Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Công tác xã hội nhóm nhằm giảm thiểu bất bình đẳng giới về phân công lao động tr...

Tài liệu Công tác xã hội nhóm nhằm giảm thiểu bất bình đẳng giới về phân công lao động trong gia đình viên chức tại xã cộng hòa, huyện quốc oai, thành phố hà nội

.PDF
91
39
83

Mô tả:

1. Lý do chọn đề tài Trong các quan hệ giữa con người với con người thì mối quan hệ giữa giới nam và giới nữ trong gia đình có ý nghĩa quan trọng và có tính chất đặc biệt. Đó là mối quan hệ tình cảm có tính riêng tư, cá nhân diễn ra trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày giữa vợ và chồng, đồng thời lại có tính xã hội sâu sắc và rộng lớn. Khi nói đến mối quan hệ giữa hai giới là nói đến trách nhiệm, quyền hạn và nghĩa vụ của nam giới và nữ giới. Ngoài ra, mối quan hệ giữa hai giới còn thể hiện vị trí, vai trò và địa vị xã hội của mình một cách công bằng và ngang nhau về cơ hội. Yếu tố giới luôn được đề cập đến ở tất cả các lĩnh vực. Đây là loại hình phân công lao động xã hội xuất hiện rất sớm trong lịch sử loài người, chúng phản ánh bản chất mối quan hệ xã hội giữa phụ nữ và nam giới cũng như trình độ phát triển kinh tế xã hội của các xã hội khác nhau. Trong những thập kỷ qua, vấn đề này đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học và các nhà làm chính sách. Trên thế giới đã có rất nhiều những công trình nghiên cứu về bất bình đẳng giới trong phân công lao động, nhưng chủ yếu là tập trung nghiên cứu về thực trạng bất bình đẳng giới trong gia đình mà chưa đề cập đến góc nhìn từ Công tác xã hội. Theo Công ước loại bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CADEW) [47]chỉ ra gánh nặng của phụ nữ phải chịu trung bình từ các nước đang phát triển là 53% và các nước công nghiệp đang phát triển là 51%. Song, chỉ có tổng số thời gian lao động của nam giới và nữ giới là thuộc về kinh tế, nửa kia là lao động trong gia đình hoặc các hoạt động trong cộng đồng mà trong đó thường là hoạt động nội trợ và chăm sóc con cái phụ nữ phải đảm nhiệm. Tại Việt Nam, mục tiêu xây dựng mối quan hệ bình đẳng giữa nam giới và nữ giới trong phạm vi gia đình và xã hội đã được xác định ngay từ khi Đảng cộng sản và Nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ra đời. Trong Chánh cương vắn tắt của Đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo đã tuyên bố “nam nữ bình quyền”. Từ đó đến nay, vấn đề bình đẳng nam nữ, bình đẳng giới tiếp tục được Đảng và Nhà nước tích cực chỉ đạo và triển khai thực hiện. Sự ra đời và triển khai trong thực tế của
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN VƢƠNG MINH HUYỀN CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM NHẰM GIẢM THIỂU BẤT BÌNH ĐẲNG GIỚI VỀ PHÂN CÔNG LAO ĐỘNG TRONG GIA ĐÌNH VIÊN CHỨC TẠI XÃ CỘNG HÒA, HUYỆN QUỐC OAI, THÀNH PHỐ HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SỸ CÔNG TÁC XÃ HỘI Hà Nội - 2020 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN VƢƠNG MINH HUYỀN CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM NHẰM GIẢM THIỂU BẤT BÌNH ĐẲNG GIỚI VỀ PHÂN CÔNG LAO ĐỘNG TRONG GIA ĐÌNH VIÊN CHỨC TẠI XÃ CỘNG HÒA, HUYỆN QUỐC OAI, THÀNH PHỐ HÀ NỘI Chuyên ngành : Công tác xã hội Mã số : 60900101 LUẬN VĂN THẠC SỸ CÔNG TÁC XÃ HỘI Ngươig hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN THỊ THÁI LAN Hà Nội – 2020 i LỜI CẢM ƠN Để có thể hoàn thành đề tài luận văn này, tôi xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô trong khoa Xã hội học, trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn, đặc biệt là PGS. TS. Nguyễn Thị Thái Lan - người đã tận tình giúp đỡ, chỉ bảo, động viên tôi trong suốt quá trình tôi thực hiện đề tài. Tôi xin gửi lời cám ơn tới chính quyền địa phương tại xã Cộng Hòa, huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội, các cán bộ tại địa phương và các khách thể nghiên cứu của tôi đã luôn tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài của mình. Xin chân thành cám ơn! Hà Nội, tháng 11 năm 2020 ii MỤC TỪ VIẾT TẮT STT Nội dung Viết tắt 1 Công tác xã hội CTXH 2 Phân công lao động PCLĐ 3 Bình đẳng giới BĐG iii DANH MỤC BẢNG SỐ LIỆU Biểu đồ 2.1: Biểu đồ thể hiện độ tuổi của khách thể nghiên cứu ..................................................... 34 Bảng 2.1: Quan điểm của hai giới về việc phân công lao động trong gia đình ................................ 36 Bảng 2.2: Người chịu trách nhiệm chính trong các công việc gia đình ........................................... 38 Biểu đồ 2.2. Thời gian tham gia các công việc trong gia đình của vợ và chồng(Đơn vị: ĐTB) ...... 