Lời nói đầu
Từ sau Đại hội VI, nền kinh tế Việt Nam bước sang một giai đoạn mới,
chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước.
Các doanh nghiệp thuộc các thành phần khác nhau tham gai vào nền
kinh tế ngày càng nhiều và phức tạp. Điều đó đã tạo điều kiện cho người tiêu
dùng có nhiều cơ hội để lựa chọn các sản phẩm khác nhau theo nhu cầu riêng.
Do vậy, để có thể tiêu thụ được sản phẩm của mình các doanh nghiệp phải
cạnh tranh với nhau về nhiều phương diện. Đặc biệt trong điều kiện hiện nay,
chất lượng sản phẩm được coi là phương tiện cạnh tranh hiệu quả nhất để
giành thắng lới. Có thể nói, từ khi có chính sách mở cửa nền kinh tế thì sản
xuất kinh doanh đã thực sự trở thành "trận chiến nóng bỏng" với sự cạnh
tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp.
Thêm vào đó, đời sống xã hội ngày càng được nâng cao, nhu cầu của
con người đối với các sản phẩm, hàng hoá không chỉ dừng lại ở số lượng mà
cả chất lượng sản phẩm cũng ngày càng được người tiêu dùng quan tâm
nhiều. Để đạt được các mục tiêu của mình, các doanh nghiệp phải tiêu thụ
được sản phẩm của mình. Tuy nhiên, việc tiêu thụ sản phẩm phụ thuộc vào
nhiều yếu tố, đáng kể nhất vẫn là chất lượng sản phẩm, hàng hoá dịch vụ. Do
vậy, các doanh nghiệp cần phải tìm ra cho mình những giải pháp tối ưu để có
được sản phẩm có chất lượng cao, thoả mãn một cách tốt nhất nhu cầu của
người tiêu dùng - đó chính là con đường duy nhất để doanh nghiệp tồn tại và
phát triển lâu dài.
Do đó Trong quá trình thực tập tại công ty TNHH HUY DU em đã chọn
đề tài:Giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm của công ty TNHH HUY DU.
Đề tài được xây dựng và triển khai theo các phần sau:
Phần I : cơ sở lý luận
Phần II: Phân tích thực trạng chất lượng sản phẩm
Phần II: Biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của Ths Đặng Thị
Thúy Hồng, cùng với sự giúp đỡ nhiệt tình của các cán bộ làm việc tại công ty
TNHH HUY DU đã giúp đỡ em trong quá trình hoàn thành chuyên đề này.
1
Phần I
Cơ sở lý luận về chất lượng sản phẩm
I-Chất lượng sản phẩm và các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm.
1. Khái niệm về chất lượng sản phẩm.
Trong cuộc sống hàng ngày, thuật ngữ chất lượng thường xuyên được
nhắc tới, nhưng không phải ai cũng có thể hiểu được thấu đáo và sử dụng
đúng các thuật ngữ này.
Có rất nhiều các quan điểm khác nhau được các nhà nghiên cứu đưa ra
trên cơ sở nghiên cứu ở các góc độ khác nhau.
Theo Philip.B.Groby cho rằng: "Chất lượng là sự phù hợp với những
yêu cầu hay đặc tính nhất định".
J.Jujan lại cho rằng: : "Chất lượng là sự phù hợp với các mục đích và
việc sử dụng".
Các khái niệm trên được nhìn nhận một cách linh hoạt và gắn liền nhu
cầu, mục đích sử dụng của người tiêu dùng.
-Chất lượng được đo bằng sự thoả mãn nhu cầu. Nhu cầu bao gồm cả
những nhu cầu đã nêu ra và những nhu cầu tiềm ẩn được phát hiện trong quá
trình sử dụng.
Nhưng năm gần đây, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường,
các doanh nghiệp phải tự hạch toán kinh doanh, cũng như chịu mọi trách
nhiệm về sự phát triển của công ty mình. Cùng tồn tại trong một môi trường,
điều kiện, các doanh nghiệp vừa bình đẳng vừa cạnh tranh với nhau để vươn
lên tồn tại, phát triển, suy cho cùng vấn đề tiêu thụ sản phẩm là yếu tố quyết
định đến sự tồn tại cảu doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. Chính vì vậy,
mà nảy sinh nhiều quan điểm khác nhau về chất lượng sản phẩm.
Chất lượng sản phẩm theo hướng công nghệ là tập hợp các đặc tính kỹ
thuật, công nghệ và vận hành sản phẩm, có thể đo được hoặc so sánh được, nó
phản ánh giá trị sử dụng và chắc năng của sản phẩm đáp ứng được nhu cầu
của người tiêu dùng khi sử dụng sản phẩm. Trong những điều kiện xác định
về kinh tế xã hội, quan điểm này đã phản ánh đúng bản chất của sản phẩm về
mặt kỹ thuật. Nhưng ở đây, nó chỉ là 1 chỉ tiêu kỹ thuật, không gắn liền với
2
những biến đổi của nhu cầu thị trường, cũng như điều kiện sản xuất và hiệu
quả kinh doanh của mỗi doanh nghiệp, mỗi nước mỗi khu vực cụ thể. Do vậy,
điều đó sẽ dẫn đến nguy cơ chất lượng sản phẩm không cải tiến kịp thời, khả
năng tiêu thụ kém và không phù hợp với nhu cầu người tiêu dùng. Tuy nhiên
quan điểm này để dùng đánh giá được chất lượng sản phẩm, đồng thời có thể
cải tiến, hoàn thiện sản phẩm (về mặt kỹ thuật) thông qua việc xác đinh rõ
những đặc tính hoặc chỉ tiêu của sản phẩm.
Chất lượng sản phẩm tiếp cận theo hướng khách hàng là các đặc tính
của sản phẩm phù hợp với yêu cầu của khách hàng và có khả năng thoả mãn
nhu cầu của họ. Theo cách tiếp cận này thì chỉ có những đặc tính của sản
phẩm đáp ứng nhu cầu của khách hàng mới được coi là chất lượng sản phẩm.
Mức độ thoả mãn nhu cầu là cơ sở để đánh giá chất lượng sản phẩm . ở đây,
chất lượng sản phẩm không cần thiết phải tốt nhất, cao nhất mà chỉ cần nó
phù hợp và đáp ứng được các nhu cầu của người tiêu dùng. Khách hàng chính
là người xác định chất lượng của sản phẩm chứ không phải nhà sản xuất hay
nhà quản lý. Do đó, sản phẩm hàng hoá cần phải được cải tiến, đổi mới một
cách thường xuyên và kịp thời về chất lượng để thoả mãn 1 cách tốt nhất nhu
cầu của người tiêu dùng. Đây cũng chính là khó khăn lớn mà nhà sản xuấtkinh doanh phải tự tìm ra câu trả lời và hướng đi lên của doanh nghiệp.
Ngày nay, chất lượng sản phẩm còn gắn liền với các yếu tố giá cả và
dịch vụ sau khi bán hàng. Vấn đề giao hàng đúng lúc, đúng thời hạn, thanh
toán thuận tiện ngày càng trở nên quan trọng hơn. Và khi các phương pháp
sản xuất mới: Just in time; Non stock production ngày càng phát triển đến 1
hình thái mới là chất lượng tổng hợp phản ánh 1 cách trung thực trình độ quản
lý của mỗi doanh nghiệp thông qua 4 yếu tố chính được thể hiện trên mô hình
sau.
3
Từ các phân tích trên ta có thể rút ra một số đặc điểm sau đây của chất
lượng.
Chất lượng được đo bởi thoả mãn nhu cầu. Nếu một sản phẩm vì lý do
nào đó mà không được nhu cầu chấp nhận thì phải được coi là sản phẩm chất
lượng kém, dù trình độ công nghệ để chế tạo ra sản phẩm đó có thể rất hiện
đại. Đây là một kết luận then chốt và là cơ sở để các nhà sản xuất định ra
chính sách, chiến lược kinh doanh của mình.
Do chất lượng được đo bởi sự thoả mãn mà nhu cầu, không gian, điều
kiện sử dụng.
Khi đánh giá chất lượng của một đối tượng, ta phải xét và chỉ xét đến
mọi đặc tính của đối tượng có liên quan đến sự thoả mãn những nhu cầu cụ
thể.
Nhu cầu có thể được công bố rõ ràng dưới dạng các quy định, tiêu
chuẩn nhưng cũng có những nhu cầu không thể miêu tả rõ ràng, người sử
dụng có thể đảm nhận chúng, hoặc có khi chỉ phát hiện được chúng trong quá
trình sử dụng.
Chất lượng không phải chỉ là thuộc tính của sản phẩm, hàng hoá như ta
vẫn hiểu hàng ngày. Chất lượng còn áp dụng cho mọi thực thể, đó có thể là
sản phẩm, hay một hoạt động, một quá trình, một doanh nghiệp hay một con
người.
Mặt khác, khi nói đến chất lượng chúng ta không thể bỏ qua các yếu tố
giá cả và dịch vụ sau khi bán. Đó là những yếu tố mà khách hàng nào cũng
quan tâma sau khi thấy sản phẩm của họ định mua thoả mãn nhu cầu của họ.
Ngoài ra vấn đề giao hàng đúng lúc, đúng thời hạn là yếu tố vô cùng quan
trọng trong sản xuất hiện đại, nhất là các phương pháp dự trữ bằng không
đang phát triển rất nhanh trong thời gian gần đây.
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm.
a) Nhóm nhân tố khách quan
-Thị trường
Nói đến thị trường là đề cập tới các yếu tố: Cung, cầu, giá cả, quy mô
thị trường, cạnh tranh... Chất lượng sản phẩm luôn gắn liền với sự vận động
và biến đổi của thị trường, đặc biệt là nhu cầu thị trường, tác động trực tiếp
đến chất lượng sản phẩm. Trên cơ sở nghiên cứu thị trường doanh nghiệp xác
định được khách hàng của mình là đối tượng nào? Quy mô ra sao? và tiêu thụ
ở mức như thế nào?
4
Từ đó doanh nghiệp có thể xây dựng chiến lược sản phẩm, kế hoạch sản
xuất để có thể đưa ra những sản phẩm với mức chất lượng phù hợp, giá cả
hợp lý với nhu cầu và khả năng tiêu dùng ở những thời điểm nhất định. Bởi vì
sản phẩm có chất lượng cao không phải lúc nào cũng tiêu thụ nhanh và ngược
lại chất lượng có thể không cao nhưng người tiêu dùng lịa mua chúng nhiều.
Điều này có thể do giá cả, thị hiếu của người tiêu dùng ở các thị trường khác
nhau là khác nhau, hoặc sự tiêu dùng mang tính thời điểm. Điều này được
phản ánh rõ nét nhất với các sản phẩm mốt hoặc những sản phẩm sản xuât
theo mùa vụ.
Thông thường, khi mức sống xã hội còn thấp, sản phẩm khan hiếm thì
yêu cầu của người tiêu dùng chưa cao, người ta chưa quan tâm nhiều tới mặt
xã hội của sản phẩm. Nhưng khi đời sống xã hội tăng lên thì đòi hỏi về chất
lượng cũng tăng theo. Đôi khi họ chấp nhận mua sản phẩm với giá cao tới rất
cao để có thể thoả mãn nhu cầu cá nhân của mình.
Chính vì vậy, các doanh nghiệp không chỉ phải sản xuất ra những sản
phẩm có chất lượng cao, đáp ứng được nhu cầu thị trường mà còn phải quan
tâm tới khía cạnh tẩm mỹ, an toàn và kinh tế của người tiêu dùng khi tiêu thụ
sản phẩm.
-Trình độ phát triển của khoa học kỹ thuật.
Ngày nay, không có sự tiến bộ kinh tế xã hội nào không gắn liền với
tiến bộ khoa học công nghệ trên thế giới. Trong vài thập kỷ trở lại đây, trình
độ phát triển của khoa học kỹ thuật đã thúc đẩy mạnh mẽ sự tăng trưởng và
phát triển kinh tế. Tiến bộ khoa học kỹ thuật đã tạo ra những bước đột phá
quan trọng trong hầu hết các lĩnh vực mới: Tự động hoá, điện tử, tin học,
công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo, robot... đã tại ra những thay đổi to lớn
trong sản xuất cho phép rút ngắn chu trình sản xuất, tiết kiệm nguyên vật liệu
nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm.
Bên cạnh đó, sự phát triển của khoa học kỹ thuật cũng đặt ra những
thách thức không nhỏ cho các doanh nghiệp trong việc quản lý, khai thác và
vận hành công nghệ có hiệu quả cao. Bởi vì, cùng với sự phát triển của khoa
học kỹ thuật thì thời gian để chếtạo công nghệ mới thay thế công nghệ cũ dần
dần được rút ngắn lại. Sự ra đời của một công nghệ mới thường đồng nghĩa
với chất lượng sản phẩm cao hơn, hoàn thiện hơn. Bên cạnh đó, đào tạo nhân
lực để thích ứng với sự thay đổi liên tục của khoa học công nghệ không thể
ngày một ngày hai mà phải có thời gian. Đây cũng là những khó khăn của các
5
doanh nghiệp Việt Nam trong khi nguồn kinh phí cho đào tạo, bồi dưỡng
không nhiều.
-Cơ chế chính sách quản lý của Nhà nước
Cơ chế chính sách của Nhà nước có ý nghĩa rất quan trọng trong quá
trình thúc đẩy cải tiến, nâng cao chất lượng sản phẩm của mỗi doanh nghiệp.
Việc ban hành các hệ thống chỉ tiêu chất lượng sản phẩm, các quy định về sản
phẩm đạt chất lượng, xử lý nghiêm việc sản xuất hàng giả, hành kém chất
lượng, không bảo đảm an toàn vệ sinh, thuế quan, các chính sách ưu đãi cho
đầu tư đổi mới công nghệ là những nhân tố hết sức quan trọng, tạo động lực
phát huy tính tự chủ, sáng tạo trong cải tiến và nâng cao chất lượng sản phẩm.
Rõ ràng, các doanh nghiệp không thể tồn tại một cách biệt lập mà luôn
có mối quan hệ chặt chẽ và chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của tình hình chính trị,
kinh tế, xã hội, đặc biệt phải kể đến là cơ chế quản lý kinh tế của Nhà nước.
Cơ chế quản lý vừa là môi trường, vừa là điều kiện cần thiết tác động đến
phương hướng, tốc độ cải tiến và nâng cao chất lượng sản phẩm.
-Điều kiện tự nhiên
Điều kiện tự nhiên có tác động mạnh mẽ đến việc bảo quản và nâng cao
chất lượng sản phẩm, đặc biệt là đối với những nước có khí hậu nhiệt dới,
nóng ẩm mưa nhiều như Việt Nam. Nó tác động tới các đặc tính cơ lý hoá của
sản phẩm, làm giảm đi chất lượng của sản phẩm, của hàng hoá trong quá trình
sản xuất cũng như trong trao đổi, lưu thông và tiêu dùng.
Khí hậu, thời tiết, các hiện tượng tự nhiên như: gió, mưa, bão, sét... ảnh
hưởng trực tiếp tới chất lượng các, nguyên vật liệu dự trữ tại các kho tàng,
bến bãi. Đồng thời, nó cũng ảnh hưởng tới hiệu quả vận hành các thiết bị,
máy móc, đặc biệt đối với các thiết bị, máy móc hoạt động ngoài trời. Khí
hậu, nóng ẩm cũng tạo điều kiện cho côn trùng, vi sinh vật hoạt động làm cho
sản phẩm bị phân huỷ, nấm mốc, thối rữa... ảnh hưởng tới hình thức và chất
lượng của sản phẩm. Điều này dễ dàng gặp ở các sản phẩm có nguồn gốc từ
nông nghiệp,ngư nghiệp.
-Văn minh và thói quen tiêu dùng
Trình độ văn hoá, thói quen và sở thích tiêu dùng của mỗi người là khác
nhau. Điều này phụ thuộc vào rất nhiều các nhân tố tác động như: Thu nhập,
trình độ học vấn, môi trường sống, phong tục, tập quán tiêu dùng... của mỗi
quốc gia, mỗi khu vực. Do đó, đòi hỏi các doanh nghiệp cần phải nghiên cứu,
6
phân đoạn thị trường theo các tiêu thức lựa chọn khác nhau trên cơ sở các
nhân tố ảnh hưỏng để xác định các đối tượng mà sản phẩm mình phục vụ với
chất lượng đáp ứng phù hợp với từng nhóm khách hàng riêng biệt.
Tuy nhiên, khi kinh tế càng phát triển, đời sống ngày càng được nâng
cao thì văn minh và thói quen tiêu dùng cùng đòi hỏi ở mức cao hơn. Vì thế,
doanh nghiệp cần phải nắm bắt được xu hướng đó, hoàn thiện và nâng cảo sản
phẩm của mình để đáp ứng nhu cầu luôn thay đổi của người tiêu dùng.
b) Nhóm các nhân tố chủ quan.
Là nhóm các nhân tố thuộc môi trường bên trong của doanh nghiệp, mà
doanh nghiệp có thể( hoặc coi như có thể) kiểm soát được. Nó gắn liến với
các điều kiện của doanh nghiệp như: lao động, thiết bị, công nghệ, nguyên vật
liệu, trình độ quản lý... Các nhân tố này ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng sản
phẩm của doanh nghiệp.
-Trình độ lao động của doanh nghiệp
Trong tất cả các hoạt động sản xuất, xã hội, nhân tố con người luôn luôn
là nhân tố căn bản, quyết định tới chất lượng của các hoạt động đó. Nó được
phản ánh thông qua trình độ chuyên môn, tay nghề, kỹ năng, kinh nghiệm, ý
thức trách nhiệm của từng lao động trong doanh nghiệp. Trình độ của người
lao động còn được đánh giá thông qua sự hiểu biết, nắm vững về phương
pháp, công nghệ, quy trình sản xuất, các tính năng, tác dụng của máy móc,
thiếtbị, nguyên vật liệu, sự chấp hành đúng quy trình phương pháp công nghệ
và các điều kiện đảm bảo an toàn trong doanh nghiệp.
Để nâng cao chất lượng quản lý trong doanh nghiệp cũng như nâng cao
trình độ năng lực của lao động thì việc đầu tư phát triển và bồi dưỡng cần
phải được coi trọng.
Mỗi doanh nghiệp phải có biện pháp tổ chức lao động khoa học, đảm
bảo và trang bị đầy đủ các điều kiện, môi trường làm việc an toàn, vệ sinh cho
người lao động. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp phải có các chính sách động
viên, khuyến khích nhằm phát huy khả năng sáng tạo trong cải tiến, nâng cao
chất lượng sản phẩm thông qua chế độ thưởng phạt nghiêm minh. Mức
thưởng phạt phải phù hợp, tương ứng với phần giá trị mà người lao động làm
lợi hay gây thiệt hại cho doanh nghiệp.
-Trình độ máy móc, công nghệ mà doanh nghiệp sử dụng
7
Đối với mỗi doanh nghiệp, công nghệ luôn là một trong những yếu tố
cơ bản, quyết định tới chất lượng sản phẩm.
Trình độ hiện đại, tính đồng bộ và khả năng vận hành công nghệ... ảnh
hưởng rất lớn tới chất lượng sản phẩm. Trong điều kiện hiện nay, thật khó tin
rằng với trình độ công nghệ, máy móc ở mức trung bình mà có thể cho ra đời
các sản phẩm có chất lượng cao. Ngược lại, cũng không thể nhìn nhận rằng cứ
đổi mới công nghệ là có thể có được những sản phẩm chất lượng cao, mà chất
lượng sản phẩm phụ thuộc vào nhiều yếu tố: Nguyên vật liệu, trình độ quản
lý, trình độ khai thác và vận hành máy móc, thiết bị...
Đối với các doanh nghiệp tự động hoá cao, dây chuyền và tính chất sản
xuất hàng loạt thì chất lượng sản phẩm chịu ảnh hưởng rất nhiều. Do đó, trình
độ của các doanh nghiệp về công nghệ, thiết bị máy móc phụ thuộc vào rất
nhiều và không thể tách rời trình độ công nghệ thế giới. Bởi nếu không, các
nước, các doanh nghiệp sẽ không thể theo kịp được sự phát triển trên thế giới
trong điều kiện đa dạng hoá, đa phương hoá. Chính vì lý do đó mà doanh
nghiệp muốn sản phẩm của mình có chất lượng đủ khả năng cạnh tranh trên
thị trường thì doanh nghiệp đó cần có chính sách công nghệ phù hợp và khai
thác sử dụng có hiệu quả các công nghệ và máy móc, thiết bị hiện đại, đã
đang và sẽ đầu tư.
-Trình độ tổ chức và quản lý sản xuất của doanh nghiệp.
Các yếu tố sản xuất như nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, lao động...
dù có ở trình độ cao song không được tổ chức một cách hợp lý, phối hợp đồng
bộ, nhịp nhàng giữa các khâu sản xuất thì cũng khó có thể tạo ra những sản
phẩm có chất lượng. Không những thế, nhiều khí nó còn gây thất thoát, lãng
phí nhiên liệu, nguyên vật liệu... của doanh nghiệp. Do đó, công tác tổ chức
sản xuất và lựa chọn phương pháp tổ chức sản xuất trong doanh nghiệp đóng
một vai tròn hết sức quan trọng.
Tuy nhiên, để mô hình và phương pháp tổ chức sản xuất được hoạt động
có hiệu quả thì cần phải có năng lực quản lý. Trình độ quản lý nói chung và
quản lý chất lượng nói riêng một trong những nhân tố cơ bản góp phần cải
tiến, hoàn thiện chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp. Điều này gắn liều với
trình độ nhận thức, hiểu biết của cán bộ quản lý về chất lượng, chính sách
chất lượng, chương trình và kế hoạch chất lượng nhằm xác định được mục
tiêu một cách chính xác rõ ràng, làm cơ sở cho việc hoàn thiện, cải tiến.
8
Trên thực tế, sự ra đời của hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn
quốc tế ISO 9000 đã khẳng định vai trò và tầm quan trọng của quản lý trong
qúa trình thiết kế, tổ chức sản xuất, cung ứng và các dịch vụ sau khi bán hàng.
-Chất lượng nguyên vật liệu
Nguyên vật liệu là yếu tố chính tham gia trực tiếp vào quá trình sản
xuất, cấu thành thực thể sản phẩm. Chất lượng sản phẩm cao hay thấp phụ
thuộc trực tiếp vào chất lượng nguyên vật liệu đầu vào. Quá trình cung ứng
nguyên vật liệu đầu vào. Quá trình cung ứng nguyên vật liệu có chất lượng
tốt, kịp thời, đầy đủ, đồng bộ sẽ bảo đảm cho quá trình sản xuất diễn ra liên
tục , nhịp nhàng; sản phẩm ra đời với chất lượng cao. Ngược lại, không thể có
được những sản phẩm có chất lượng cao từ nguyên liệu sản xuất không bảo
đảm, đồng bộ hơn nữa nó còn gây ra sự lãng phí, thất thoát nguyên vật liệu.
Vấn đề đặt ra ở đây là làm thế nào mà doanh nghiệp có thể bảo đảm
được việc cung ứng nguyên vật liệu cho quá trình sản xuất với chất lượng cao,
kịp thời, đầy đủ và đồng bộ ? Điều này chỉ có thể thực hiện được, nếu như
doanh nghiệp xác lập thiết kế mô hình dự trữ hợp lý; hệ thống cung ứng
nguyên vật liệu thích hợp trên cơ sở nghiên cứu đáng giá nhu cầu về thị
trường (cả đầu vào và đầu ra), khả năng tổ chức cung ứng, khả năng quản lý...
-Quan điểm lãnh đạo của doanh nghiệp.
Theo quan điểm quản trị chất lượng sản phẩm hiện đại, mặc dù công
nhân là người trực tiếp sản xuất ra sản phẩm nhưng người quản lý lại là người
phải chịu trách nhiệm đối với sản phẩm sản xuất ra. Trong thực tế, tỷ lệ tỷ lệ
liên quan đến những vấn đề trong quản lý chiếm tới 80%.
Do vậy, họ phải nhận thức được rằng đó không chỉ do lỗi ở trình độ tay
nghè người công nhân mà còn do chính bản thân mình. Trên thực tế, liệu đã
có nhà quản lý nào đặt cho chính họ những câu hỏi như: Họ bố trí lao động đã
hợp lý chưa? Việc bố trí có phát huy được khả năng, trình độ tay nghề của
người công nhân hay không? Sản phẩm sản xuất với chất lượng kém có phải
do con người, máy móc thiết bị, nguyên vật liệu hay do nguyên nhân nào
khác...
Thêm vào đó, chính sách chất lượng và kế hoạch chất lượng được lập ra
dựa trên những nghiên cứu, thiết kế của các lãnh đạo doanh nghiệp. Quan
điểm của họ có ảnh hưởng rất lớn tới việc thực hiện chất lượng trong toàn
công ty. Điều này chứng tỏ rằng, chỉ có nhận thức được trách nhiệm của lãnh
9
đạo doanh nghiệp thì mới có cở sở thực hiện việc cải tiến và nâng cao chất
lượng sản phẩm của doanh nghiệp.
II- Quản lý chất lượng sản phẩm.
1. Một số quan điểm về quản lý chất lượng sản phẩm và các giai đoạn
phát triển nhận thức về quản lý chất lượng sản phẩm.
a) Một số quan điểm về quản trị chất lượng sản phẩm
Chúng ta biết rằng, để đạt được "chất lượng" như mong muốn, nó đòi
hỏi phải có sự kết hợp hàng loạt các yếu tố có liên quan chặt chẽ với nhau.
Một trong những yếu tố hết sức quan trọng là "quản lý chất lượng". Phải có
hiểu biết đúng đắn về chất lượng và quản lý chất lượng thì mới có thể giải
quyết tốt vấn đề chất lượng. Quản lý chất lượng đã được áp dụng trong nhiều
ngành, nhiều loại hình doanh nghiệp với quy mô lớn nhỏ khác nhau. Nhờ có
nó mà các doanh nghiệp có thể xác định đúng đắn những nhiệm vụ quan trọng
và phương pháp nâng cao khả năng cạnh tranh.
Tuy nhiên, không phải ai cũng có thể hiểu và vận dụng đúng nghĩa của
nó. Từ các khía cạnh, góc độ khác nhau mỗi nhà nghiên cứu có những cách
tiếp cận riêng.
Theo nhà quản lý người Anh A.G. Robetson: "Quản lý chất lượng sản
phẩm là ứng dụng các biện pháp , thủ tục, kỹ thuật, đảm bảo cho sản phẩm
phù hợp với thiết kế, yêu cầu trong hợp đồng kinh tế bằng con đưòng hiệu quả
nhất, kinh tế nhất".
Theo Ishikawa - nhà nghiên cứu chất lượng người Nhật cho rằng:
"Quản lý chất lượng sản phẩm có nghĩa là nghiên cứu - thiết kế- triển khai sản
xuất và bảo dưỡng, một sản phẩm có chất lượng phải kinh tế nhất và bao giờ
cũng thoả mãn được nhu cầu của người tiêu dùng".
Quản lý chất lượng sản phẩm theo định nghĩa của tổ chức tiêu chuẩn
quốc tế ISO là một hoạt động có chức năng quản lý nhằm đề ra các chính
sách, mục tiêu, trách nhiệm và thực hiện chúng bằng các biện pháp như:
Hoạch định chất lượng, kiểm soát chất lượng, đảm bảo chất lượng và cải tiến
chất lượng.
Nhìn chung các khái niệm trên đây đều có những điểm giống nhau:
Quản lý chất lượng là hệ thống các biện pháp nhằm đảm bảo chất lượng thoả
mãn nhu cầu thị trường với chi phí thấp nhất, có hiệu quả kinh tế cao nhất
10
được tiến hành ở tất cả các công đoạn hình thành chất lượng sản phẩm từ
nghiên cứu-thiết kế-triển khai sản xuất-bảo quản và vận chuyển... đến tiêu
dùng. Quản lý chất lượng cần được bảo đảm trong tất cả các khâu, đó là trách
nhiệm của toàn bộ nhân sự trong công ty từ cán bộ lãnh đạo cho tới các nhân
viên, công nhân trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh.
b) Các giai đoạn phát triển nhận thức về quản lý chất lượng sản
phẩm
Trong lịch sử phát triển của sản xuất, chất lượng sản phẩm, dịch vụ đã
không ngừng tăng lên do tính chất cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày
càng trở nên khốc liệt. Cùng với sự phát triển đó thì khoa học quản lý được
phát triển và hoàn thiện ngày càng đầy đủ hơn bản chất tổng hợp, phức tạp
của vấn đề chất lượng, phản ánh sự thích ứng với môi trường và điều kiện
kinh doanh mới. Quá trình nhận thức và ứng dụng về quản lý chất lượng sản
phẩm đã vận động qua các giai đoạn khác nhau:
-Kiểm tra chất lượng.
Các sản phẩm sau quá trình sản xuất mới tiến hành kiểm tra các khuyết
tật. Khi phát hiện ra các khuyết tật mới đề ra các biện pháp xử lý, thông
thường phương pháp này không phát hiện ra được nguyên nhân đích thực.
Tuy nhiên, để khắc phục những sai sót này thì các doanh nghiệp đã
tăng cường các cán bộ KCS. Đi kèm với việc này là việc tăng chi tiêu rất
nhiều mà công tác kiểm tra không đảm bảo, trong nhiều trường hợp độ tin cậy
rất thấp.
-Kiểm soát chất lượng
Là việc đề ra các biện pháp đề phòng ngừa các sai sót, hay khuyết tật
có thể xảy ra trong quá trình sản xuất thông qua
+Kiểm soát con người.
+Kiểm soát phương pháp và quy trình sản xuất.
+Kiểm soát người cung ứng ( nguyên, nhiên vật liệu...)
+Kiểm soát trang thiết bị dùng trong thử nghiệm và sản xuất.
+Kiểm soát thông tin.
-Đảm bảo chất lượng.
Sau khi kiểm soát được chất lượng sản phẩm, các doanh nghiệp cần
phải duy trì mức chất lượng đã đạt được thông qua việc đảm bảo chất lượng
11
sản phẩm. Đây là quá trình cung cấp các hồ sơ chứng minh việc kiểm soát
chất lượng và các bằng chứng việc kiểm soát chất lượng sản phẩm cho khách
hàng.
Đảm bảo chất lượng là mọi hoạt động có kế hoạch và hệ thống, được
kiểm định nếu cần để đem lại lòng tin thoả đnág sản phẩm thoả mãn các yêu
cầu đã định đối với chất lượng.
Quan điểm đảm bảo chất lượng lần đầu tiên được áp dụng đối với các
ngành công nghiệp đòi hỏi độ tin cậy cao sau đó phát triển rộng sang các sản
phẩm bình thường khác độ tin cậy không cao.
-Quản lý chất lượng
Là việc xây dựng hệ thống đảm bảo chất lượng, đồng thời tính toán
hiệu quả kinh tế để có thể có được giá thành rẻ nhất. Bằng việc đề ra các
chính sách thích hợp, quản lý chất lượng cho phép tiết kiệm tối đa và giảm
thiểu các chi phí không cần thiết.
-Quản lý chất lượng toàn diện
Đây là giai đoạn phát triển cao nhất của quản lý chất lượng sản phẩm
bao gồm có 4 quá trình trên
Quản lý chất lượng toàn diện là một phương phá quản lý trong một tổ
chức định hướng vào chất lượng, dựa trên sự tham gia của mọi thành viên và
nhằm đến sự thành công dài hạn thông qua sự thoả mãn khách hàng và lợi ích
của mọi thành viên trong công ty và xã hội.
Chất lượng (sản phẩm) toàn diện là sự thoả mãn sự mong đợi của người
tiêu dùng có liên quan đến doanh nghiệp cả bên trong và bên ngoài. Quản lý
chất lượng toàn diện được thực hiện trên quy mô tổng thể với sự tham gia của
mọi thành viên trong doanh nghiệp, nhằm đạt được: "chất lượng toàn diện"
trên cơ sở đảm bảo đầy đủ các điều kiện cần thiết để có:
+Chất lượng thông tin
+Chất lượng đào tạo
+ Chất lượng trong hành vi thái độ cư xử trong nội bộ doanh nghiệp
cũng như đối với khách hàng bên ngoài
2. Nội dung công tác quản lý chất lượng trong doanh nghiệp.
a) Quản lý chất lượng trong khâu thiết kế.
Công tác thiết kế có tầm quan trọng rất lớn thể hiện ý đồ có tính chất
quyết định trong chiến lược sản phẩm, chính sách chất lượng của một doanh
12
nghiệp. Các sản phẩm được thiết kế một cách đúng đắn, phù hợp với nhu cầu
của người tiêu dùng sẽ góp phần rất lớn trong thành quản hoạt động, khả năng
cạnh tranh và chiếm lĩnh thị trường. Công tác thiết kế được hiểu là sự kết hợp
giữa nghiên cứu của bộ phận Marketing và triển khai thực hiện của phòng
quản lý sản xuất. Nó được xem như cầu nối giữa chức năng marketing và
chức năng tác nghiệp trong một doanh nghiệp. Do đó, công tác thiết kế phụ
thuộc rất nhiều vào kết quả, hiệu quả, chất lượng của các hoạt động nghiên
cứu thị trường. Hoạt động này có ảnh hưởng rất nhiều tới khả năng tiêu thụ,
cạnh tranh của sản phẩm trong tương lai, nó đưa ra những đề xuất cho thiết kế
sản phẩm mới phù hợp hơn với nhu cầu thị trường.
Các công việc cần thực hiện trong giai đoạn này:
-Tập hợp và chuyển hoá những nhu cầu của khách hàng thành đặc điểm
của sản phẩm thông qua nghiên cưú đề xuất của tất cả các bộ phận trong
doanh nghiệp: marketing, tài chính, tác nghiệp, cung ứng nhằm thiết kế sản
phẩm. Thiết kế là quá trình bảo đảm thực hiện những đặc điểm sản phẩm đã
xác định để thoả mãn nhu cầu khách hàng. Kết quả của các quá trình này là
các bản sơ đồ thiết kế, ích lợi mà người tiêu dùng nhận được từ đặc điểm của
sản phẩm.
-Đưa ra các phương án khác nhau cho quá trình thiết kế để đáp ứng
được nhu cầu thị trường. Các đặc điểm sản phẩm có thể lấy từ sản phẩm cũ
hay cải tiến cho phù hợp với những đòi hỏi mới, hoặc đưa ra những đặc điểm
hoàn toàn mới.
-Thử nghiệm, kiểm tra các phương án nhằm lựa chọn phương án tối ưu.
-Quyết định những đặc điểm đã lựa chọn. Đáp ứng nhu cầu thích hợp
với khả năng, bảo đảm tính cạnh tranh, tối ưu hoá chi phí.
-Phân tích kinh tế: đánh giá mối quan hệ giữa những lợi ích mà sản
phẩm đem lại với chi phí để sản xuất sản phẩm.
Những chỉ tiêu cần kiểm tra trong giai đoạn này bao gồm:
-Trình độ chất lượng sản phẩm thiết kế
-Chỉ tiêu tổng hợp về tài liệu thiết kế, công nghệ và chất lượng chế thử.
-Hệ số khuyết tật của sản phẩm chế thử và các biện pháp điều chỉnh.
-Hệ số chất lượng của chuẩn bị thiết bị, công nghệ sản xuất hàng loạt
sau đó.
13
b) Quản lý chất lượng trong khâu cung ứng nguyên vật liệu đầu vào
Mục tiêu của giai đoạn này là nhằm đáp ứng đúng chủng loại số lượng,
thời gian, địa điểm và các đặc tính kinh tế- kỹ thuật cần thiết của nguyên vật
liệu đảm bảo cho quá trình sản xuất tiến hành thường xuyên, liên tục, tiết
kiệm chi phí.
-Lựa chọn người cung ứng có khả năng đáp ứng chất lượng vật tư,
nguyên liệu cho sản xuất.
-Tạo lập hệ thống thông tin phản hồi chặt chẽ và thường xuyên, cập
nhật.
-Thoả thuận việc bảo đảm chất lượng thường xuyên nguyên vật liệu
cung ứng.
-Thoả thuận phương pháp thẩm tra, xác minh.
-Thoả thuận phương pháp giao nhận.
-Xác định những điều khoản giải quyết khi có tranh cháp xảy ra.
c) Quản lý chất lượng khâu sản xuất.
Mục đích của khâu quản lý quá trình sản xuất không phải là loại bỏ
những sản phẩm xấu, kém chất lượng sau quá trình sản xuất, mà phải ngăn
chặn những nguyên nhân làm xuất hiện sản phẩm xấu trong quá trình sản
xuất. Mặt khác, việc ngăn chặn những sản phẩm xấu không chỉ dựa vào bộ
phận KCS hoặc xem phương pháp này là công cụ chủ yếu để loại bỏ phế
phẩm, thứ phẩm...
Bởi vậy, phải quản lý ngay từ đầu khâu đầu tiên của quá trình hình
thành chất lượng sản phẩm. Trong sản xuất, phải phát hiện ngay những sai sót
trong mọi công đoạn càng sớm càng tốt, đặc biệt là những khâu đầu - xử lý
nguyên vật liệu, tạo hình sản phẩm, gia công chế biến... Ngoài ra cần có nhận
thức đúng đắn việc nâng cao chất lượng sản phẩm, cũng như quản lý quá trình
sản xuất, không chỉ là trách nhiệm của nhà quản lý, mà là trách nhiệm của
mọi thành viên trong doanh nghiệp. Tất cả thành viên từ lãnh đạo đến công
nhân, cán bộ phòng ban đều phải tham gia vào quá trình quản lý chất lượng
sản phẩm, trong đó khâu quản lý quá trình sản xuất là giai đoạn quan trọng
quyết định sự hình thành các đặc tính, chỉ tiêu chất lượng của sản phẩm. Mục
đích của quản lý quá trình sản xuất.
-Đảm bảo chất lượng sản phẩm được hình thành ở mức cao nhất (theo
yêu cầu thiết kế), thoả mãn yêu cầu thị trường ở mức độ thích hợp nhất.
14
-Đảm bảo chi phí sản xuất ở mức thấp nhất.
-Đảm bảo hoàn thành kế hoạch sản xuất (số lượng, chất lượng) đúng
thời gian quy định.
-Đảm bảo duy trì chất lượng sản phẩm trong quá trình lưu thông, giảm
tối đa sự biến đổi về chất lượng.
Để thực hiện các mục tiêu trên đây, các công việc cần thực hiện trong
quá trình quản lý.
-Cung ứng vật tư nguyên vật liệu đúng số lượng, chất lượng, chủng
loại, thời gian, địa điểm...
-Tổ chức lao động hợp lý, để các thành viên là người sáng tạo ra chất
lượng, tự mình kiểm tra và khắc phục kịp thời mọi sai sót.
-Thiết lập và thực hiện các tiêu chuẩn, quy trình, thủ tục, thao tác thực
hiện các công việc.
-Kiểm tra chất lượng các chi tiết, bán thành phẩm... sau từng công
đoạn, để khắc phục sai sót và khắc phục, loại bỏ các nguyên nhân.
-Kiểm tra chất lượng sản phẩm hoàn chỉnh.
-Kiểm tra, hiệu chỉnh thường kỳ các dụng cụ kiểm tra, đo lường chất
lượng.
-Kiểm tra thường xuyên kỹ thuật công nghệ để có kế hoạch bảo dưỡng
kịp thời.
Những chỉ tiêu chất lượng cần xem xét đánh giá trong giai đoạn này.
-Thông số kỹ thuật của các chi tiết bộ phận, bán thành phẩm và thành
phẩm.
-Các chỉ tiêu về tình hình thực hiện kỷ luật công nghệ, kỷ luật lao động
trong các bộ phận cả hành chính và sản xuất.
-Các chỉ tiêu về chất lượng quản trị của cán bộ quản lý.
-Các chỉ tiêu về tổn thất, thiệt hại do sai lầm, vi phạm kỷ luật lao động,
quy trình công nghệ.
d) Quản lý chất lượng trong và sau khi bán.
Mục tiêu của quản lý chất lượng trong giai đoạn này, nhằm đảm bảo
thoả mãn khách hàng nhanh nhất, thuận tiện nhất với chi phí thấp nhất, nhờ
đó tăng được uy tính và danh tiếng của doanh nghiệp. Không chỉ có thế, các
doanh nghiệp cần phải nhận thức được rằng muốn tiêu thụ được sản phẩm và
15
lôi cuốn ngày càng nhiều khách hàng thì cần phải phát triển những hoạt động
dịch vụ sau khi bán hàng. Đồng thời đây còn là lĩnh vực hấp dẫn nhất hiện
nay, đem lại phần lớn nguồn thu của không ít doanh nghiệp. Vì vậy, những
năm gần đây công tác bảo đảm chất lượng trong và sau khi bán hàng được các
doanh nghiệp rất chú ý và mở rộng phạm vi.
Nhiệm vụ chủ yếu của quản trị chất lượng trong giai đoạn này là:
-Tạo được danh mục các sản phẩm hợp lý.
-Tổ chức mạng lưới phân phối sản phẩm, dịch vụ thuận lợi, nhanh
chóng kịp thời.
-Thuyết minh, hướng dẫn đầy đủ các thuộc tính sử dụng, điều kiện sử
dụng, quy trình, quy phạm sử dụng sản phẩm
-Dự kiến lượng, chủng loại phụ tùng thay thế cần phải đáp ứng nhu cầu
khi sử dụng sản phẩm.
-Nghiên cứu đề xuất những phương án bao gói, vận chuyển, bảo quản,
bốc dỡ hợp lý, nhằm tăng năng suất,hạ giá thành.
-Tổ chức bảo hành, dịch vụ kỹ thuật sau bán hàng.
III-Tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng sản phẩm
1. Cơ hội và thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam
Là nước đi sau trong phát triển kinh tế,Việt Nam có nhiều thuận lợi
trong việc thừa kế những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại cùng nhưngx
kinh nghiệm quản lý kinh tế tiên tiến của các nước phát triển.Với chính sách
mở cửa, Việt Nam đã ngày càng thu hút được nhiều các công ty, các ttạp đoàn
kinh doanh đầu tư tham gia vào nền kinh tế. Diều đó tạo điều kiện thuận lợi
cho việc tiếp cận và phát huy các phương pháp quản lý chất lượng mới, hiện
đại trong các doanh nghiệp ở Việt Nam.
Với đường lối phát triển kinh tế đúng đắn của Đảng và Nhà nước đã tạo
ra động lực cho các doanh nghiệp Việt Nam tham gia ngày càng nhiều vào
phát triển nền kinh tế. Đặc biệt trong những năm gần đây,Nhà nước đã quan
tâm nhiều hơn tới vấn đề chất lượng sản phẩm .Đồng thời các doanh nghiệpđã
dần dần nhận thức được vai trò của việc nâng cao chất lượng sản phẩm và đổi
mới tư duy trong phương pháp quản lý chất lượng. Hàng hoá của Việt Nam
đang dần khẳng định thương hiệu của mình trên thị trường trong nước và
quốc tế.
16
Cùng với những thuận lợi trên đây, các doanh nghiệp Việt Nam còn
gặp không ít những khó khăn thách thức trong quá trình hội nhập và khẳng
điịnh chất lượng sản phẩm Việt Nam.
Cho tới nay, nước ta vẫn chưa có một chính sách quốc gia về chất
lượng sản phẩm. Sự thiếu hụt các chính sách, các chiến lược dài hạn về chất
lượng sản phẩm dẫn đến sự thiếu định hướng trong phát triển, nâng cao chất
lượng sản phẩm phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế nước ta. Thêm vào
đó, việc gia nhập các tổ chức kinh tế thế giới AFTA, OPEC... và gần đây
nhất là hiệp định thương mại Việt Mỹ sẽ tạo ra một sức ép rất lớn đối với các
doanh nghiệp trong cạnh tranh trên thị trường. Điều đó buộc các doanh
nghiệp Việt Nam muốn có chỗ đứng trên thị trường cần phải tăng cường đầu
tư đổi mới thiết bị công nghệ, lựa chon mô hình quản lý chất lượng phù hợp...
nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm và khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Sự ra đời của hệ thống quản lý chất lượng mới như ISO 9000, TQM... vô hình
chung đã trở thành hàng rào ngăn cản đối với các sản phẩm của Việt Nam vì
khi muốn thâm nhập vào thị trường, đặc biệt là thị trường các nước phát triển,
đòi hỏi các sản phẩm phải có chứng nhận đã áp dụng một hệ thống quản lý
chất lượng phù hợp,. Như vậy, trong xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá việc
nâng cao chất lượng sản phẩm, khẳng định thương hiệu của mình là một việc
làm tất yếu của các doanh nghiệp Việt Nam đó là phương cách duy nhất đảm
bao cho sự tồn tại và phát triển của họ trong quá trình hội nhập vào nền kinh
tế trong nước và quốc tế.
2. Vai trò của việc nâng cao chất lượng sản phẩm
Đối với các doanh nghiệp Việt Nam, nâng cao chất lượng sản phẩm là
biện pháp hữu ích nhất để có thể cạnh tranh thu hút khách hàng. Công việc
này không những có vai trò quan trọng đối với các doanh nghiệp mà còn quan
trọng đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Vai trò đó được thể hiện như sau.
- Nâng cao chất lượng sản phẩm, góp phần nâng cao uy tín của quốc
gia, khẳng định thương hiệu Việt Nam trên trường quốc tế. Không những lợi
ích kinh tế - văn hoá mà nó còn thúc đẩy nhanh tiến trình hội nhập, rút ngắn
khoảng cách chêch lệch về phát triển kinh tế.
- Đối với các doanh nghiệp, nó cho phép nâng cao uy tín, góp phần mở
rộng thị trường trong nước, chiếm lĩnh thị trường thế giới, tăng thu nhập và
tạo tích luỹ đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh, nâng cao đời sống vật chất
tinh thần cho người lao động.
17
- Đáp ứng các yêu cầu ngày càng cao cho người tiêu dùng, tạo niềm tin
đối với khách hàng, thoả mãn ngày càng tốt hơn yêu cầu của họ, tiến tới thay
thế hàng ngoại bằng hàng nội.
Trong môi trường kinh doanh ngày nay, nếu muốn giữ vững tỷ lệ
chiếm lĩnh thị trường - chưa nói gì đến việc tăng tỷ lệ đó - cần thiết phải xây
dựng được hệ thống bảo đảm chất lượng trong doanh nghiệp. Ngày nay,
người tiêu dùng coi trọng giá trị của chất lượng hơn là lòng trung thành đối
với nhà sản xuất trong nước, và giá cả chưa hẳn trong mọi trường hợp đã là
nhân tố quyết định trong sự lựa chọn của người tiêu dùng. Chất lượng đã thay
thế giá cả, và điều đó đúng với cả công nghiệp, dịch vụ và nhiều thị trường
khác. Vì vậy, quản trị chất lượng đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc
đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm trong doanh nghiệp. Nó quyết định
sự sống còn của một doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Quản trị chất
lượng được thể hiện trên toàn hệ thống bao gồm tất cả các khâu, các quá trình
từ nghiên cứu thiết kế đến chế tạo, phân phối và tiêu dùng sản phẩm. Quản trị
chất lượng là một quá trình liên tục và mang tính hệ thóng thể hiện sự gắn bó
chặt chẽ giữa doanh nghiệp với môi trường bên ngoài. Nó có ý nghĩa chiến
lược và mang tính tác nghiệp. Nếu quản trị chất lượng tốt, nó sẽ mang lại hiệu
quả cao trong sản xuất kinh doanh giảm đến mức thấp nhất các chi phí phát
sinh trong quá trình sản xuất như chi phí sai hỏng bên trong, chi phí sai hỏng
bên ngào, chi phí thẩm định và chi phí phòng ngừa... từ đó giảm được giá
thành của một sản phẩm, thoả mãn tốt nhu cầu khách hàng. Phân tích chi phí
chất lượng là một công cụ quản lý quan trọng cung cấp cho chúng ta một
phương pháp đánh giá hiệu suất tổng hợp của quản lý chất lượng, một phương
pháp để xác định các khu vực có trục trặc và các chỉ tiêu hành động.
Quản trị chất lượng tốt sẽ bảo đảm tốt cho chu trình sản xuất được tiến
hành liên tục và có hiệu quả cao - sản phẩm được tuân thủ theo chất lượng đã
được thiết kế. Rõ ràng muốn sản xuất được một sản phẩm đáp ứng được yêu
cầu khách hàng, thì cần phải xác định, theo dõi và kiểm soát các đầu vào của
quy trình: Vật liệu, thủ tục, phương pháp thông tin, con người, kỹ năng, kiến
thức, đào tạo, máy móc thiết bị... Như vậy, mỗi một nhiệm vụ trong toàn bộ
máy tổ chức sản xuất được coi trọng và kiểm soát chặt chẽ.
Quản trị chất lượng tốt, chất lượng sản phẩm được đảm bảo và nâng
cao dẫn đến tính năng tác dụng, tiết kiệm nguồn tài nguyên tăng giá trị sản
phẩm trên một đơn vị đầu vào. Nhờ đó tăng tích luỹ cho tái sản xuất mở rộng,
tăng năng suất lao động và tăng thu nhập cho người lao động.
18
Khi chất lượng được bảo đảm và nâng cao thì sản phẩm được tiêu thụ
nhiều hơn, tạo điều kiện cho doanh ngiệp chiếm lĩnh được thị trường, tăng
doanh thu và lợi nhuận, thu hồi vốn nhanh nhờ đó doanh nghiệp ngày càng
đáp ứng vững, phát triển và mở rộng sản xuất, mang lại lợi ích cho mọi đối
tượng trong nền kinh tế xã hội.
19
Phần II
Phân tích thực trạng chất lượng sản phẩm của công ty tnhh huy du
I. Đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của công ty ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm.
1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty
Tên gọi chính: Công ty TNHH Huy Du
Trụ sở chính: Số 9 ,đường Đinh Tiên Hoàng, thành phố
Phủ lý,tỉnh Hà Nam
* Chức năng và nhiệm vụ của công ty theo điều lệ của công ty, nhà
máy có nhiệm vụ và chức năng sau đây:
- Tổ chức sẩn xuất kinh doanh các mặt hàng gỗ , đồ nội thất và các sản
phẩm khác theo đăng ký kinh doanh.
- Bảo toàn và phát triển vốn.
- Thực hiện các nghĩa vụ với nhà nước đã quy định trong các văn bản
pháp quy.
- Thực hiện cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của công
nhân viên, liên tục nâng cao trình độ văn hoá, chuyên môn của các cán bộ và
nhân viên.
- Đảm bảo an toàn lao động, an ninh trật tự, bảo vệ môi trường.
Công ty hoạt động theo nguyên tắc hạch toán độc lập, có tư cách pháp
nhân, có trụ sở giao dịch và con dấu giao dịch riêng.
*Quyền hạn
Công ty có những quyền hạn sau:
- Công ty có quyền bảo vệ hợp pháp uy tín của mình về tất cả mọi
phương diện: tư cách pháp nhân, mẫu mã, đề tài, uy tín sản phẩm…
- Công ty được chủ động giao dịch, đàm phán, kí kết và thực hiện các
hợp đồng mua bán ngoại thương, các hợp đồng kinh tế và các văn bản hợp
tác, liên doanh, liên kết với các đối tác trong và ngoài nước.
- Được vay vốn ở trong và ngoài nước, được liên doanh liên kết với các
tổ chức, đơn vị kinh tế trong và ngoài nước.
20
- Xem thêm -