậy, các chính phủ cần áp dụng các
biện pháp tài trợ cho xuất khẩu phù hợp với quy định của WTO để
tránh các cuộc tranh chấp đối đầu trong thương mại.
1.1.3. Xác định một số loại hình bán phá giá
1.1.3.1. Bán phá giá độc quyền
Bán phá giá có thể gây thiệt hại lớn cho nền kinh tế của nước
nhập khẩu sản phẩm phá giá khi nó nhằm độc chiếm thị trường hay
bảo vệ vị trí thống trị. Ở đây, doanh nghiệp sử dụng biện pháp cạnh
tranh không lành mạnh này để dễ dàng loại bỏ các đối thủ cạnh
tranh ra khỏi thị trường hòng độc chiếm nó.
Loại hành động này gọi là phá giá độc quyền.
Phá giá độc quyền được xếp vào dạng phá giá chiến lược và phá
giá có tính chất cướp bóc, có hại cho nền kinh tế. Đứng về quan
điểm kinh tế thì cần có những biện pháp trả đũa hợp pháp đối với
hai loại phá giá độc quyền này.
Phá giá có tính chất cướp bóc: Mục đích của loại phá giá này là
loại bỏ những đối thủ cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu để nắm
lấy độc quyền và áp đặt những giá loại cao. Điều này gây thiệt hại
cho cả các ngành của khu vực lẫn những ngành ngoại vi, và người
tiêu dùng cuối cùng.
14
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Phá giá chiến lược: Loại phá giá này có thể xảy ra khi quá trình
sản xuất một sản phẩm là đối tượng của nền kinh tế có quy mô lớn,
người ta làm như thế nào để có một thị trường nội địa được bảo hộ
và có khối lượng lớn sản phẩm có lợi thế về giá xuất khẩu. Dựa vào
thị trường gốc của mình, một số công ty có thể bán với giá hạ giả
tạo trên thị trường nước ngoài. Để bù lại, việc tăng khối lượng sản
xuất giúp cho họ giảm được chi phí sản xuất. Cũng như phá giá có
tính chất cướp bóc, phá giá chiến lược có thể trong thời han ngắn
loại bỏ được những đối thủ cạnh tranh trong nước của thị trường
xuất khẩu.
1.1.3.2. Phá giá phi độc quyền
Phá giá phi độc quyền bao gồm một tổng thể những loại hình
phá giá không gây nguy hiểm nào cho cạnh tranh và phúc lợi xã hội.
Trong trường hợp này phá giá vừa có lợi cho người tiêu dùng và
những nhà sản xuất sử dụng sản phẩm bán phá giá, vừa góp phần
tăng cường cuộc chơi bình thường của cạnh tranh. Không có hàng
rào cản trở đi vào thị trường có liên quan khiến cho những đối thủ
cạnh tranh không thể hưởng được độc quyền, phi độc quyền hoá.
Phá giá phi độc quyền gồm:
Phá giá tình thế: Loại phá giá này đưa ra giá đặc biệt thấp khi có
nhu cầu thấp trên thị trường gốc của những người xuất khẩu hay
trên thị trường nhập khẩu. Theo một quan điểm kinh tế, thông lệ này
được coi là thường xuyên và hợp lý, đặc biệt trong những khu vực
nhu cầu biến động theo chu kỳ. Thông lệ này không nhằm loại bỏ
15
TrÇn ThÞ BÝch Thñy - A11K38D FTU
các đối thủ cạnh tranh và phù hợp với việc định ra giá trong thời
gian ngắn theo tình hình thị trường. Những thông lệ này không làm
cho người ta phải lo lắng, đặc biệt là đứng trên quan điểm cạnh
tranh, bởi vì nó không cấm đoán các đối thủ cạnh tranh trong nước
làm theo cách này.
Phá giá để mở rộng thị trường: Các nhà sản xuất nước ngoài
thực hiện loại phá giá này nhằm mở rộng khu vực địa lý xuất khẩu.
Thông lệ này được người ta chú ý, đặc biệt là khi tính nhạy cảm của
giá đối với cầu trên thị trường nước nhập khẩu cao hơn nhiều trên
thị trường gốc của người xuất khẩu. Hiện tượng này là trò chơi bình
thường của cạnh tranh khi người ta tính tới những sở thích của
những người tiêu dùng, hoặc cường độ khác nhau của cạnh tranh
của vùng này so với vùng khác.
Phá giá có tính chất thương mại của nhà nước: Loại phá giá này
diễn ra ở các doanh nghiệp thuộc các nước có nền kinh tế kế hoạch
hoá mà đồng tiền không thể chuyển đổi được. Vì không có một thị
trường thực sự ở nước xuất xứ, những doanh nghiệp này không thoả
mãn với những tiêu chí sinh lợi thông thường. Do vậy giá xuất khẩu
ít khi phản ánh đúng giá sản xuất. Cần phải nói rằng khi có độc
quyền, loại phá giá này được xếp vào loại phá giá chiến lược.
Như trên đã phân tích không phải bất cứ loại bán phá giá nào
cũng gây thiệt hại cho nước bị bán phá giá. Vậy làm thế nào để phân
biệt được chúng. Sau đây là một số tiêu chí để xác định các loại phá
giá này.
Điều kiện để xác định các loại hình phá giá độc quyền:
16
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Cần có ba điều kiện để có thể đánh giá một loại hình phá giá là
độc quyền (phá giá chiến lược hay cướp bóc). Đó là:
Số lượng nhập khẩu bị lên án phải chiếm một thị phần lớn và có tỷ
lệ tăng nhanh.
Các nước xuất xứ của những sản phẩm xuất khẩu bị lên án phải là
không nhiều, và số các nước này phải ít hơn các nước so sánh về
kinh tế.
Những hàng rào thuế quan mạnh để tác động đến thị trường xuất
khẩu sản phẩm phá giá. Ngoài những tác động khác, hàng rào
thuế quan có thể tạo ra thêm những chi phí về hạ tầng cơ sở, về
nghiên cứu phát triển và marketing.
Nếu ít nhất một trong ba điều kiện này chưa được xác định thì
trong trường hợp có phá giá phi độc quyền sẽ không có hại gì đến
kinh tế của nước nhập khẩu. Lúc đó những biện pháp đấu tranh
bằng chống bán phá giá sẽ không biện minh được về kinh tế mà
ngược lại có thể gây thiệt hại cho cạnh tranh, cho phúc lợi của
người tiêu dùng và cho cạnh tranh của ngành đang sử dụng sản
phẩm này.
Xác định các loại phá giá bằng những chỉ số kinh tế:
Trên cơ sở điều kiện nêu trên, người ta đưa ra một số chỉ tiêu
kinh tế để xác định các loại phá giá, và tùy theo hậu quả gây ra đối
với những lợi ích kinh tế để có những biện pháp trả đũa đứng trên
quan điểm vì phúc lợi xã hội. Có bốn tiêu chí đặc biệt cần thiết đã
nêu lên tính chất độc quyền của những loại hình phá giá:
17
TrÇn ThÞ BÝch Thñy - A11K38D FTU
Tiêu chí đầu tiên là số lượng sản phẩm nhập khẩu bị bán phá
giá phải chiếm một thị phần lớn. Tham khảo những thủ tục chống
tập trung hoá trong khuôn khổ của luật cạnh tranh, nhìn chung
người ta cho rằng một công ty không thể tiến hành một chiến lược
độc quyền vượt quá 20% thị phần. Do đó tiêu chí đầu tiên này được
lượng hoá bằng công thức sau:
5
X 1 r 0 , 2
trong đó, X là thị phần khi mới bắt đầu nhập hàng phá giá ảnh
hưởng đến tổng tiêu dùng sản phẩm trong nước đưa đơn
khiếu kiện.
r là mức tăng trung bình hàng năm đối với thị phần các
hàng nhập khẩu là đối tượng của phá giá.
Tiêu chí thứ hai là các nước tham gia phá giá phải dưới 3 nước
nếu như các nước này về kinh tế và địa lý ở xa, và dưới 5 nước nếu
có kinh tế và địa lý gần. Tiêu chí này nhằm đảm bảo có hàng rào đối
với hàng nhập. Trên thực tế nếu để hàng nhập đi vào tương đối tự
do thì các công ty hiện có không thể tác động đến thị trường và tác
động đến giá hạ.
Tiêu chí thứ ba là HHI >1000 với HHI là chỉ số tính thị phần
của những đối thủ cạnh tranh thương mại. Tiêu chí này tính mức tập
trung hoá của thị trường. Khi mức tập trung hoá yếu (HHI <1000)
thì người ta cho rằng thị trường còn cạnh tranh, và do đó không có
hàng rào thật sự nào có thể không vượt qua được. Ngược lại, nếu
tiêu chí tập trung hoá quá cao (HHI >1000) thì sự tồn tại của hàng
rào là có khả năng, nhưng không chắc chắn. Trong trường hợp này
18
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
phải có thêm một tiêu chí. (ở đây chỉ số HHI là viết tắt của
Herfindahl Hirschman1).
Tiêu chí thứ tư là sự hiện diện của chi phí cố định quá cao,
thậm chí không thể thu hồi được một phần vốn. Những chi phí này
có thể ở dạng chi phí lớn cho nghiên cứu phát triển bố trí mạng lưới
phân phối, chi phí cho quảng cáo quá cao. Đương nhiên có những
khả năng nhất định trong việc nhận được những thông tin này.
Không phải lo ngại gì về các nhà sản xuất nước ngoài chiếm quá
nhiều thị phần không mang tính chất độc quyền. Trong trường hợp
này đánh thuế chống bán phá giá là có hại vì có xâm phạm đến cạnh
tranh và các tập thể phải trả giá vì những biện pháp trả đũa. Ngược
lại, khi những chỉ số kinh tế cho thấy rằng phá giá có thể dẫn tới
việc các nhà sản xuất nước ngoài nắm độc quyền thị trường, thì
những biện pháp đấu tranh nhằm ngăn chặn thiệt hại được coi là có
thể biện minh về kinh tế. Tuy nhiên, cần phải tiến hành nghiên cứu
sâu hơn trong các giai đoạn sau để xác định được thực tế của phá
giá.
Những điều kiện hay các chỉ số kinh tế trên đây chỉ là cơ sở ban
đầu để phỏng đoán xem liệu việc phá giá có đem lại thiệt hại cho
1
HHI là chỉ số Herfindahl-Hirschman. Chỉ số này được sử dụng rộng rãi để đo mức độ tập trung của thị
trường- đó là mức độ mà một số lượng nhỏ các hãng nhưng lại chiếm thị phần lớn. Chỉ số này được tính
bằng tổng của các bình phương thị phần của các hãng tham gia trên thị trường. Chẳng hạn, trong một thị
trường có 4 hãng với thị phần lần lượt là 30%, 30%, 20%, 20%, khi đó chỉ số HHI sẽ là 2600 (tức là 302 +
302 + 202 +202 = 2600). Chỉ số HHI quan tâm đến quy mô và sự phân bố tương xứng của các hãng trong
một thị trường. Chỉ số này tiến tới 0 khi một thị trường bao gồm một lượng lớn các hãng với quy mô
tương đối tương xứng với nhau. Chỉ số HHI tăng cả khi số hãng trong thị trường giảm và khi sự chênh
lệch về quy mô giữa các hãng tăng lên. Chỉ số HHI càng cao thì mức độ tập trung của thị trường trong
một số lượng nhỏ các hãng càng cao. Những thị trường mà trong đó 1000 <= HHI <= 1800 thì được coi là
có mức độ tập trung vừa phải, HHI > 1800 thì được coi là thị trường có mức độ tập trung cao, HHI <
1000 thì mức độ tập trung thấp. Các giao dịch làm cho chỉ số HHI tăng trên100 điểm trên thị trường tập
trung thì có cơ sở để cho rằng có khả năng làm tăng mối đe doạ về độc quyền.
19
TrÇn ThÞ BÝch Thñy - A11K38D FTU
nền kinh tế của những nước nhập khẩu không. Đây là tiền đề để
trong giai đoạn thứ hai sẽ tính mức phá giá và tính thuế chống phá
giá được áp dụng cùng với hậu quả của nó. Làm như thế nhằm đảm
bảo biết trước phá giá có độc quyền hay không.
Trên đây mới chỉ là những cơ sở lí luận về bán phá giá. Còn thực
tiễn của vấn đề này hiện diễn ra như thế nào sẽ được trình bày cụ
thể ở mục dưới đây.
1.2. Thực trạng bán phá giá trên thế giới thời gian qua
1.2.1. Tổng quan
Hiện nay chưa có một nước hay một tổ chức nào thống kê được
các vụ bán phá giá hàng hoá trên thế giới bởi vì đây là điều khó xác
định và không một nước hay một công ty nào lại tự thừa nhận hành
động bán phá giá của mình cả. Cho nên để có thể hiểu rõ về tình
hình bán phá giá hàng hoá trên thế giới chúng ta chỉ có thể xem xét
thông qua các cuộc điều tra chống bán phá giá (mà cụ thể là các
cuộc điều tra có kết luận cuối cùng là hàng hoá nhập khẩu bị bán
phá giá) và số lần áp dụng thuế chống bán phá giá trên thế giới.
Trước khi WTO ra đời đã có nhiều cuộc điều tra chống bán phá
giá và các biện pháp chống lại các hành động bán phá giá đó.
Nhưng các cuộc điều tra đó không thống nhất về cách thức, thủ tục
cũng như về các biện pháp chống lại các hành vi bán phá giá.
Năm 1994, vòng đàm phán Uruguay kết thúc với sự ra đời của
WTO và một số các hiệp định liên quan đến thương mại quốc tế,
trong đó có Hiệp định về chống bán phá giá của WTO. Đây chính là
20
- Xem thêm -