40 Biểu đồ 2.3. Thời gian nghỉ ngơi của chồng và vợ (tính từ 6h-18 hằng ngày (Đơn vị: ĐTB) ......... 40 Bảng 2.3: Các hoạt động của vợ và chồng sau khi kết thúc công việc ngoài xã hội ........................ 41 Bảng 2.4: Mức độ tham gia công việc nội trợ của vợ và chồng....................................................... 42 Bảng 2.5: Mức độ tham gia công việc chăm sóc và giáo dục con cái của chồng và vợ.................. 44 Bảng 2.6: Mức độ tham gia các công việc cộng đồng của chồng và vợ .......................................... 45 Bảng 2.7: Quyền quyết định các công việc trong gia đình .............................................................. 46 Bảng 2.8: Mức độ ảnh hưởng của các yếu tố trong việc phân công lao động trong gia đình ......... 48 Bảng 3.1: Kế hoạch hoạt động nhóm ............................................................................................... 56 Bảng 3.2: Quan điểm của hai giới về việc phân công lao động trong gia đình trước và sau khi áp dụng tiến trình CTXH nhóm ............................................................................................................ 59 Bảng 3.3: Quan điểm về việc ai là người chịu trách nhiệm chính trong các công việc gia đình ..... 61 iv DANH MỤC BIỂU ĐỒ Biểu đồ 2.1: Biểu đồ thể hiện độ tuổi của khách thể nghiên cứu..............................34 Biểu đồ 2.2. Thời gian tham gia các công việc trong gia đình của vợ và chồng ......40 Biểu đồ 2.3. Thời gian nghỉ ngơi của chồng và vợ (tính từ 6h-18 hằng ngày ..........40 v MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................ i MỤC TỪ VIẾT TẮT ............................................................................................... ii DANH MỤC BẢNG SỐ LIỆU ............................................................................... iii DANH MỤC BIỂU ĐỒ ........................................................................................... iv MỤC LỤC ..................................................................................................................v PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1 PHẦN NỘI DUNG ..................................................................................................14 CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN ............................................................................14 1.1.Các khái niệm công cụ ........................................................................................14 1.1.1. Phân công lao động theo giới ..........................................................................14 1.1.2. Gia đình viên chức ..........................................................................................17 1.1.3Phân công lao động trong gia đình viên chức ...................................................18 1.2.Công tác xã hội nhóm .........................................................................................19 1.2.1.Công tác xã hội.................................................................................................19 1.2.2.Công tác xã hội nhóm ......................................................................................20 1.2.3.Công tác xã hội nhóm nhằm giảm thiểu bất bình đẳng giới trong phân công lao động trong gia đình viên chức. ............................................................................22 1.2.4.Một số lý thuyết vận dụng trong công tác xã hội nhóm...................................22 1.3.Biểu hiện của sự phân công lao động theo giới trong gia đình viên chức...............25 1.3.1.Nhận thức về phân công lao động theo giới trong gia đình viên chức: ................25 1.3.2.Phân công lao động trong gia đình viên chức theo các nhóm công việc: ........25 1.4.Các yếu tố ảnh hưởng đến việc phân công lao động trong gia đình viên chức .......28 Tiểu kết chƣơng 1:...................................................................................................31 vi CHƢƠNG 2:THỰC TRẠNG CỦA VIỆC PHÂN CÔNG LAO ĐỘNG TRONG GIA ĐÌNH VIÊN CHỨC TẠI XÃ CỘNG HÒA, HUYỆN QUỐC OAI, THÀNH PHỐ HÀ NỘI ...........................................................................................32 2.1. Mô tả địa bàn nghiên cứu. ..................................................................................32 2.1.1 Điều kiện tự nhiên ............................................................................................32 2.1.2 Điều kiện kinh tế - xã hội .................................................................................32 2.2. Thực trạng trong phân công lao động trong gia đình viên chức tại xã Cộng Hòa, huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội. .........................................................................33 2.2.1. Mô tả khách thể nghiên cứu và thang đo ........................................................33 2.2.2. Phân công lao động theo giới trong gia đình viên chức tại xã Cộng Hòa, huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội ..........................................................................35 2.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc phân công lao động trong gia đình .............47 Tiểu kết chƣơng 2:...................................................................................................50 CHƢƠNG 3:ỨNG DỤNG PHƢƠNG PHÁP CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM ...51 3.1. Căn cứ lựa chọn phương pháp Công tác xã hội nhóm .......................................51 3.2. Tiến trình công tác xã hội nhóm ........................................................................52 3.3. Kết quả đạt được ................................................................................................58 3.4. Đánh giá chung quá trình áp dụng tiến trình CTXH nhóm................................62 PHẦN KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ.............................................................65 1. Kết luận .................................................................................................................65 2.Khuyến nghị ...........................................................................................................65 2.1.Đối với gia đình, các cặp vợ chồng .....................................................................66 2.2.Đối với chính quyền địa phương xã Cộng Hòa ..................................................66 2.3.Đối với nhân viên CTXH ....................................................................................66 2.4.Đối với Vụ Bình đẳng giới – Bộ Lao động thương binh và xã hội ....................68 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................69 PHỤ LỤC 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong các quan hệ giữa con người với con người thì mối quan hệ giữa giới nam và giới nữ trong gia đình có ý nghĩa quan trọng và có tính chất đặc biệt. Đó là mối quan hệ tình cảm có tính riêng tư, cá nhân diễn ra trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày giữa vợ và chồng, đồng thời lại có tính xã hội sâu sắc và rộng lớn. Khi nói đến mối quan hệ giữa hai giới là nói đến trách nhiệm, quyền hạn và nghĩa vụ của nam giới và nữ giới. Ngoài ra, mối quan hệ giữa hai giới còn thể hiện vị trí, vai trò và địa vị xã hội của mình một cách công bằng và ngang nhau về cơ hội. Yếu tố giới luôn được đề cập đến ở tất cả các lĩnh vực. Đây là loại hình phân công lao động xã hội xuất hiện rất sớm trong lịch sử loài người, chúng phản ánh bản chất mối quan hệ xã hội giữa phụ nữ và nam giới cũng như trình độ phát triển kinh tế xã hội của các xã hội khác nhau. Trong những thập kỷ qua, vấn đề này đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học và các nhà làm chính sách. Trên thế giới đã có rất nhiều những công trình nghiên cứu về bất bình đẳng giới trong phân công lao động, nhưng chủ yếu là tập trung nghiên cứu về thực trạng bất bình đẳng giới trong gia đình mà chưa đề cập đến góc nhìn từ Công tác xã hội. Theo Công ước loại bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CADEW) [47]chỉ ra gánh nặng của phụ nữ phải chịu trung bình từ các nước đang phát triển là 53% và các nước công nghiệp đang phát triển là 51%. Song, chỉ có tổng số thời gian lao động của nam giới và nữ giới là thuộc về kinh tế, nửa kia là lao động trong gia đình hoặc các hoạt động trong cộng đồng mà trong đó thường là hoạt động nội trợ và chăm sóc con cái phụ nữ phải đảm nhiệm. Tại Việt Nam, mục tiêu xây dựng mối quan hệ bình đẳng giữa nam giới và nữ giới trong phạm vi gia đình và xã hội đã được xác định ngay từ khi Đảng cộng sản và Nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ra đời. Trong Chánh cương vắn tắt của Đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo đã tuyên bố “nam nữ bình quyền”. Từ đó đến nay, vấn đề bình đẳng nam nữ, bình đẳng giới tiếp tục được Đảng và Nhà nước tích cực chỉ đạo và triển khai thực hiện. Sự ra đời và triển khai trong thực tế của 2 nhiều chính sách, pháp luật, tiêu biểu là Luật Bình đẳng giới (2006), Luật Hôn nhân và gia đình, Luật phòng chống bạo lực gia đình là những minh chứng thể hiện sự phát triển ngày càng cao về nhận thức cũng như sự cam kết của Đảng và Nhà nước trong thực hiện bình đẳng giới. Việc nâng cao chất lượng cuộc sống trong gia đình, sự công bằng khi phân công lao động trong gia đình giữa hai giới cũng là một trong những mục tiêu lớn trong chiến lược thực hiện bình đẳng giới ở nước ta. Mục tiêu này không chỉ là trách nhiệm của đoàn thể, cơ quan hay của một giới, một gia đình mà là của toàn xã hội. Công tác xã hội là một ngành khoa học ứng dụng, một hoạt động chuyên nghiệp trong đó nhân viên công tác xã hội cần sử dụng những kiến thức, kĩ năng của mình để hỗ trợ cá nhân, nhóm, cộng đồng yếu thế trong xã hội nhằm phát huy những tiềm năng của họ, giúp họ tự vươn lên trong cuộc sống. Nhóm phụ nữ đang là nạn nhân của bất bình đẳng giới và đó chính là đối tượng của công tác xã hội. Tại xã Cộng Hòa, huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội, công tác thực hiện bình đẳng giới, đặc biệt là việc bình đẳng giới trong lĩnh vực phân công lao động trong gia đình ngày càng được nâng cao bởi trình độ học vấn cũng như chất lượng cuộc sống ổn định hơn. Song, bên cạnh đó vẫn tồn tại khá nhiều những bất cập. Nguyên nhân chủ yếu là do nhận thức của người dân vẫn ảnh hưởng bởi lối tư tưởng và quan niệm cũ [47]. Tính đến thời điểm hiện tại, xã Cộng Hòa chưa có một công trình nghiên cứu nào về vấn đề bình đẳng giới, đặc biệt là theo hướng tiếp cận công tác xã hội. Chủ yếu nâng cao nhận thức của người dân về bình đẳng giới thông qua truyền thông và tập huấn. Trên thực tế, các nghiên cứu về bình đẳng giới chủ yếu dựa trên nghiên cứu xã hội học và đưa ra kết quả của thực trạng bất bình đẳng giới trong phân công lao động trong gia đình. Trên phương diện công tác xã hội, có rất ít các công trình nghiên cứu về bình đẳng giới hoặc có nhưng khách thể nghiên cứu của họ chủ yếu là bình đẳng giới trong doanh nghiệp, chính trị…Hơn nữa, cũng chưa có công trình nghiên cứu nào ứng dụng phương pháp công tác xã hội nhằm giảm thiểu bất bình đẳng giới trong phân công lao động trong gia đình, đặc biệt là gia đình viên chức. 3 Đối với các nghiên cứu về bình đẳng giới trong phân công lao động trong gia đình thì chưa thật sự rõ nét. Với mong muốn tìm hiểu cơ sở lý luận và thực tiễn về giảm thiểu bất bình đẳng giới của việc phân công lao động theo giới trong gia đình viên chức, từ đó áp dụng tiến trình can thiệp công tác xã hội nhóm nhằm thúc đẩy bình đẳng giới trong phân công lao động trong gia đình viên chức tại xã Cộng Hòa, huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội, tôi chọn đề tài “Công tác xã hội nhóm nhằm giảm thiểu bất bình đẳng giới về phân công lao động trong gia đình viên chức tại xã Cộng Hòa, huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội”. 2. Tổng quan nghiên cứu 2.1.Trên thế giới Cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về sự PCLĐ theo giới trong gia đình, các hướng nghiên cứu chính chủ yếu đề cập đến thực trạng và vai trò của người phụ nữ trong gia đình. Trên thực tế còn thiếu vắng các công trình nghiên cứu về công tác xã hội trong lĩnh vực bình đẳng giới trong phân công lao động. Trong thời gian vừa qua, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về bất bình đẳng giới trong phân công lao động trong gia đình và các lĩnh vực có liên quan. Tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của Nhà nước” của Engels (1840) [30]. Đây là một trong những công trình nghiên cứu về sự phân công lao động theo giới sớm nhất. Đứng trên quan điểm duy vật lịch sử, Engels đã mô tả sự phân công lao động theo giới gắn liền với sự tồn tại của các hình thức sở hữu tư liệu sản xuất khác nhau, các kiểu hôn nhân và gia đình khác nhau. Theo đó, địa vị của phụ nữ và nam giới đã thay đổi khi có sự thay đổi về mô hình phân công lao động mà nguồn gốc sâu xa của nó bắt nguồn từ sự thay đổi về quan hệ đối với tư liệu sản xuất, về kỹ thuật cũng như hình thái hôn nhân và gia đình. [5] Nghiên cứu của E.Boserup với đề tài “Vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh tế” (1970) [28] đã làm thay đổi nhận thức về phân công lao động theo giới của con người. “Lần đầu tiên Bo…đã xác định 1 cách có hệ thống và ở phạm vi thế giới, sự phân công lao động theo giới trong các nền kinh tế nông nghiệp”. Những khám phá của bà đã góp phần làm sáng tỏ hơn nữa bức tranh về phân công lao động theo giới thông quan 4 việc phân tích và khẳng định vai trò của lao động nữ trong các nước thuộc thế giới thứ ba, đặc biệt trong sản xuất lương thực, thực phẩm cho toàn thế giới.[8] Đề tài “Công việc của phụ nữ - Sự phát triển và phân công lao động theo giới”, E.Leacock, Helen I.Safa và những người khác (1986) [30] một lần nữa đã làm sáng tỏ những kết luận của Boserup về phân công lao động theo giới và vai trò của phụ nữ trong thế giới thứ ba. Không những thế, nghiên cứu của họ đã mở rộng ra để xem xét sự phân công lao động theo giới cả trong xã hội nông nghiệp và xã hội công nghiệp. Các tác giả đã chứng mình rằng trong xã hội nông nghiệp hay xã hội chủ nghĩa thì phụ nữ cũng bị đặt những gánh nặng của công việc tái sản xuất ngoài hoạt động sản xuất để kiếm sống, điều đó khiến cho họ thường xuyên phải lao động quá sức. Theo nhóm tác giả nghiên cứu gồm John Knodel, Trung tâm Nghiên cứu Dân số (Đại học Michigan, USA) và Bussarawan Puk Teerawichitchainan, Trường Khoa học xã hội (Đại học Quản lý Singapore), Vũ Mạnh Lợi và Vũ Tuấn Huy (Viện Xã hội học), [34] đã báo báo kết quả nghiên cứu về phân công giới trong lao động gia đình ở Việt Nam phụ nữ vẫn là người giữ vai trò chính trong việc nội trợ và chăm sóc con cái mặc dù sự tham gia của nam giới đang ở mức tăng lên theo 3 thời kì là: thời chiến (83,5 - 85%), thời thống nhất đất nước (83,7 - 85%) và thời kì đổi mới (81 - 84%). Trong nghiên cứu “Division of Labor - Contemporary Divisions Of Labor” (Phân công lao động đương đại) ở Mỹ, Robinson đã chỉ ra rằng “Người chồng chỉ đóng góp khoảng hai giờ mỗi tuần với nhiệm vụ kết hợp nấu ăn, rửa bát, dọn dẹp nhà cửa và giặt giũ, so với mức trung bình gần hai mươi lăm giờ mỗi tuần cho các bà vợ”. Đối với Coltrane thì cho rằng “Sau đó nghiên cứu công việc gia đình đã tìm thấy rằng phụ nữ, đặc biệt là sử dụng phụ nữ đang làm việc nhà ít hơn trước và những người đàn ông là làm thêm một chút. Tuy nhiên, người phụ nữ đã lập gia đình trung bình ở Hoa Kỳ đã làm khoảng ba lần so với nấu ăn, dọn dẹp, giặt ủi, và làm việc nhà thường xuyên khác vào những năm 1990 khi người đàn ông đã kết hôn trung bình. Công việc gia đình tiếp tục được phân chia theo giới tính, với phụ nữ 5 thực hiện phần lớn các nhiệm vụ lặp đi lặp lại công việc gia đình trong nhà và những người đàn ông thực hiện nhiệm vụ ngoài trời thỉnh thoảng”[38]. Trong nghiên cứu “Household Division of Labor: Is There Any Escape From Traditional Gender Roles?” (Phân công lao động trong gia đình: Giải pháp nào cho vai trò giới truyền thống?) [39] của Catherine Sofer & Sayyid Salman Rizavi, họ đã nghiên cứu và chỉ ra rằng việc chia sẻ công việc trong gia đình là đáng kể ổn định. Tuy nhiên, bên cạnh đó việc bình đẳng vẫn chưa ở mức cân bằng. Các nước như Na Uy, Phần Lan hay Bỉ là các nước được coi là chia sẻ bình đẳng nhất. Nhưng nước Pháp – một trong những nước phát triển nhất thế giới mà có tỷ lệ bất bình đẳng lại cao nhất (Đàn ông làm công việc gia đình chiếm 34%) Will mott và Young (nước Anh) họ cho rằng “gia đình đối xứng” có sự bình đẳng hơn giữa vợ và chồng. “Gia đình đối xứng” không còn tồn tại lối phân công lao động cũ mà hoàn toàn ngược lại. Phụ nữ làm việc của nam giới là kiếm tiền (trụ cột kinh tế) còn nam giới đảm nhận công việc gia đình như nội trợ, chăm sóc con cái…[7] Trong tác phẩm “Giới tính thứ hai” của Simone De Beauvoir [36] (Theo bản dịch của Nguyễn Trọng Định và Đoàn Ngọc Thanh) tác giả giải thích nguyên nhân dẫn đến “ địa vị hạng 2” của phụ nữ, bà khẳng định rằng phụ nữ phải đảm nhận phần lớn các công việc nội trợ và bà cũng lên tiếng, đưa ra quan điểm bênh vực phụ nữ nhằm xóa bỏ bất bình đẳng nam – nữ trên thế giới. Ở thập kỉ 90, Caralin O. N. Moser cho ra tác phẩm “Kế hoạch hóa về giới và phát triển – lý thuyết, thực hành và huấn luyện” [27] (Người dịch; Nguyễn Thị Hiên). Ngoài những khái niệm then chốt liên quan đến PCLĐ trong gia đình, cuốn sách này còn chỉ ra thực trạng PCLĐ theo giới ở nhiều xã hội khác nhau và mục đích đòi hỏi sự công bằng, bình đẳng cho phụ nữ. Bên cạnh đó, trong tác phẩm: “Sự huyền bí của nữ tính” [26] chỉ ra sự khốn khổ và thất vọng của người phụ nữ trong phát triển kinh tế. Hơn thế nữa, tác phẩm “Gender and Domestic life” [36] của Tony Chapma cho thấy cuộc sống của gia đình truyền thống ảnh hưởng tới vị trí, vai trò của người phụ 6 nữ. Nghiên cứu còn chỉ ra rằng ở thời kì đó, phụ nữ luôn cảm thấy ngột ngạt bởi những khắt khe của gia đình truyền thống. 2.2. Ở Việt Nam Ở Việt Nam đã có rất nhiều những công trình nghiên cứu về các lĩnh vực như thực trạng bất bình đẳng giới trong gia đình; các nghiên cứu về phân công lao động trong gia đình và những công trình nghiên cứu CTXH liên quan đến bình đẳng giới. Đối với các công trình nghiên cứu về thực trạng bất bình đẳng giới tiêu biểu như: Trong cuốn “Nghiên cứu phụ nữ giới và gia đình”, tác giả Nguyễn Linh Khiếu cho rằng “Quan hệ giữa vợ và chồng trong giai đoạn hiện nay đã thay đổi khá căn bản so với trước đây. Trước đây chỉ có người chồng, những người đàn ông làm ra kinh tế, nuôi sống gia đình thì ngày nay, người vợ, người phụ nữ đã trở thành một trong những người mang lại nguồn thu nhập chính cho kinh tế gia đình. Chính vì thế trong gia đình hiện nay nhiều vấn đề quan trọng, nhất là trong lĩnh vực kinh tế đều có một sự bàn bạc, thống nhất, cùng quyết định của vợ và chồng.”[4] Điều tra của Nguyễn Linh Khiếu cho thấy các công việc trong gia đình chủ yếu vẫn do người phụ nữ làm. Tuy nhiên, việc chia sẻ và tham gia làm các công việc gia đình của người đàn ông cũng chiếm tỷ lệ khá cao. Theo nghiên cứu Bình đẳng giới trong gia đình người Sản Chỉ, khảo sát tại xã Bộc Bố, huyện Pắc Nặm, tỉnh Bắc Kạn cho thấy kết quả khảo sát các hoạt động như các công việc nội trợ và chăm sóc con cái thì phụ nữ vẫn chiếm tỷ lệ cao (73,7%) và nam giới chiếm tỷ lệ thấp (26,3 %)[19]. Tuy nhiên, cũng theo nghiên cứu, công việc mua bán hay sửa chữa các thiết bị trong gia đình thì người đàn ông chiếm tỷ lệ cao hơn nữa giới (82,6 %). Hay trong nghiên cứu “Bình đẳng giới trong sự phân công lao động ở các gia đình đô thị hiện nay” (khảo sát trên địa bàn Hà Nội) [44] cho thấy 73,3% cho rằng nữ giới biết cách lo toan chăm sóc gia đình hơn nam giới. Điều này chứng tỏ sự bất bình đẳng trong việc phân công lao động trong gia đình còn tồn tại. Khi nói đến các vấn đề giới ở Việt Nam, tác giả Nguyễn Hữu Minh và Trần Thị Vân Anh cho rằng “Phụ nữ phải nhận mức lương thấp hơn nam giới cho cùng 7 một công việc và thường không có quyền bình đẳng đối với tài sản gia đình mặc dù đã có những tiến bộ trong các điều luật liên quan”[10] Trong cuốn “Xã hôi học” của Nguyễn Hữu Minh khi đề cập đến vấn đề phân công lao động trong gia đình thì đưa ra các nhận định về sự phân công lao động bị ảnh hưởng bởi lối tư tưởng cũ. “Ở nhiều xã hội, sự phân công lao động phổ biến theo giới là giao việc nấu ăn cho phụ nữ. Người ta tin rằng phụ nữ có khả năng thiên bẩm về nấu ăn và nam giới không có khả năng sinh học đó.”[7] Theo đó, kết quả khảo sát của Nguyễn Hữu Minh cho thấy rằng những người phụ nữ làm việc 2 ca/1 ngày: Công việc ở cơ quan và công việc ở nhà. Thời gian làm việc của họ gấp đôi thời gian của nam giới. Trong chương II, Phụ nữ Việt Nam trong thời đại Phong kiến của tác phẩm “Phụ nữ Việt Nam qua các thời đại” thì “Vai trò của người phụ nữ bây giờ chính thức là vai trò của một người “nội tướng”. Ngoài việc cùng với chồng lao động sản xuất để đảm bảo kinh tế cho cả gia đình, người phụ nữ còn phải quán xuyến hầu hết công việc của nhà mình: Cơm nước, dầu đèn, củi lửa, lợn gà, vườn tược, áo quần, chợ búa, vốn liếng, tiền nong…”[24] Với tác phẩm “Phụ nữ và bình đẳng giới trong đổi mới ở Việt Nam”, tác giả Lê Thi cho rằng gia đình là một thiết chế của xã hội. Chính vì vậy, gia đình cần thực hiện các chức năng như việc tái sản xuất sức lao động, duy trì nòi giống, nuôi dưỡng, giáo dục,chăm sóc gia đình, tái sản xuất của cải vật chất thì phụ nữ hầu hết phải thực hiện tất cả các chức năng đó. Còn đối với nam giới, họ chỉ cần thực hiện chức năng sản xuất của cải vật chất và tái sản xuất sức lao động. Như vậy, “Vai trò kép của phụ nữ, gánh nặng mang thai, sinh đẻ, nuôi con nhỏ và làm nội trợ gia đình đè nặng lên đôi vai người phụ nữ, trong khi họ phải đảm nhận các khâu sản xuất, các ngành nghề không kém gì nam giới”[21] Quỹ HealthBridge Canada – Viện nghiên cứu phát triển xã hội (2014) [18] cho ra kết quả nghiên cứu: Sự PCLĐ theo giới gắn liền với các hình mẫu văn hóa – xã hội trong đó xác định chức năng, nhiệm vụ mà phụ nữ và nam giới sẽ thực hiện trong gia đình và ngoài xã hội. Tuy nhiên phần nhiều của sự sắp xếp theo giới này 8 lại xuất phát từ những khái niệm sinh học giữa nam và nữ và luôn được hậu thuẫn, củng cố thông qua sự giáo dục của chế độ phụ quyền. Hậu quả là xã hội và ngay cả bản thân người phụ nữ cũng tin rằng phụ nữ do có cơ thể yếu ớt nên sẽ đảm nhận những công việc nhẹ nhàng như nội trợ và chăm sóc gia đình mà không đòi hỏi từ người đàn ông. Bên cạnh các công trình nghiên cứu về bình đẳng giới trong gia đình, các công trình nghiên cứu về sự phân công lao động trong gia đình cũng được đề cập khá phổ biến trong một số đề tài. Đề tài “Phân công lao động theo giới trong gia đình nông dân” (1997) của Lê Ngọc Văn đã chỉ ra mô hình phân công lao động theo giới ở khu vực nông thông trong thời kỳ kinh tế thị trường. Với xu thế nam giới được khuyến khích chuyển sang các hoạt động tạo thu nhập tiền mặt, phụ nữ gắn liền với công việc tái sản xuất và sản xuất các sản phẩm tiêu dùng của gia đình. Sự phân công lao động ấy đã tạo ra sự bất lợi cho phụ nữ trong nâng cao học vấn, sức khỏe và vị thế xã hội của họ.[25] Tác giả Vũ Tuấn Huy và Deborah S.Carr với nghiên cứu “Phân công lao động nội trợ trong gia đình” (2000) đã khẳng định sự bất bình đẳng trong phân công lao động nội trợ - nơi phụ nữ đảm nhận chủ yếu. Các tác giả cũng chỉ ra sự tác động của các yếu tố nghề nghiệp, việc làm, số con, định hướng tâm thế nghề nghiệp có liên quan đến văn hóa và xã hội hóa.[3] Theo nghiên cứu “Phân công lao động theo giới trong gia đình người Gialai và Cơho” [1] cho thấy ở hai cộng đồng này đều có một đặc điểm chung là việc chăm sóc gia đình là công việc chính của phụ nữ. Bên cạnh đó, họ vẫn phải tham gia sản xuất ở mức đáng kể, còn đàn ông thì chỉ đảm nhận công việc tham gia sản xuất. Trong Luận án tiến sỹ “Bình đẳng giới trong lao động gia đình dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc Việt Nam hiện nay” [22] (2017), kết quả nghiên cứu của luận án về PCLĐ theo giới trong sản xuất của đồng bào dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc cho thấy trong điều kiện kinh tế - xã hội còn chưa phát triển, trình độ văn hóa xã hội còn thấp, đời sống vô cùng khó khăn, người phụ nữ đóng vai trò quan trọng trong sản xuất nông nghiệp. Hầu hết họ tham gia vào các hoạt động sản xuất, tạo ra thu nhập 9 kinh tế cho gia đình. Tuy nhiên, ngoài công việc tham gia sản xuất để phát triển kinh tế thì họ vẫn phải thực hiện phần đa các công việc nội trợ, chăm sóc gia đình. Theo nghiên cứu: “Bình đẳng giới trong sự phân công lao động ở các gia đình đô thị hiện nay” [44] cho rằng ngày nay vị thế, vai trò của phụ nữ ngày càng được nâng lên và đánh giá cao hơn trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Tuy nhiên vẫn còn tồn tại khá nhiều sự bất bình đẳng, điều này gây ra sự thiếu công bằng cho phụ nữ. Ngoài những công trình nghiên cứu về sự bất bình đẳng trong phân công lao động trong gia đình dưới góc nhìn của xã hội học, còn có công trình nghiên cứu dưới hướng tiếp cận của Công tác xã hội. Đề tài “Vận dụng phương pháp công tác xã hội nhóm nhằm giảm thiểu tình trạng bất bình đẳng giới đối với phụ nữ trong gia đình nông thôn tại xã Tân Lập – Sông Lô – Vĩnh Phúc hiện nay” [11] đưa ra thực trạng của việc bất bình đẳng giới đối với phụ nữ tại một vùng nông thôn, đồng thời đưa ra giải pháp và vận dụng kiến thức công tác xã hội nhóm nhằm giảm thiểu bất bình đẳng với phụ nữ. Tóm lại, tất cả các nghiên cứu trên đều có sự xuất hiện của sự phân công lao động trong các gia đình. Tuy nhiên, mỗi công trình nghiên cứu, mỗi đề tài khoa học lại nghiên cứu những khía cạnh khác nhau của vấn đề và đặc biệt, chưa có đề tài nào áp dụng tiến trình can thiệp công tác xã hội nhóm về giảm thiểu bất bình đẳng giới của việc phân công lao động trong gia đình viên chức tại xã Cộng Hòa, huyện, Quốc Oai, thành phố Hà Nội. Để góp phần vào công cuộc nghiên cứu này, tôi đã lựa chọn và thực hiện nghiên cứu trên. Đề tài mà tôi lựa chọn đảm bảo rằng không trùng với các công trình nghiên cứu đã công bố. Ngoài việc kế thừa, chọn lọc từ các thành tựu nghiên cứu đã có, đề tài đi sâu vào việc tìm hiểu cơ sở lý luận và phân tích thực trạng của việc phân công lao động trong gia đình viên chức. Từ đó, áp dụng tiến trình can thiệp công tác xã hội nhóm nhằm thúc đẩy bình đẳng giới trong phân công lao động trong gia đình viên chức tại xã Cộng Hòa, huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội. 3. Mục đích nghiên cứu 10 Đề tài phân tích được thực trạng của việc bất bình đẳng giới về phân công lao động và đưa ra các yếu tố ảnh hưởng đến thực trạng đó trong gia đình viên chức tại xã Cộng Hòa, huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội. Từ đó ứng dụng phương pháp công tác xã hội nhóm nhằm thúc đẩy bình đẳng giới về phân công lao động theo giới trong gia đình viên chức tại xã Cộng Hòa, huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc PCLĐ trong gia đình viên chức tại xã Cộng Hòa, huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội. - Nghiên cứu thực trạng và các yếu tố ảnh hưởng đến PCLĐ trong gia đình viên chức tại xã Cộng Hòa, huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội. - Ứng dụng phương pháp công tác xã hội nhóm nhằm thúc đẩy bình đẳng giới trong PCLĐ trong gia đình viên chức tại xã Cộng Hòa, huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội. Từ đó đưa ra các đề xuất áp dụng CTXH nhóm trong thúc đẩy bình đẳng giới trong gia đình. 5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 5.1. Đối tượng nghiên cứu Công tác xã hội nhóm về giảm thiểu bất bình đẳng giới của việc phân công lao động theo giới trong gia đình viên chức tại xã Cộng Hòa, huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội 5.2. Phạm vi nghiên cứu - Thời gian nghiên cứu: từ 6/2019 đến 12/2019 - Không gian nghiên cứu: Xã Cộng Hòa, huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội - Nội dung nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu nội dung: Bình đẳng giới về phân công lao động giữa vợ và chồng trong gia đình hạt nhân là viên chức. 6. Phƣơng pháp nghiên cứu 6.1. Phương pháp luận nghiên cứu khoa học (1) Phương pháp tiếp cận liên ngành Đối với phương pháp này, nhằm liên kết với phương pháp giáo dục, tác động nhận thức cho các cặp vợ chồng trong vấn đề bình đẳng giới. 11 (2) Phương pháp tiếp cận hệ thống Đề tài dựa trên lý thuyết hệ thống để xem xét vấn đề PCLĐ trong gia đình như một vấn đề bình thường trong xã hội và coi đó như một bộ phận cần tồn tại trong hệ thống xã hội. Do đó, trong quá trình phát triển xã hội cần phải chú ý đến các giải pháp, mô hình can thiệp côn tác xã hội nhóm nhằm thúc đẩy bình đẳng giới trong PCLĐ trong gia đình viên chức. (3) Phương pháp tiếp cận lý thuyết tập nhiễm xã hội Theo lý thuyết này thì học tập về bản chất là một quá trình xã hội hóa mà con người lĩnh hội những hành vi xã hội thông qua ba con đường chính: bắt chước, tập nhiễm và học chính quy. Đối với yếu tố giới, tập nhiễm xã hội là yếu tố ảnh hưởng đến quá trình nhận thức và hành vi của vợ và chồng trong PCLĐ trong gia đình. 6.2. Các phương pháp nghiên cứu 6.2.1. Phương pháp phân t ch tài liệu - Mục đích: Hiểu được các nội dung liên quan đến bình đẳng giới, phương pháp can thiệp công tác xã hội nhóm của việc phân công lao động theo giới trong gia đình nói chung và các gia đình viên chức nói riêng. - Cách thực hiện: Phân tích, tổng hợp, hệ thống và khái quát hóa những nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến bình đẳng giới, bất bình đẳng giới và phương pháp can thiệp công tác xã hội nhóm của việc phân công lao động giữa vợ và chồng trong gia đình. 6.2.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi - Mục đích: Đề tài sẽ sử dụng phương pháp điều tra bằng bảng hỏi để thu thập thông tin về thực trạng phân công lao động theo giới trong gia đình viên chức tại xã Cộng Hòa, huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội. Đồng thời, sử dụng bảng hỏi về áp dụng tiến trình can thiệp công tác xã hội nhóm trước và sau khi thực hiện phương pháp. - Đề tài sẽ tiến hành khảo sát với 300 khách thể là vợ/chồng của gia đình viên chức trên địa bàn xã Cộng Hòa, huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội. 12 6.2.3. Phương pháp phỏng vấn sâu - Mục đích: Phương pháp phỏng vấn sâu được thực hiện nhằm thu thập, bổ sung, kiểm tra và làm r hơn những thông tin đã thu được từ khảo sát thực tiễn. - Trong đề tài của mình, tôi tiến hành phỏng vấn sâu 10 cặp vợ chồng là viên chức trên địa bàn xã Cộng Hòa, huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội. 6.2.4. Phương pháp xử lý số liệu bằng phương pháp thống kê toán học Số liệu thu thập được sau khảo sát thực tiễn được xử lý bằng chương trình SPSS phiên bản 20.0. Các thông số và ph p toán thống kê được sử dụng trong nghiên cứu này là phân tích thống kê mô tả và phân tích thống kê suy luận. Các phương pháp diễn giải và mô tả số liệu cơ bản như tính điểm trung bình, tần suất/mức độ, tỉ lệ %. 6.2.5. Phương pháp công tác xã hội nhóm - Mục đích: Áp dụng tiến trình CTXH nhóm nhằm mục đích giáo dục nhận thức, thay đổi quan điểm về vấn đề bất bình đẳng giới trong PCLĐ trong gia đình. Dựa vào kết quả khảo sát để đánh giá mức độ hiệu quả của tiến trình. - Tiến trình công tác xã hội nhóm gồm 4 bước như sau: Bước 1: Thành lập nhóm Bước 2: Khảo sát nhóm Bước 3: Triển khai các hoạt động nhóm Bước 4: Kết thúc nhóm 7. Câu hỏi nghiên cứu - Thực trạng bất bình đẳng giới trong phân công lao động trong gia đình viên chức tại xã Cộng Hòa, huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội diễn ra như thế nào? - Sự bất bình đẳng giới trong PCLĐ trong gia đình viên chức tại xã Cộng Hòa, huyện Quốc oai, thành phố Hà Nội chịu sự ảnh hưởng bởi những yếu tố nào? - Ứng dụng phương pháp công tác xã hội nhóm như thế nào để giảm thiểu bất bình đẳng giới trong phân công lao động trong gia đình viên chức tại xã Cộng Hòa, huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội? 8. Giả thuyết nghiên cứu
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan