Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục, bồi dưỡng đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh cho thanh niên khối doanh nghi...

Tài liệu Giáo dục, bồi dưỡng đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh cho thanh niên khối doanh nghiệp Trung ương tron giai đoạn hiện nay

.PDF
119
213
112

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ---***--- NGÔ THỊ THIẾT GIÁO DỤC, BỒI DƯỠNG ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG HỒ CHÍ MINH CHO THANH NIÊN KHỐI DOANH NGHIỆP TRUNG ƯƠNG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SỸ CHÍNH TRỊ HỌC Hà Nội – 2012 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ---***--- NGÔ THỊ THIẾT Tên đề tài: GIÁO DỤC, BỒI DƯỠNG ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG HỒ CHÍ MINH CHO THANH NIÊN KHỐI DOANH NGHIỆP TRUNG ƯƠNG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY Chuyên ngành : Hồ Chí Minh học Mã số : 60 31 27 LUẬN VĂN THẠC SỸ CHÍNH TRỊ HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS. Nguyễn Bá Linh Hà Nội – 2012 MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 1. Lý do chọn đề tài 1 2. Tình hình nghiên cứu đề tài 4 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 6 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 7 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 7 6. Đóng góp của luận văn 8 7. Kết cấu của luận văn 8 Chương 1: TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC CÁCH 9 MẠNG CỦA THANH NIÊN VÀ GIÁO DỤC, BỒI DƢỠNG ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO THANH NIÊN 1.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng của thanh niên và 9 vai trò của giáo dục, bồi dưỡng đạo đức, cách mạng cho thanh niên 1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về giáo dục, bồi dưỡng đạo đức cách 48 mạng cho thanh niên Chương 2: VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIÁO DỤC, BỒI 49 DƢỠNG ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO THANH NIÊN VÀO KHỐI DOANH NGHIỆP TRUNG ƢƠNG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 2.1. Thực trạng đạo đức cách mạng của thanh niên và công tác giáo dục, bồi dưỡng đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh cho thanh niên ở Khối Doanh nghiệp Trung ương trong những năm qua 2.2. Một số giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả công tác giáo dục, bồi 49 77 dưỡng đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh cho thanh niên Khối Doanh nghiệp Trung ương hiện nay KẾT LUẬN 96 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 99 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN CNXH : Chủ nghĩa xã hội CNH - HĐH : Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa TN : Thanh niên DNTW : Doanh nghiệp Trung ương NQ : Nghị quyết NQTW : Nghị quyết Trung ương VN : Việt Nam MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đánh giá cao vai trò, vị trí đặc biệt của TN đối với sự nghiệp cách mạng, tương lai của dân tộc, tiền đồ của Tổ quốc. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Người luôn quan tâm đến vấn đề giáo dục, đào tạo toàn diện thế hệ TN Việt Nam, tổ chức TN vào các phong trào cách mạng phong phú của đất nước. Trước khi đi xa Người còn dặn lại “Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng xã hội chủ nghĩa vừa “hồng” vừa “chuyên”. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết" [48, tr. 498] Lời di huấn đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh trở thành tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt trong đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4, Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII (1993) khẳng định: “Sự nghiệp đổi mới có thành công hay không cách mạng Việt Nam có vững bước theo con đường xã hội chủ nghĩa hay không phần lớn tùy thuộc vào lực lượng TN, công tác TN là vấn đề sống còn của dân tộc, là một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng” [10, tr. 82]. Thanh niên là những người kế tục sự nghiệp cách mạng của cha anh, là những người tiếp bước trên con đường xây dựng và bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng xã hội chủ nghĩa. Song để xây dựng và bảo vệ được những thành quả cách mạng đó thì rất cần đến đội ngũ TN có cả đức và tài. Vì vậy, giáo dục, bồi dưỡng TN có vai trò đặc biệt quan trọng. Trong nội dung giáo dục, bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau, Hồ Chí Minh đặt lên hàng đầu vấn đề bồi dưỡng lý tưởng và đạo đức cách mạng. Lý tưởng mà Hồ Chí Minh 1 quan tâm giáo dục cho TN là suốt đời làm cách mạng phấn đấu cho đất nước hoàn toàn độc lập, làm cho CNXH và chủ nghĩa cộng sản thắng lợi hoàn toàn ở nước ta và trên thế giới. Tuy nhiên, lý tưởng và ý chí cách mạng đó chỉ có thể duy trì và phát triển trên nền tảng đạo đức cách mạng. Hiện nay, đất nước ta đang trong thời kỳ đẩy mạnh CNH - HĐH với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh vô cùng vẻ vang nhưng cũng không ít những khó khăn, thách thức. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch lợi dụng Việt Nam “mở cửa” tham gia ngày càng sâu, rộng vào tiến trình toàn cầu hóa kinh tế và tăng cường chống phá chúng ta trên mặt trận tư tưởng - văn hóa, kết hợp với mặt trái của cơ chế thị trường tạo ra sự phân hóa giàu nghèo quá mức và tâm lý sùng bái đồng tiền. Những nhân tố tiêu cực này đã và đang ảnh hưởng trực tiếp đến đội ngũ TN. Xu hướng TN lười lao động, thích hưởng thụ, chuộng những sinh hoạt thiếu lành mạnh ngày càng nhiều. Một bộ phận không nhỏ trong TN phai nhạt lý tưởng, chạy theo lối sống thực dụng, thiếu hoài bão lập thân, lập nghiệp vì tương lai của bản thân và đất nước. Chính vì vậy việc giáo dục, bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho TN càng trở nên cấp bách hơn bao giờ hết và được Đảng ta coi đây là một trong những nhiệm vụ hàng đầu trong công tác tư tưởng của Đảng . Khối Doanh nghiệp Trung ương (DNTW) là đơn vị có quy mô lớn về tổ chức, bao gồm 33 tập đoàn kinh tế và tổng công ty, ngân hàng thương mại. Đội ngũ TN chiếm 60% tổng số cán bộ công nhân viên chức và người lao động. Đây được coi là nguồn lực cơ bản để phát triển kinh tế tri thức, là lực lượng hùng hậu tiếp cận và sáng tạo khoa học công nghệ mới. Sức trẻ của đội ngũ TN góp phần xây dựng và phát triển các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty nhà nước thực hiện được sứ mệnh vẻ vang là giữ vai trò chủ đạo và vị trí then chốt trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy 2 nhiên, trong tiến trình CNH - HĐH đất nước đã dẫn đến thay đổi cơ cấu thành phần của nền kinh tế. Vai trò của kinh tế ngoài quốc doanh tăng, tỷ trọng kinh tế nhà nước giảm. Sự cạnh tranh của các doanh nghiệp trong và ngoài nước đang diễn ra gay gắt, thực lực cạnh tranh đã thu hút thanh niên của Khối DNTW với các loại hình doanh nghiệp khác. Mặt khác, trong thời gian gần đây do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, một số tập đoàn, tổng công ty do đầu tư dàn trải dẫn đến thua lỗ nặng đang trong tiến trình tái cơ cấu lại doanh nghiệp. Tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm hoặc việc làm không ổn định, thu nhập thấp đang là vấn đề bức xúc của TN; không ít TN thụ động, ỷ lại. Một bộ phận TN thiếu ý thức rèn luyện, đứng trước những khó khăn của doanh nghiệp có biểu hiện sống thực dụng, ngại tham gia vào các hoạt động tập thể, hoạt động chính trị xã hội. Một số TN chỉ quan tâm đến thu nhập trước mắt, đề cao giá trị vật chất xem thường giá trị tinh thần. Nhận thức về mục tiêu, lý tưởng của Đảng còn hạn chế, hoang mang dao động trước những khó khăn của doanh nghiệp. Thậm chí có những TN ham làm giàu nhanh chóng bằng bất cứ giá nào, kể cả làm ăn phi pháp để kiếm được nhiều tiền…Chủ nghĩa cơ hội và chủ nghĩa cá nhân có chiều hướng gia tăng trong TN ở các doanh nghiệp thuộc Khối. Đó vừa là nguyên nhân vừa là biểu hiện làm suy giảm về chất nguồn lực trẻ trong Khối. Một trong những nguyên nhân của tình hình đó là vấn đề giáo dục, bồi dưỡng đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh cho TN của Khối còn nhiều bất cập. Bởi vậy, việc nghiên cứu tìm ra những giải pháp mới sát hợp để công tác giáo dục, bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho TN đạt hiệu quả cao nhất có ý nghĩa thiết thực nhất đối với sự phát triển của các Doanh nghiệp nhà nước trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng ta hiện nay. 3 Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn trên, hơn bao giờ hết nhiệm vụ của công tác giáo dục, bồi dưỡng đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh cho TN trong các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty nhà nước trước vận mệnh của doanh nghiệp và đất nước lại cấp thiết như hiện nay. Chính vì vậy mà học viên chọn đề tài: “Giáo dục, bồi dưỡng đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh cho thanh niên Khối Doanh nghiệp Trung ương trong giai đoạn hiện nay” để viết luận văn tốt nghiệp thạc sỹ khoa học chính trị, chuyên ngành Hồ Chí Minh học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Công tác nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh đã được Đảng và Nhà nước quan tâm chỉ đạo, đặc biệt là công tác giáo dục đạo đức cho thanh niên. Hiện đã có rất nhiều luận án, luận văn, nhiều hội thảo nhiều công trình nghiên cứu, bàn về thanh niên, vai trò của thanh niên trong sự phát triển đất nước. Tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho thanh niên trong các doanh nghiệp nhà nước, khiến học viên yên tâm về sự lựa chọn đề tài của mình, không trùng lặp, không lặp lại ý tưởng của những người đi trước. Song cũng có nhiều công trình liên quan gián tiếp đến đề tài tiêu biểu như: - Năm 1985, NXB Thanh niên xuất bản cuốn sách Bác Hồ với sự nghiệp thế hệ trẻ gồm 16 bản báo cáo khoa học (được tập hợp từ 100 báo cáo tại Hội thảo khoa học do Viện Bảo tàng Hồ Chí Minh đồng tổ chức) chỉ rõ những quan điểm chiến lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh và bước đầu nêu lên những giải pháp góp phần cải tiến và nâng cao chất lượng công tác giáo dục và bồi dưỡng thế hệ trẻ trong giai đoạn cách mạng mới. - Sách Nghiên cứu, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới do TS. Nguyễn Văn Sáu chủ biên (2005) là kết quả của một đề tài khoa 4 học tổng kết công tác nghiên cứu, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh và trên cơ sở đó nêu ra phương hướng, giải pháp đẩy mạnh công tác nghiên cứu, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ mới. - Sách Đưa tư tưởng Hồ Chí Minh vào cuộc sống do PGS. TS. Lê Văn Tích chủ biên (2006) cũng là kết quả của đề tài khoa học. Từ những vấn đề chiến lược về xây dựng con người Việt Nam trong thời kỳ CNH - HĐH đất nước. Trên cơ sở phân tích thực trạng công tác tổ chức, giáo dục tuyên truyền tư tưởng Hồ Chí Minh (qua 5 nhóm đối tượng: công nhân, nông dân, lực lượng vũ trang, thanh niên, học sinh sinh viên) các tác giả đã nêu lên cơ sở lý luận của việc xây dựng phương pháp và chỉ ra các hình thức, biện pháp đưa tư tưởng Hồ Chí Minh vào cuộc sống trong đó có đối tượng là thanh niên. - Các công trình khác như: Tư tưởng đạo đức cách mạng - truyền thống, dân tộc, nhân loại, do Vũ Khiêu làm chủ biên (1993); Giáo dục tư tưởng cách mạng cho thế hệ trẻ Việt Nam trong tình hình mới của Phạm Đình Nghiệp (1999); Mấy vấn đề về đạo đức trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay của Nguyễn Trọng Chuẩn – Nguyễn Văn Phúc (2003); Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục thanh niên của của Đoàn Nam Đàn ( 2008); Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về tác phong, phương pháp lãnh đạo của người cán bộ trong giai đoạn mới của Bùi Tiến Dũng, Tạp chí Lý luận chính trị (số 11 2010); Giáo dục rèn luyện đạo đức cách mạng cho thanh niên theo tư tưởng Hồ Chí Minh của Đinh Ngọc Quý, Tạp chí thanh niên (số 17- 2006). Tư tưởng Hồ Chí Minh về thanh niên và công tác giáo dục thanh niên của Nguyễn Thị Thanh, Tạp chí Lý luận chính trị (số 3 - 2010); Giáo dục đạo đức cách mạng, lối sống văn hoá cho thanh niên trên truyền thông đại chúng của Ngô Văn Thạo, Tạp chí Lý luận chính trị (số 1 - 2010). 5 * Một số luận án, luận văn, có liên quan đến đề tài: - Lê Thị Thanh, Nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng ở tỉnh Thanh Hóa giai đoạn hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Chính trị học, Hà Nội, 2008 - Tô Thị Nhung, Vấn đề giáo dục đạo đức cho thanh niên ở Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Triết học, Hà Nội, 2006 - Dương Quốc Quân, Xây dựng đạo đức cách mạng cho cán bộ chủ chốt cấp cơ sở trong điều kiện kinh tế thị trường ở tỉnh Bắc Giang hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Triết học, Hà Nội 2005. - Cao Ngọc Hải, Chất lượng giáo dục đạo đức cách mạng trong các trường sĩ quan ngoại ngữ quân đội nhân VN, Luận văn Thạc sĩ Chính trị học, Hà Nội 2005. Những kết quả nghiên cứu của các tác giả trên là nguồn tư liệu qúy giá để học viên tham khảo và kế thừa có chọn lọc trong quá trình thực hiện đề tài luận văn của mình. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích Trên cơ sở vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho TN để phân tích, đánh giá đúng thực trạng việc giáo dục, bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho thanh niên Khối DNTW và những nguyên nhân của nó, từ đó đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cách mạng cho TN Khối trong những năm tới. 3.2. Nhiệm vụ - Làm rõ những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng và vai trò của đạo đức cách mạng đối với TN; nội dung, 6 phương thức giáo dục, bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho TN theo quan điểm của Hồ Chí Minh. - Tìm hiểu, phân tích thực trạng đạo đức cách mạng và công tác giáo dục, bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho thanh niên ở Khối DNTW; chỉ rõ những nguyên nhân của thực trạng đó, đề xuất một số giải pháp để nâng cao hiệu quả giáo dục, bồi dưỡng đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh cho thanh niên trong giai đoạn tới. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu - Luận văn nghiên cứu, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng vào giáo dục, bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho thanh niên Khối DNTW trong giai đoạn hiện nay. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu những quan điểm của Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng của thanh niên và giáo dục, bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho thanh niên, và việc vận dụng quan điểm đó vào giáo dục, bồi dưỡng cho đội ngũ thanh niên hiện nay trong Khối DNTW. Các số liệu, tài liệu khảo sát chủ yếu đề cập từ năm 2008 trở lại đây. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận. - Luận văn dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đạo đức cách mạng và giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân nói chung và đối với thanh niên nói riêng để nghiên cứu. 7 - Luận văn kế thừa các kết quả nghiên cứu của những công trình khoa học có liên quan đã công bố, nghiệm thu, đồng thời còn sử dụng những tài liệu của Đảng ủy Khối, các Đảng bộ trực thuộc, các báo cáo của Ban Tuyên giáo, Đoàn thanh niên Khối có liên quan đến đề tài. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp phương pháp lịch sử và lôgíc, phân tích và tổng hợp. Ngoài ra luận văn còn sử dụng các phương pháp cụ thể như: thống kê và điều tra xã hội học để thực hiện mục đích và nhiệm vụ đã đề ra. 6. Đóng góp của luận văn Luận văn muốn đóng góp trên những phương diện sau: - Hệ thống hóa những nội dung quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho thanh niên. - Đánh giá có căn cứ khoa học về thực trạng và đề xuất một số giải pháp có tính ứng dụng hiệu quả, từng bước nâng cao chất lượng giáo dục, bồi dưỡng đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh cho thanh niên trong các doanh nghiệp nhà nước trước yêu cầu mới . 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, các phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được kết cấu thành 2 chương 4 tiết. 8 CHƢƠNG 1 TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CỦA THANH NIÊN VÀ GIÁO DỤC, BỒI DƢỠNG ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO THANH NIÊN 1.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng của thanh niên và vai trò của giáo dục, bồi dƣỡng đạo đức cách mạng cho thanh niên 1.1.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng của thanh niên Vấn đề đạo đức được Hồ Chí Minh đặt ra và xem xét một cách toàn diện trong tất cả mọi lĩnh vực hoạt động của con người, từ việc tư đến việc công, từ lao động sản xuất ở hậu phương đến chiến đấu ngoài mặt trận, từ học tập, công tác đến sinh hoạt hàng ngày. Hồ Chí Minh cũng bàn đến đạo đức ở mọi phạm vi từ gia đình tới xã hội, từ giai cấp đến dân tộc, từ quốc gia đến quốc tế. Việc Hồ Chí Minh xem xét vấn đề đạo đức một cách toàn diện là một cách nhìn mang tính khách quan, phù hợp với hoạt động phong phú đa dạng của đời sống xã hội và của mỗi con người. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vừa là đạo đức Việt Nam vừa là đạo đức cộng sản, vừa mang cốt cách của văn hóa đạo đức phương Đông vừa mang dáng dấp của đạo đức phương Tây. Ở phương Tây khi nói đến đạo đức là nói đến những thói quen, tập quán, sinh hoạt và ứng xử của con người trong cộng đồng, trong xã hội. Ở phương Đông, theo các học thuyết về đạo đức của Nho học, đạo có nghĩa là con đường, đường đi, là đường sống của con người trong xã hội. Đức là dùng để nói đến đức nhân, đức tính là biểu hiện của đạo nghĩa, là nguyên tắc của 9 luân lý. Theo đó, đạo đức chính là những yêu cầu, những nguyên tắc do cuộc sống đặt ra mà con người phải tuân theo. Quan niệm đạo đức truyền thống ở VN dĩ nhiên không chỉ phụ thuộc một chiều vào tư tưởng đạo đức Nho học, mà chủ yếu bị chi phối bởi văn hóa xóm làng qui định cái tính, cái tình, cái nghĩa cộng đồng hơn là cương thường hay luân thường Nho giáo. Nội dung và phạm vi của đạo đức Việt Nam là lối sống có tình, có nghĩa theo phương châm “thấu tình” sẽ “đạt lý”. Theo quan điểm Mácxít, đạo đức xét đến cùng là sự phản ánh của các quan hệ kinh tế - xã hội. Giá trị đạo đức được xác định ở chỗ nó phục vụ cho tiến bộ xã hội vì hạnh phúc của con người.“Đạo đức giúp cho xã hội loài người tiến lên trình độ cao hơn, thoát khỏi ách bóc lột lao động” [33, tr.371]. Bàn về đạo đức cộng sản chủ nghĩa, Lênin cho rằng: “Đó là những gì góp phần phá hủy xã hội cũ của bọn bóc lột và góp phần đoàn kết tất cả những người lao động chung quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xã hội mới của những người cộng sản” [34, tr.452]. Đây là một quan niệm mang tính cách mạng và khoa học về đạo đức mà quan niệm của các tôn giáo và các nền đạo đức khác không thể đạt tới. Đạo đức ngoài sự chi phối của các điều kiện kinh tế - xã hội, còn chịu sự tác động của sự tự ý thức và niềm tin về bản thân mình, về dân tộc, giai cấp theo những lý tưởng và những định hướng giá trị nhất định. Do đó, đạo đức có tính độc lập tương đối. Cho nên, không thể quả quyết rằng, sự giàu có về vật chất sẽ gắn liền với sự giàu có về tinh thần đạo đức hay ngược lại. Hồ Chí Minh không đưa ra định nghĩa đạo đức là gì, nhưng trong sử dụng, thuật ngữ đạo đức được dùng với 3 nghĩa: rộng, hẹp, và rất hẹp. Nghĩa rộng, đạo đức là hình thái ý thức xã hội, nhờ đó con người tự giác điều chỉnh 10 hành vi cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc và làm giàu tính người trong các quan hệ xã hội, kể cả trong các quan hệ chính trị, tư tưởng. Nghĩa hẹp, đạo đức là các qui tắc, chuẩn mực dùng điều chỉnh hành vi con người trong quan hệ giữa người với người trong hoạt động sống. Nghĩa rất hẹp đó là hành vi đạo đức. Hành vi đạo đức là hành động cá nhân thể hiện quan niệm của cá nhân về nghĩa vụ đối với xã hội và đối với người khác, thể hiện lương tâm hoặc bổn phận cá nhân trong những hoàn cảnh đặc thù. Hồ Chí Minh tập trung bàn nhiều về đạo đức theo nghĩa hẹp với 3 mối quan hệ cơ bản của mỗi con người (với mình, với người và với việc) và đạo đức cách mạng. Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức cách mạng là đạo đức của người cách mạng xuất hiện trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc và đi lên CNXH ở VN. Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng là trung với nước, hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì CNXH, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng; là cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; luôn yêu thương, quý trọng con người, sống có tình, có nghĩa và tinh thần quốc tế trong sáng… và đạo đức cách mạng là cái gốc của nhân cách, là nền tảng của người cách mạng. Mặt khác Hồ Chí Minh còn chỉ ra rằng đạo đức cách mạng và đạo đức đời thường là hoàn toàn thống nhất với nhau, sẽ không có đạo đức đời thường tách rời với đạo đức cách mạng và cũng không thể có đạo đức cách mạng đứng ngoài, đối lập với đạo đức đời thường. Vì vậy không thể bào chữa cho khuyết điểm của bản thân mình, “cái đó là việc riêng của tôi, gia đình tôi, không liên quan gì đến cái chung”. Cái riêng mà phù hợp với cái chung của Đảng, của cách mạng, của nhân dân thì đó là đạo đức. Cái riêng mà đi ngược với cái chung là chủ nghĩa cá nhân, là vi phạm đạo đức. 11 Theo Hồ Chí Minh đạo đức mới là đạo đức cách mạng, nó hoàn toàn khác với đạo đức cũ về chất, ngược lại nó hoàn toàn thống nhất với đạo đức của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đó là sự kết hợp truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc với đạo đức mang bản chất giai cấp công nhân và tinh hoa đạo đức của nhân loại. Hồ Chí Minh đã làm cuộc cách mạng trong lĩnh vực đạo đức VN, Người nói: “Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất chân chổng lên trời. Đạo đức mới như người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngửng lên trời” [42, tr.320 - 321]. Đạo đức cũ - đạo đức thực dân phong kiến, là thứ đạo đức ích kỷ, nó kìm hãm, trói buộc con người, tàn phá con người. Còn đạo đức mới đạo đức cách mạng: Quyết tâm giúp đỡ loài người ngày càng tiến bộ và thoát khỏi ách áp bức, bóc lột, luôn luôn giữ vững tinh thần chí công vô tư, là trong hoàn cảnh nào, cũng phải đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết, tức là “Lo, thì trước thiên hạ; hưởng, thì sau thiên hạ” [43, tr.568]. Hồ Chí Minh xem đạo đức là nền tảng của người cách mạng, cũng giống như gốc của cây, ngọn nguồn của sông, của suối. Người còn ví đạo đức đối với người cách mạng như sức khỏe của người gánh nặng và đi xa. Theo Hồ Chí Minh, nhiệm vụ cách mạng không dễ dàng, đơn giản mà bao giờ cũng khó khăn, phức tạp. Thực hiện nhiệm vụ cách mạng, đòi hỏi người cách mạng phải có quyết tâm phấn đấu thật cao, phải dám hy sinh, phải kiên trì bền bỉ “thắng không kiêu, bại không nản”. Vì thế “Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ vẻ vang” [45, tr. 283]. Hồ Chí Minh cho rằng lấy đạo đức làm gốc, không có nghĩa là tuyệt đối hóa mặt đức, xem nhẹ mặt tài. Đức là gốc, nhưng đức và tài, “hồng” và “chuyên” phải kết hợp, phẩm chất và năng lực phải đi đôi, không thể thiếu mặt này hay thiếu mặt kia. Như vậy, đạo đức trong quan niệm Hồ Chí Minh 12 được hiểu là toàn bộ những chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh hành vi của con người trong quan hệ với người khác và với cộng đồng. Dựa vào những chuẩn mực đó, người ta đánh giá hành vi của mỗi người theo các quan niệm về thiện và ác, về cái không được làm và nghĩa vụ phải làm. Từ quan điểm về đạo đức cách mạng trên tùy theo đối tượng, từng thời điểm, nhất là theo yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng mà Hồ Chí Minh xác định nội dung đạo đức cách mạng cho từng chủ thể đạo đức nhất định. Cũng như đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên, đạo đức cách mạng của TN được Hồ Chí Minh nêu tóm tắt là: TN phải luôn rèn luyện đạo đức cách mạng, đạo đức cách mạng của TN thể tóm tắt trong mấy điểm : - Trung thành: Trọn đời trung thành với sự nghiệp cách mạng, với Tổ quốc, với Đảng, với giai cấp. - Dũng cảm: Không sợ khổ, không sợ khó, thực hiện “Đâu cần thanh niên có, việc gì khó có thanh niên làm”, “gian khổ đi trước, hưởng thụ sau mọi người”. - Khiêm tốn: Không nên tự cho mình là tài giỏi, không khoe công, không tự phụ [46, tr. 621]. Đối với TN trong lực lượng vũ trang, theo Hồ Chí Minh, đạo đức của họ thể hiện ở 5 điều: Trí, Tín, Nhân, Dũng, Liêm: - Trí: Là sáng suốt, biết địch biết mình, biết người tốt thì nâng đỡ, biết người xấu thì không dùng, biết cái tốt của mình mà phát triển lên, biết cái xấu của mình để mà tránh. - Tín: Nói cái gì phải cho tin. Nói và làm cho nhất trí, làm thế nào cho dân tin, cho bộ đội tin ở mình. - Nhân: Là phải có lòng bác ái, yêu nước, yêu đồng bào, yêu bộ đội mình. 13 - Dũng: Là phải mạnh dạn, quả quyết nhưng không phải làm liều. Phải có kế hoạch. Phải kiên quyết làm ngay. Nguy hiểm cũng phải làm. Nghĩa là phải có lòng dũng cảm trong công việc. - Liêm: Là không tham danh vị, không tham sống, không tham tiền, không tham sắc. Người cán bộ đã dám hy sinh cho Tổ quốc, hy sinh cho đồng bào, hy sinh vì nghĩa không tham gì hết [41, tr. 223 - 224]. Đối với đoàn viên thanh niên cộng sản, theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng của họ khác các thanh niên bình thường ở chỗ: “Bất kỳ ở cương vị nào, bất kỳ làm công việc gì đều không sợ khó, không sợ khổ, đều một lòng một dạ phục vụ lợi ích chung của giai cấp, của nhân dân, đều nhằm mục đích xây dựng chủ nghĩa xã hội” và “Đạo đức cách mạng là đạo đức tập thể, nó phải đánh thắng và tiêu diệt chủ nghĩa cá nhân” [46, tr.306]. Hồ Chí Minh là người đã từng hoạt động trong các phong trào thanh niên khi còn trẻ, từng tham gia đại hội Quốc tế thanh niên cộng sản, là người trực tiếp sáng lập, lãnh đạo các tổ chức TN tiên tiến ở nước ta. Chính vì vậy, Người đã nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan về vị trí, vai trò của TN trong sự nghiệp cách mạng, qua đó Người định hướng công tác giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho TN. Người khẳng định TN không chỉ là người chủ tương lai của đất nước, mà còn là “lớp người tiếp sức cách mạng cho thế hệ thanh niên già, đồng thời là người phụ trách, dìu dắt thế hệ thanh niên tương lai - tức là các cháu nhi đồng” [46, tr.488]. Để làm tròn sứ mệnh cao cả và vẻ vang này, TN phải rèn luyện tinh thần và lực lượng của mình, trước hết là phải tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng. Người xác định mục đích của việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho TN là để giúp họ phấn đấu trở thành những lớp người vừa có đức vừa có tài, kế tục trung thành sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng. 14 Hồ Chí Minh cho rằng: Thanh niên “Phải thấm nhuần đạo đức cách mạng tức là khiêm tốn, đoàn kết, thực hành chủ nghĩa tập thể…ra sức cần kiệm xây dựng nước nhà” [46, tr.106]. Người còn khuyên thanh niên: “Các sự hy sinh khó nhọc thì mình làm trước người ta, còn sự sung sướng thanh nhàn thì mình nhường người ta hưởng trước. Các việc đáng làm, thì khó mấy cũng cố chịu quyết làm cho kỳ được. Ham làm những việc ích quốc lợi dân. Không ham địa vị và công danh phú quý. Đem lòng chí công vô tư mà đối với người, đối với việc. Quyết tâm làm gương về mọi mặt: Siêng năng, tiết kiệm, trong sạch. Chớ kêu ngạo tự mãn, tự túc. Nói ít làm nhiều, thân ái đoàn kết” [41, tr.185 -186]. Để thực hiện khẩu hiệu “Đâu cần thanh niên có, việc gì khó thanh niên làm”, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ cho mỗi thanh niên phương hướng hành động để từ đó có một hướng đi đúng đắn, sát thực tiễn. TN đã làm rất nhiều điều quan trọng cho Tổ quốc, nhưng theo Người “Chớ vì thế mà tự cao, tự đại, phải khiêm tốn, luôn luôn cố gắng hơn mới vượt qua mọi khó khăn để giành lấy thành tích nhiều hơn”. Người nhấn mạnh: “Thanh niên phải xung phong đến những nơi khó khăn gian khổ nhất, nơi nào người khác làm ít kết quả, thanh niên phải xung phong làm cho tốt…, phải xung phong đến những nơi khó khăn để xây dựng chủ nghĩa xã hội” [46, tr.620]. Xung phong là đi trước, làm trước để lôi kéo quần chúng chứ không phải là xa rời quần chúng. Đồng thời, Người phê phán mạnh mẽ những thanh niên chỉ bo bo nghĩ đến lợi ích riêng của mình, tự tư, tự lợi, tham lam vật chất, ham sung sướng, tránh khó nhọc, lười biếng, coi thường lao động, xa xỉ, kiêu ngạo…TN bao giờ cũng có nhiều ham muốn. Nhưng nếu ham muốn chỉ hướng vào những dục vọng tầm thường thì sẽ làm cho TN sống không có mục đích đúng đắn. 15 Người yêu cầu TN phải luôn luôn trau dồi đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, chống lười biếng, lãng phí, tham lam… Hồ Chí Minh nhắc nhở TN khi giải quyết mối quan hệ giữa nghĩa vụ và quyền lợi thì bao giờ cũng phải chú ý đến nghĩa vụ trước. Người chỉ rõ: “Nhiệm vụ của thanh niên không phải là hỏi nước nhà đã làm cho mình những gì. Mà phải tự hỏi mình đã làm gì cho nước nhà? Mình phải làm thế nào cho ích lợi nước nhà nhiều hơn? Mình vì lợi ích nước nhà mà hy sinh phấn đấu chừng nào” [43, tr.455]. Khi làm bất cứ việc gì TN cũng đừng nghĩ đến mình trước mà phải nghĩ đến đồng bào, đến toàn dân đã. Người đã từng phân tích và căn dặn: Huy hiệu của TN ta là tay cầm cờ đỏ sao vàng tiến lên; ý nghĩa của nó là TN phải xung phong gương mẫu trong công tác, trong học hỏi, trong tiến bộ, trong rèn luyện đạo đức cách mạng TN phải thành một lực lượng to lớn và vững chắc trong cuộc kháng chiến và kiến quốc. Quá trình xây dựng, rèn luyện đạo đức cách mạng cho TN, người nhấn mạnh phải chống chủ nghĩa cá nhân. Theo Người, TN phải dũng cảm lên án và từ bỏ mọi thói hư tật xấu như lười biếng, suy bì, kèn cựa, tham ô, lãng phí… Người khẳng định: Chủ nghĩa cá nhân là kẻ thù hung ác của đạo đức cách mạng. Để làm tròn trách nhiệm, TN ta phải nêu cao tinh thần làm chủ tập thể, từ bỏ chủ nghĩa cá nhân. Để chống chủ nghĩa cá nhân, Người luôn căn dặn TN phải thật thà, ngay thẳng, phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, phải làm những việc ích nước, lợi dân, phải thương yêu, đoàn kết, giúp nhau cùng tiến bộ… Để giáo dục TN biết hành động, theo Hồ Chí Minh phải giúp họ xác định phương hướng đúng, nội dung phải cụ thể, tinh thần phải hăng hái tự giác. 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan