Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giải quyết vấn đề phân tầng xã hội ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay theo tư tưởn...

Tài liệu Giải quyết vấn đề phân tầng xã hội ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh

.PDF
85
722
130

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------------------- TRẦN BÁ HIỆP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ PHÂN TẦNG XÃ HỘI Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY THEO TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành Hồ Chí Minh học HÀ NỘI – 2013 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------------------- TRẦN BÁ HIỆP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ PHÂN TẦNG XÃ HỘI Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY THEO TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Hồ Chí Minh học Mã số: 60 31 02 04 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS. Phùng Hữu Phú HÀ NỘI – 2013 2 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn khoa học của GS.TS. Phùng Hữu Phú. Các số liệu và trích dẫn trong luận văn là trung thực . Kết quả nghiên cứu của luận văn không trùng với các công trình khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Trần Bá Hiệp 3 LỜI CẢM ƠN Trước tiên, tôi xin được gửi lời cảm ơn đến tất cả quý Thầy Cô đã giảng dạy trong chương trình Cao học, chuyên ngành Hồ Chí Minh học, K.2011 – Trường Đại học Khoa học – Xã hội và Nhân văn Hà Nội, những người đã truyền đạt những kiến thức hữu ích về những vấn đề liên quan đến chuyên ngành đào tạo, làm cơ sở cho tôi hoàn tất luận văn này. Tôi xin chân thành cảm ơn GS.TS. Phùng Hữu Phú đã tận tình hướng dẫn cho tôi trong thời gian thực hiện luận văn. Mặc dù trong quá trình thực hiện luận văn có giai đoạn không được thuận lợi, nhưng những gì Thầy đã hướng dẫn, chỉ bảo đã cho tôi nhiều kinh nghiệm trong thời gian thực hiện đề tài. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến quý Thầy Cô đang công tác tại khoa Khoa học Chính trị, trường Đại học Khoa học - Xã hội và Nhân văn Hà Nội; phòng Khoa học – Công nghệ và Đào tạo sau Đại học, trường Đại học Sài Gòn đã giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và hoàn tất các thủ tục, hồ sơ bảo vệ luận văn. Do thời gian có hạn và kinh nghiệm nghiên cứu khoa học chưa nhiều nên luận văn còn nhiều thiếu sót, rất mong nhận được ý kiến góp ý của quý Thầy Cô và các anh chị học viên. Tp. Hồ Chí Minh, ngày tháng 12 năm 2013 HỌC VIÊN Trần Bá Hiệp 4 MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................................ 1 2. Tình hình nghiên cứu ................................................................................................ 3 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................ 5 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................................ 6 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ............................................................... 6 6. Đóng góp của luận văn ............................................................................................. 7 7. Kết cấu của luận văn ................................................................................................. 7 Chƣơng 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÂN TẦNG XÃ HỘI; TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ TIẾN BỘ, CÔNG BẰNG XÃ HỘI 1.1. Một số khái niệm liên quan đến phân tầng xã hội, tiến bộ, công bằng xã hội ....... 9 1.1.1 Phân hóa giàu nghèo ............................................................................................ 9 1.1.2. Phân hóa xã hội ................................................................................................... 10 1.1.3. Phân tầng xã hội .................................................................................................. 10 1.1.4. Công bằng xã hội ................................................................................................ 14 1.1.5. Tiến bộ xã hội ..................................................................................................... 16 1.2. Tiến bộ, công bằng xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh ....................................... 17 1.2.1. Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh suốt đời hy sinh, phấn đấu vì sự tiến bộ và công bằng xã hội ........................................................................................................... 17 1.2.2. Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về tiến bộ và công bằng xã hội .... 20 1.3. Đảng Cộng sản Việt Nam kế thừa và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về tiến bộ và công bằng xã hội ................................................................................................. 25 1.3.1. Mục tiêu, quan điểm ........................................................................................... 25 1.3.2. Những định hướng lớn, nhiệm vụ và giải pháp .................................................. 28 5 Chƣơng 2 THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ PHÂN TẦNG XÃ HỘI 2.1. Tình hình phân tầng xã hội ở thành phố Hồ Chí Minh (2000 – 2013) .................. 32 2.1.1. Khái quát tình hình kinh tế xã hội ở thành phố Hồ Chí Minh ............................ 32 2.1.2. Thực trạng phân tầng xã hội ở Thành phố .......................................................... 34 2.1.3. Nguyên nhân dẫn đến phân tầng xã hội ở Thành phố ........................................ 38 2.2. Thành phố Hồ Chí Minh giải quyết vấn đề phân tầng xã hội ................................ 46 2.2.1. Những chủ trương, giải pháp cơ bản .................................................................. 46 2.2.2. Những kết quả nổi bật ......................................................................................... 47 2.2.3. Những khuyết điểm, hạn chế và nguyên nhân .................................................... 49 2.3. Tiếp tục giải quyết vấn đề phân tầng xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh ............. 55 2.3.1. Dự báo xu hướng vận động của phân tầng xã hội của Thành phố trong những năm tới .......................................................................................................................... 55 2.3.2. Phương hướng và giải pháp chủ yếu................................................................... 56 2.3.3. Một số kiến nghị ................................................................................................. 65 KẾT LUẬN .................................................................................................................. 71 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................... 74 6 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Công cuộc đổi mới hơn 2 thập kỷ qua đã làm thay đổi căn bản diện mạo đời sống kinh tế - xã hội ở nước ta. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - sản phẩm của đổi mới đã phát huy hiệu quả của nó ở tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định cùng với việc nâng cao mức sống của hầu hết các tầng lớp dân cư. Bên cạnh đó, kinh tế thị trường cũng làm nảy sinh không ít những hệ lụy xã hội mà chúng ta đang phải tập trung giải quyết, một trong các hệ lụy đó là sự phân tầng xã hội. Phân tầng xã hội là một sản phẩm “tự nhiên” của quá trình vận động lịch sử xã hội loài người, trong từng thời kỳ lịch sử mức độ và tính chất phân tầng có những biểu hiện khác nhau cơ bản. Bởi vậy, một mặt chúng ta thừa nhận nó như là một yếu tố khách quan, nhưng mặt khác với mục tiêu và lý tưởng mà Đảng, nhân dân ta cũng như vị lãnh tụ thiên tài của dân tộc ta – Chủ tịch Hồ Chí Minh đã, đang và tiếp tục hướng tới là: “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh” thì phân tầng xã hội được xem là hệ quả không mong muốn của quá trình phát triển xã hội. Nghiên cứu về vấn đề này cho thấy bức tranh tổng thể về sự phân tầng xã hội cũng như các yếu tố có liên quan. Qua đó, góp phần định hướng các mục tiêu và chiến lược giảm bất bình đẳng xã hội. Ngày nay, sự tiến bộ của con người được xem là tiêu chuẩn cao nhất của phát triển xã hội. Sự phát triển xã hội đòi hỏi phải đem lại công bằng, bình đẳng cho mọi người trong cơ hội và điều kiện cống hiến cũng như hưởng thụ các thành quả của phát triển. Điều này hoàn toàn phù hợp với mục tiêu của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, cuộc cách mạng được xem là triệt để nhất trong lịch sử nhân loại. Hiện nay, Việt Nam luôn kiên định con đường “định hướng đi lên xã hội chủ nghĩa”, bản chất ưu việt của xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang hướng tới phải được hiện thực hóa chứ không phải chỉ dừng lại trong sự mơ ước của người dân. Tuy nhiên, một thực tế cho thấy thực trạng phân tầng xã hội đang diễn ra một cách phức tạp và mạnh mẽ ở nước ta, đặc biệt là các trung tâm đô thị lớn của cả nước. Để thực hiện công bằng và bình đẳng xã hội, đi đúng định hướng con đường mà Đảng và nhân 1 dân ta đã lựa chọn, chúng ta cần tìm ra những giải pháp hạn chế tối đa phân tầng xã hội trong những biểu hiện tiêu cực của nó, đồng thời với việc giảm tối thiểu sự bất bình đẳng xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc đã dành trọn cuộc đời mình để giành lấy quyền tự do, độc lập cho dân tộc ta, nhưng khát khao cháy bỏng của Người không dừng lại ở đó vì “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”[39;tr.56]. Hạnh phúc, tự do của người dân chỉ có thể đạt được khi chúng ta xây dựng được một xã hội thực sự công bằng và bình đẳng. Thành phố Hồ Chí Minh là một đô thị phát triển bậc nhất của Việt Nam, là trung tâm kinh tế, chính trị trọng điểm của cả nước. Sự phát triển vượt bậc trên lĩnh vực kinh tế - xã hội của Thành phố cũng để lại những hệ quả không mong muốn, đó là thực trạng phân tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ và phức tạp. Đồng thời nó đang và sẽ xuất hiện những nguy cơ gia tăng bất bình đẳng xã hội trên địa bàn. Để thực hiện thắng lợi những mục tiêu chung của cả nước, Đảng bộ và các cấp chính quyền thành phố Hồ Chí Minh đã có nhiều chủ trương, chính sách, giải pháp nhằm hạn chế hiện tượng phân tầng xã hội. Việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề công bằng và bình đẳng xã hội cũng là một giải pháp góp phần vào việc xây dựng một xã hội công bằng và bình đẳng ở thành phố Hồ Chi Minh. Xuất phát từ thực tiễn của xã hội Việt Nam nói chung và trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh nói riêng về tình trạng phân tầng xã hội, kéo theo những nguy cơ về bất bình đẳng xã hội; trên cơ sở những giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề công bằng và bình đẳng xã hội chính là những lý do cơ bản thôi thúc tôi chọn vấn đề “Giải quyết vấn đề phân tầng xã hội ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh” để làm đề tài nghiên cứu. Với việc hoàn tất nghiên cứu đề tài này, tôi mong muốn được góp phần hệ thống hóa những quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề công 2 bằng và bình đẳng xã hội. Trên cơ sở tìm hiểu vấn đề phân tầng xã hội ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, một mặt nêu lên thực trạng, mặt khác tìm ra những cơ sở lý luận và thực tiễn trong việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh góp phần giải quyết vấn đề phân tầng xã hội trên địa bàn thành phố. Với mong muốn nhỏ nhoi rằng thành phố mang tên vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc trở thành một thành phố không chỉ dẫn đầu về kinh tế của cả nước mà còn là nơi thể hiện tốt nhất khao khát của Hồ Chủ tịch lúc sinh thời: “độc lập dân tộc phải mang lại tự do và hạnh phúc cho nhân dân” – Một Thành phố đảm bảo tốt nhất về công bằng và bình đẳng xã hội cho mọi người dân. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Liên quan đến vến đề nghiên cứu đã có nhiều tác giả với những công trình đã được công bố, như: Thứ nhất, liên quan đến vấn đề phân tầng xã hội: tác giả Nguyễn Đình Tấn với công trình Nguyễn Đình Tấn “Cơ cấu xã hội và phân tầng xã hội”, Nxb. Lý luận chính trị, năm 2005. Đồng tác giả Nguyễn Thị Hằng – Lê Duy Đồng với công trình “Phân phối và phân hóa giàu nghèo sau 20 năm đổi mới, Nxb Lao động – Xã hội, năm 2005. Tác giả Đỗ Thiên Kính với công trình “Phân hóa giàu nghèo và tác động của yếu tố học vấn đến nâng cao mức sống cho người dân Việt Nam: qua hai cuộc điều tra của mức sống dân cư của Việt Nam năm 1993, 1997, Nxb. Khoa học xã hội, năm 2003. Tương Lai với công trình “Khảo sát xã hội về phân tầng xã hội” (sách tham khảo nội bộ), Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, năm 1995. Lê Du Phong với công trình “Giải quyết phân hóa giàu nghèo ở các nước và Việt Nam”, Nxb, Nông nghiệp, năm 2000. Dương Phú Hiệp với công trình “Phân hóa giàu nghèo ở một số quốc gia khu vực châu Á Thái Bình Dương”, Nxb. Khoa học Xã hội, năm1998,... Các công trình nêu trên đã đi vào nghiên cứu vấn đề phân tầng xã hội ở nhiều khía cạnh như, khái niệm, cách tiếp cận, biểu hiện, nguyên nhân,...của vấn đề phân tầng xã hội. Tuy nhiên, phạm vi đề cập đến vấn đề phân tầng xã hội không chỉ giới hạn trong một địa phương cụ thể như thành phố Hồ Chí Minh mà mang tính tổng quát của tình hình Việt Nam. 3 Thứ hai, liên quan đến vấn đề phân tầng xã hội ở thành phố Hồ Chí Minh cũng đã có các công trình của các cá nhân, tổ chức, như: Nguyễn Thị Cành với công trình “Diễn biến mức sống dân cư, phân hóa giàu nghèo và các giải pháp xóa đói giảm nghèo trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế Việt Nam, nhìn từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh”, Nxb. Lao động – Xã hội, năm 2001. Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh: “Tổng kết công tác chăm lo đồng bào nghèo ở thành phố Hồ Chí Minh”, Báo cáo tổng kết năm 2000. Viện Kinh tế cũng đã công bố công trình nghiên cứu khoa học: Nghiên cứu thực trạng phân hóa giàu nghèo tại thành phố Hồ Chí Minh, năm 1996. Ngoài ra liên quan đến vấn đề còn có hàng loạt các công trình điều tra của Tổng cục Thống kê đã được công bố,... Các công trình nêu trên đã nghiên cứu, điều tra thực tiễn vấn đề phân tầng xã hội, hoặc các phạm trù hẹp hơn như, phân hóa giàu nghèo, diễn biến mức sống dân cư. Đồng thời, các công trình cũng đã có những giải pháp để giải quyết vấn đề phân hóa giàu nghèo hay phân tầng xã hội. Tuy nhiên, nghiên cứu về vấn đề phân tầng xã hội, các công trình trên nghiên cứu theo phương pháp xã hội học và tất nhiên những quan điểm hay giải pháp cũng di theo hướng này. Trong khi đó, hướng nghiên cứu của đề tài này là sử dụng phương pháp nghiên cứu của ngành chính trị học từ những kết quả nghiên cứu, điều tra xã hội học, mà cụ thể là lấy tư tưởng Hồ Chí Minh để làm cơ sở giải quyết những vấn đề đặt ra từ thực tiễn phân tầng xã hội ở thành phố Hồ Chí Minh. Thứ ba, liên quan đến các vấn đề: xây dựng xã hội công bằng, bình đẳng, hoặc nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề công bằng và bình đẳng, có các công trình nghiên cứu: Nguyễn Thị Nga với công trình “Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở Việt Nam thời kỳ đổi mới - vấn đề và giải pháp”, Nxb. Lý luận chính trị, năm 2007. Đồng tác giả Đỗ Phú – Trần Tình có công trình: Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội, lý thuyết và thực tiễn ở thành phố Hồ Chí Minh, Nxb. Lao Động, năm 2010. Tác giả Nguyễn Minh Hoàn với công trình “Công bằng xã hội trong tiến bộ xã hội”, Nxb. Chính trị quốc gia, năm 2009. Phan Thanh Diễn với công trình “Vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới”, Nxb. Tổng hợp Tp.HCM, năm 2005. Đồng tác giả Vũ 4 Đình Hòe – Bùi Đình Phong có công trình: Hồ Chí Minh với sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trí quốc gia, năm 2010,.... Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến vấn đề thực hiện công bằng và bình đẳng xã hội trong sự phát triển kinh tế cũng như tiến bộ xã hội, hoặc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc góp phần xây dựng xã hội công bằng và bình đẳng. Các công trình nghiên cứu đã được công bố chính là cơ sở khoa học cho việc tìm hiểu, giải quyết các vấn đề đặt ra trong quá trình nghiên cứu đề tài “Giải quyết vấn đề phân tầng xã hội ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh”. Tuy nhiên, vấn đề phân tầng xã hội trong mối quan hệ với công bằng và bình đẳng xã hội lại chưa được đặt ra và giải quyết. Đặc biệt việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh để giải quyết vấn đề phân tầng xã hội, góp phần xây dựng xã hội công bằng và bình đẳng hơn tại thành phố mang tên Bác là một hướng đi chưa được công trình nào đề cập và nghiên cứu. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu * Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở tổng hợp và phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề công bằng bình đẳng xã hội, tác giả mong muốn được góp phần làm rõ: những giá trị lý luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề này, đồng thời thông qua việc tìm hiểu tư tưởng của Người để nhìn nhận, đánh giá, góp phần tìm ra những giải pháp giải quyết vấn đề phân tầng xã hội ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay nhằm hạn chế tình trạng bất bình đẳng xã hội. * Nhiệm vụ nghiên cứu: Thứ nhất, tìm hiểu và làm rõ khái niêm phân tầng xã hội, thực trạng phân tầng xã hội hiện nay ở thành phố Hồ Chí Minh, qua đó chỉ ra nguy cơ về một tình trạng bất bình đẳng xã hội đang đặt ra ở mức báo động trên địa bàn thành phố phát triển kinh tế bậc nhất của Việt Nam. Thứ hai, tổng hợp và phân tích những luận điểm, quan điểm cũng như tư tưởng của Hồ Chí Minh về vấn đề công bằng và bình đẳng xã hội; vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh giải quyết vấn đề phân tầng xã hội ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. 5 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu * Đối tƣợng nghiên cứu: - Vấn đề phân tầng xã hội ở thành phố Hồ Chí Minh với những biểu hiện và nguy cơ gia tăng tình trạng bất bình đẳng xã hội. - Tư tưởng Hồ Chí Minh về công bằng và bình đẳng xã hội và việc vận dụng tư tưởng của Người về việc giải quyết vấn đề phân tầng xã hội trên địa bàn Thành phố. * Phạm vi nghiên cứu: Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài tác giả xác định phạm vi như sau: + Về giới hạn phạm vi lý thuyết: - Góp phần làm rõ khái niệm phân tầng xã hội, - Góp phần làm rõ các quan niệm của Hồ Chí Minh về: công bằng và bình đẳng xã hội. + Về giới hạn thời gian nghiên cứu (nghiên cứu vấn đề thực tiễn): Từ năm 2000 đến nay (nghiên cứu về vấn đề thực tiễn). + Về giới hạn không gian nghiên cứu (nghiên cứu vấn đề thực tiễn): Tại thành phố Hồ Chí Minh. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận: + Các quan điểm phi Mácxit về vấn đề phân tầng xã hội. + Quan điểm của chủ nghĩa Mác – lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề công bằng và bình đẳng xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa, tiếp thu các quan điểm của Mác – Lênin về tiến bộ xã hội, Người khẳng định, trong chế độ xã hội thực dân, phong kiến, hoàn toàn không có công bằng và bình đẳng xã hội. Người quan niệm, bình đẳng trước hết là bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi, đồng thời việc thực hiện sự bình đẳng giữa người với người trong mối quan hệ giữa thực hiện nghĩa vụ và hưởng thụ quyền lợi ấy chính là thực hiện bình đẳng xã hội. 6 + Đảng và nhà nước Vệt Nam kế thừa và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề bình đẳng xã hội. Đảng và Nhà nước ta luôn xác định và hướng tới việc thực hiện bình đẳng xã hội với nhiều khẩu hiệu cũng như nguyên tắc được thể hiện thông qua các văn kiện Đảng, hiến pháp và pháp luật của Nhà nước, như: tiến tới xây dựng một xã hội công bằng văn minh; tất cả mọi công dân đều có quyền lợi và nghĩa vụ ngang hàng nhau trước pháp luật; hay nguyên tắc “Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện” được nêu trong hiến pháp năm 1946 của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và được hiến pháp năm 1992 khẳng định. + Kế thừa kết quả nghiên cứu, điều tra của các nhà xã hội học liên quan đến những vấn đề nghiên cứu trong đề tài. - Phƣơng pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng những phương pháp nghiên cứu chính như, phương pháp lôgíc và lịch sử, phân tích và tổng hợp, phương pháp so sánh đối chiếu. Mặt khác xuất phát từ việc đề tài nghiên cứu thuộc phạm trù của ngành chính trị học, nhưng lại liên quan đến lĩnh vực xã hội học nên đề tài chú trọng sử dụng phương pháp nghiên cứu xã hội học – chính trị. 6. Đóng góp của luận văn Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần tìm hiểu thực trạng phân tầng xã hội đang diễn ra ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. Trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề công bằng xã hội và bình đẳng xã hội, giải quyết vấn đề phân tầng xã hội ở thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả nghiên cứu của luận văn cũng góp phần vào việc cung cấp nguồn tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy bộ môn tư tưởng Hồ Chí Minh và việc hoạch định, thực thi chính sách xã hội, an sinh xã hội trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. 7. Kết cấu của luận văn Kết cấu của luận văn gồm phần mở đầu, 2 chương, 6 tiết, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. 7 Chƣơng 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÂN TẦNG XÃ HỘI; TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ TIẾN BỘ, CÔNG BẰNG XÃ HỘI 1.1. Một số khái niệm liên quan đến phân tầng xã hội, tiến bộ, công bằng xã hội 1.1.1. Phân hóa giàu nghèo Phân hóa giàu nghèo là một dạng, hình thức của sự phân hóa xã hội về mặt kinh tế mà kết quả là sự hình thành nhóm giàu và nhóm nghèo về các chỉ báo kinh tế, như: tài sản, thu nhập, chi tiêu và sâu xa hơn là sở hữu tư liệu sản xuất, tư liệu sinh hoạt. Trong xã hội, mức sống kinh tế được đo bằng tài sản, thu nhập, chi tiêu nên có thể phân biệt nhóm người giàu, nhóm người nghèo và tầng lớp trung gian không giàu cũng không nghèo. Quá trình phân biệt sâu sắc về mặt kinh tế tạo thành nhóm giàu và nhóm nghèo, đồng thời làm cho khoảng cách giữa hai nhóm này tăng lên gọi là “sự phân hóa giàu nghèo”[60; tr.33]. Cần phân biệt hai loại phân hóa giàu nghèo như sau: một là, sự phân hóa giàu nghèo như là sự phân cực giàu nghèo, trong đó nhóm giàu càng giàu lên và nhóm nghèo càng nghèo đi. Khoảng cách giàu nghèo tăng lên nhanh chóng theo sự phân cực giàu nghèo. Hai là, sự phân hóa giàu nghèo theo chiều hướng cải thiện mức sống của cả nhóm giàu và nhóm nghèo, nhưng cũng có thể mức sống của nhóm nghèo tăng chậm hơn nhóm giàu nên khoảng cách giàu nghèo vẫn tiếp tục tăng lên. Phân hóa giàu nghèo là một quá trình gắn liền với sự phân hóa xã hội và phân tầng xã hội. Kết quả của sự phân hóa giàu nghèo là người nghèo bị rơi xuống tầng đáy của thang bậc xã hội và người giàu nổi lên tầng trên, nắm giữ phần lớn quyền lực, uy tín và của cải trong xã hội. Tuy nhiên, trên thực tế những người có uy tín xã hội hoặc nắm giữ quyền lực dều có thể trở nên giàu có, nhưng nghững người giàu chưa chắc đã có uy tín và vị thế cao trong hệ thống phân tầng xã hội. Phân hóa giàu nghèo có mối liên hệ rất phức tạp, nhiều khía cạnh với phân hóa xã hội và bất bình đẳng xã hội. Trong một cộng đồng chậm phát triển, sự phân 8 hóa giàu nghèo chưa sâu sắc, biểu hiện là mức chênh lệch về mức sống còn thấp giữa nhóm giàu và nhóm nghèo. Tuy nhiên, sự phân hóa giàu nghèo đó có thể gây ra sự phân hóa xã hội sâu sắc khi cộng đồng xã hội đó chuyển sang trạng thái phát triển hơn với mức sống chung đều tăng lên và sự phân hóa giàu nghèo tăng lên nhưng sự phân hóa xã hội về một số mặt nào đó có thể giảm. Sự phân hóa xã hội giảm đi khi đời sống kinh tế được cải thiện, điều đó không có nghĩa là sự tăng trưởng kinh tế tự động đem lại sự bình đẳng xã hội. Trên thực tế, nhà nước phải sử dụng “bàn tay hữu hình” là các quy định pháp luật, chính sách xã hội để thực hiện công bằng xã hội nhằm giảm sự phân hóa xã hội và phân tầng xã hội. Sự phân hóa giàu nghèo, xét cho cùng , có ảnh hưởng quyết định đến sự phân tầng xã hội, nhưng các yếu tố khác của cấu trúc xã hội như chính sách xã hội, an sinh xã hội,…cũng tác động tới phân tầng xã hội theo hướng làm giảm sự phân hóa xã hội giữa nhóm giàu và nhóm nghèo. Nghèo khổ và phân hóa giàu nghèo không đơn giản là phạm trù kinh tế học mà là phạm trù xã hội học, mặc dù kinh tế học quan tâm nghiên cứu vấn đề này nhiều đến mức các nhà xã hội học luôn phải sử dụng các thước đo kinh tế để đánh giá sự phân hóa giàu – nghèo và phân tầng xã hội. Vấn đề không phải là một cá nhân thiếu ăn, thiếu mặc, chỗ ở hay thiếu tiền, thiếu các phương tiện sinh hoạt vật chất, mà vấn đề là nhiều người, nhiều nhóm xã hội, thậm chí cả một quốc gia, nhiều quốc gia bị thiếu thốn các phương tiện sinh sống, điều kiện để phát triển so với những người khác, nhóm xã hội khác trong cùng cộng đồng. Gắn liền với nghèo đói là bệnh tật, mù chữ, mất dân chủ và nhiều thứ bệnh, nhiều thứ lạc hậu khác nữa, nhất là bất bình đẳng xã hội có thể dẫn đến mất ổn định kinh tế, chính trị, xã hội, làm con người cảm thấy đau khổ, bất hạnh và xã hội suy thoái, Tất cả các hiện tượng này với những nguyên nhân, hình thức biểu hiện, hậu quả và xu hướng biến đổi của chúng đều là những chủ đề trọng tâm của nghiên cứu xã hội học và nhiều bộ môn khoa học xã hội khác. 9 1.1.2. Phân hoá xã hội Phân hoá xã hội là quá trình hình thành các nhóm xã hội khác nhau về một hoặc một số đặc điểm, tính chất xã hội nhất định. Sự phân hóa xã hội có thể dẫn đến hình thành các nhóm xã hội khác nhau, mâu thuẫn khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Khi sự phân hóa tạo thành hai nhóm xã hội đối lập nhau thì được gọi là sự phân cực xã hội [60; tr.31]. Phân hóa xã hội là quá trình hình thành các nhóm xã hội khác nhau về một hoặc nhiều đặc điểm, tính chất cơ bản về vị thế xã hội, vai trò xã hội. Phân tầng xã hội là sự phân hóa xã hội theo chiều dọc tạo nên cấu trúc tầng xã hội, trong đó tầng đỉnh chiếm vị thế và vai trò quyết định đối với sự vận động, biến đổi của các tầng lớp khác và của cấu trúc xã hội. Phân tầng xã hội tạo ra các tầng lớp trên dưới, cao thấp khác nhau về kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục, y tế, xã hội và nhiều đặc điểm, tính chất khác. Sự phân tầng xã hội là một quá trình tự nhiên, tất yếu của xã hội loài người và cứ có phân công lao động là có phân tầng xã hội. Phân tầng xã hội có thể biểu hiện dưới hình thức cơ cấu xã hội giai cấp, trong đó một giai cấp thiểu số ở tầng lớp trên áp bức, bóc lột các giai cấp khác ở tầng lớp dưới. Sự phân tầng xã hội có thể diễn ra dưới hình thức của sự phân cấp, phân quyền hoặc đơn giản là sự phân loại, phân hóa xã hội. Trong trường hợp này phân tầng xã hội có thể dẫn đến sự bất bình đẳng xã hội, cần phải được khắc phục và xóa bỏ. Nhưng trong trường hợp khác, sự phân tầng xã hội có thể dẫn đến một cơ cấu xã hội đa dạng, gồm nhiều nhóm, nhiều tầng lớp phù hợp với điều kiện và năng lực phát triển của mỗi cá nhân, nhóm người. Như vậy khái niệm phân hoá xã hội muốn nói đến trạng thái “động” của xã hội và đồng thời cũng dựa trên bất bình đẳng xã hội, trong khi đó phân tầng xã hội nói đến cả trạng thái “tĩnh” và “động” của bất bình đẳng xã hội [54; tr.93]. 1.1.3. Phân tầng xã hội Tầng xã hội: là một là một khái niệm xã hội học được dùng trong các tài liệu nghiên cứu với nội dung và ý nghĩa khác nhau. Một số quan niệm cho rằng: tầng xã hội là một dạng củng cố xã hội về sự bất bình đẳng xã hội và tồn tại ở các xã hội 10 công nghiệp phát triển. Tầng lớp tập hợp những người có mức sống, vận may, sự ưu đãi hay sự kỳ thị tương tự nhau và có diện ngoại bề ngoài chung. Các xã hội đều được phân thành nhiều tầng lớp khác nhau, trong xã hội đó, một cấu trúc các tầng lớp chồng lấn lên nhau, các tầng lớp này không chỉ khác nhau về bản chất, mà còn khác nhau về cả thứ bậc [60; tr.11]. Tầng xã hội không chỉ khác nhau về điều kiện sống do xã hội tạo ra, mà còn khác biệt ở cách ứng xử và thái độ xuất phát từ các điều kiện sống đặc trưng cho tấng xã hội đó. Thuyết chức năng cơ cấu coi tầng xã hội xuất phát từ sự đóng góp khác nhau (đánh giá khác nhau) về mặt chức năng của các vị trí xã hội khác nhau [60; tr.11,12]. Tầng xã hội là tập hợp các cá nhân, nhóm có cùng vị thế xã hội, cùng hoàn cảnh xã hội được sắp xếp theo trật tự thang bậc nhất định trong hệ thống xã hội. Các thành viên của tầng lớp xã hội ngang nhau về tài sản (thu nhập), trình độ học vấn (hay trình độ văn hóa); địa vị, vai trò hay uy tín trong xã hội; khả năng thăng tiến cũng như có được những ân huệ hay thứ bậc như nhau trong xã hội [53; tr.65]. Phân tầng xã hội là một trong những nội dung nghiên cứu cơ bản của xã hội học. Trong lịch sử, có nhiều cách tiếp cận về cách phân tầng xã hội khác nhau, các nhà xã hội học phương Tây đã đưa ra nhiều yếu tố để xác định khái niệm phân tầng xã hội. Điển hình là các nhà xã hội học như: Các Mác, Max weber, Tony Bilton, Anthony Giddens,... Phân tầng xã hội là một chủ đề cơ bản được các nhà xã hội học đặc biệt quan tâm nghiên cứu. Trên thực tế, đã có nhiều chủ đề nghiên cứu về vấn đề này cả về mặt nhận thức lý luận cũng như những ứng dụng trong thực tiễn. Trong lịch sử phát triển của ngành xã hội học trên thế giới, các nhà xã hội học phương Tây đã đưa ra nhiều quan niệm, khái niệm về phân tầng xã hội. Có thể nêu lên một số quan niệm tiêu biểu như: nhà xã hội học người Anh Tony Bilton và các đồng sự chỉ rõ: “khái niệm phân tầng là ý thức cho rằng: xã hội được chia thành một cấu trúc theo khuôn mẫu của những nhóm xã hội không bình đẳng và sẽ bền vững từ thế hệ này sang thế hệ khác” [60; tr.13]. 11 Nhà xã hội học người Đức Max Weber là người có đóng góp quan trọng trong việc đưa ra lý thuyết phân tầng. Ông đã đưa ra nguyên tắc tiếp cận 3 chiều đối với vấn đề phân tầng và coi khái niệm phân tầng xã hội bao hàm cả việc phân chia xã hội thành các giai cấp. Ba chiều (hay khía cạnh) là: địa vị kinh tế (tài sản), địa vị chính trị (quyền lực), địa vị xã hội (uy tín), cấu thành các tầng lớp xã hội [48;tr.88]. Max Weber quan niệm rằng: “…đã bao hàm trong khái niệm phân tầng xã hội cả việc phân chia xã hội thành các giai cấp. Bên cạnh đó, Ông không chỉ nhấn mạnh vào tiêu chí kinh tế, sở hữu (như thường dùng khi xác định sự phân chia giai cấp), mà còn sử dụng đồng thời các tiêu chí về chính trị (quyền lực), và tiêu chí văn hóa (uy tín) để định nghĩa phân tầng xã hội [35; tr.14,15]. Trong khi đó C.Mác (1818 – 1883) chú ý đến phân tầng dưới khía cạnh giai cấp xã hội. Những luận điểm của Mác về giai cấp và quan hệ sản xuất trong xã hội có giai cấp là cơ sở lý luận quan trọng để nghiên cứu về phân tầng xã hội. Theo Mác, sở hữu tư liệu sản xuất hay quyền sở hữu tài sản là nhân tố giữ vai trò quyết định trong phân chia xã hội thành các giai cấp, các tầng lớp khác nhau. Trong lý luận của mình, Mác cũng chú ý tới nhân tố phân công lao động xã hội, nhưng ông khẳng định rằng: phân tầng xã hội được quyết định bởi nhân tố kinh tế - quyền sở hữu tư liệu sản xuất. Theo T. Parsons (nhà xã hội học Mỹ): phân tầng xã hội là sự sắp xếp các cá nhân vào trong một hệ thống xã hội trên cơ sở sự phân chia những ngạch bậc và những tiêu chuẩn chung về giá trị, phân tầng là kết quả của sự phân công lao động xã hội và sự phân hóa của những nhóm xã hội khác nhau. Theo I. Robertsons (nhà xã hội học Mỹ): Phân tầng xã hội là sự bất bình đẳng mang tính chất cơ cấu của tất cả các xã hội loài người, là sự khác nhau về khả năng thăng tiến xã hội bởi địa vị của họ trong bậc thang xã hội [54; tr.91]. Ở Việt Nam phân tầng xã hội đã từng tồn tại trong tiến trình lịch sử. Tuy nhiên, trong những năm đổi mới, phân tầng xã hội mới được chú trọng nghiên cứu. Phân tầng xã hội là một khái niệm xuất hiện ở nước ta chưa lâu, trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường. Từ những 12 nghiên cứu lý luận và nhận thức thực tiễn, các nhà xã hội học Việt Nam đã đưa ra một số quan niệm về phân tầng xã hội như sau: Theo tác giả Nguyễn Đình Tấn: phân tầng xã hội là kết quả của sự phân công lao động xã hội và sự bất bình đẳng mang tính cơ cấu của mọi xã hội loài người. Phân tầng xã hội có thể được hiểu như là một sự phân chia và hình thành cấu trúc gồm các tầng lớp xã hội (bao gồm cả sự phân loại, xếp hạng). “Đó là sự phân chia xã hội thành các tầng xã hội khác nhau về địa vị kinh tế (hay tài sản), địa vị chính trị (hay quyền lực), địa vị xã hội (hay uy tín) cũng như một số khác biệt về trình độ nghề nghiệp, học vấn, kiểu nhà ở, nơi cư trú, phong cách sinh hoạt, cách ứng xử, thị hiếu nghệ thuật...”[53; tr.65]. Tác giả Trịnh Duy Luân cho rằng: “Phân tầng xã hội là sự phân chia mang tính cấu trúc thành các tầng lớp, giai tầng xã hội dựa trên các đặc trưng vị thế kinh tế - xã hội của các cá nhân, trong đó sử dụng đồng thời 3 loại dấu hiệu, tiêu chí: về kinh tế (tài sản, thu nhập), về chính trị (quyền lực, tổ chức) và văn hóa (uy tín)” [35; tr.15]. Phân tầng xã hội là sự phân chia xã hội thành các tầng lớp trên cơ sở tương đồng về các địa vị kinh tế, địa vị chính trị (quyền lực) và địa vị xã hội của các cá nhân. Phân tầng xã hội gắn với bất bình đẳng xã hội. Sự bất bình đẳng đó thường biểu hiện trọng các mối quan hệ với tài sản, quyền lực và uy tín, tạo ra những cộng đồng người có địa vị kinh tế, địa vị chính trị và địa vị xã hội khác nhau. Trên cơ sở kế thừa, tiếp thu có chọn lọc những quan niệm của các nhà xã hội học trên thế giới và Việt Nam, có thể rút ra kết luận: phân tầng xã hội là sự phân chia, săp xếp mang tính cấu trúc thành các tầng lớp, giai tầng xã hội dựa trên sự khác nhau về kinh tế, chính trị, văn hóa và uy tín xã hội, cũng như sự khác nhau về học vấn, nghề nghiệp, nhà ở, nơi cư trú, mức sống và năng lực thị trường, cùng những cơ may trong cuộc sống…. Trên thực tế các nhà xã hội học có những quan niệm, các lý thuyết và phương pháp nghiên cứu về phân tầng xã hội theo những góc tiếp cận khác nhau. 13 C.Mác quan tâm chủ yếu đến phân tầng xã hội dưới khía cạnh giai cấp xã hội và cho rằng: phân tầng xã hội được quyết định bởi yếu tố kinh tế, tức quyền sở hữu tư liệu sản xuất thuộc về ai. Max Weber cho rằng, phân tầng xã hội là một hệ thống xếp hạng thứ bậc các nhóm người dựa trên của cải, tài sản, quyền lực chính trị và uy tín xã hội. “C.Mác nhấn mạnh đến quyền sở hữu tài sản và năng lực trí tuệ, Weber chú trọng đến quyền lực chính trị và văn hóa…” [60; tr.22]. Tổng hợp cách tiếp cận lý luận của C.Mác và Max Weber, các nhà xã hội học Việt Nam và phương Tây thế hệ sau này đã tạo thành cơ sở lý luận và phương pháp luận để xây dựng nên mô hình phân tầng xã hội cho các xã hội khác nhau. Điều đó có nghĩa là, mỗi xã hội khác nhau đều có thể vận dụng những hạt nhân hợp lý của các lý thuyết phân tầng xã hội để dựng nên mô hình phân tầng xã hội và sự biến đổi của nó sao cho phù hợp với điều kiện lịch sử, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Từ sự phân tích lý luận nêu trên, chúng ta có thể tóm tắt phương pháp luận nghiên cứu về phân tầng xã hội, mà dựa vào những tiêu chuẩn này có thể gợi ra những ý tưởng phân chia thành các giai tầng xã hội ở Việt Nam. Từ các quan điểm trên đây, có thể hiểu phân tầng xã hội là: sự bất bình đẳng mang tính chất cơ cấu của mọi xã hội loài người (trừ những tổ chức xã hội sơ khai như xã hội cộng sản nguyên thủy). Nó là sự phân chia, sắp xếp các thành viên trong xã hội thành các tầng xã hội khác nhau. Đó là sự khác nhau về địa vị kinh tế, địa vị chính trị, địa vị xã hội, về trình độ học vấn, nghề nghiệp, các năng lực cá nhân,... 1.1.4. Công bằng xã hội Công bằng, tiến bộ xã hội là những khái niệm có những góc độ, khía cạnh trái chiều với các khái niệm liên quan đến phân tầng xã hội. Về khái niệm công bằng xã hội, trong lịch sử có nhiều quan niệm khác nhau về công bằng xã hội được bàn đến dưới nhiều dạng khác nhau và nhiều góc độ khác nhau. Tuy vậy, khái niệm công bằng xã hội dù được quan niệm đa dạng đến đâu thì bao giờ nó cũng được gắn với khái niệm bình đẳng xã hội, và sự bình đẳng ở đây được coi là thước đo, là tiêu chí, hay còn được coi là mục tiêu của việc thực hiện công bằng xã hội. Với những 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan