ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------
LÊ THU HÀ
BI KỊCH TÌNH YÊU, HÔN NHÂN
TRONG TIỂU THUYẾT CỦA LÊ LỰU
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH LÍ LUẬN VĂN HỌC
Hà Nội - 2016
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------
LÊ THU HÀ
BI KỊCH TÌNH YÊU, HÔN NHÂN
TRONG TIỂU THUYẾT CỦA LÊ LỰU
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Lí luận văn học
Mã số: 60220120
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS TRẦN KHÁNH THÀNH
Hà Nội - 2016
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tớiPGS. TS Trần Khánh Thành, người
đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ, động viên tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và
hoàn thành luận văn này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo, nhà trường đã tạo điều kiện thuận
lợi cho tôi trong quá trình học tập.
Tôi cũng xin chân thành gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã
dành sự ủng hộ, chia sẻ, giúp đỡ quý báu để tôi hoàn thành luận văn này.
Luận văn của chúng tôi không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận
được ý kiến đóng góp của quý thầy cô cùng các bạn học viên để công trình hoàn
chỉnh hơn!
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 02 năm 2016
Học viên
Lê Thu Hà
MỤC LỤC
Trang
Lời cảm ơn
Mục lục
1
MỞ ĐẦU
3
1. Lí do chọn đề tài
3
2. Lịch sử vấn đề
4
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5
4. Phương pháp nghiên cứu
6
5. Cấu trúc của luận văn
6
NỘI DUNG
Chƣơng 1: Cảm hứng bi kịch trong tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi
7
mới và hành trình sáng tác của Lê Lựu
1.1. Vài nét về tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới
7
1.2. Cảm hứng bi kịch trong tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới
15
1.3. Hành trình sáng tác và quan niệm nghệ thuật của Lê Lựu
20
Chƣơng 2: Các sắc thái bi kịch tình yêu, hôn nhân trong tiểu thuyết
26
của Lê Lựu
2.1. Bi kịch tình yêu
26
2.1.1. Bi kịch “yêu nhầm”
26
2.1.2. Bi kịch tình yêu không đoạn kết
27
2.1.3. Bi kịch tình yêu và nỗi tuyệt vọng
29
2.1.4. Bi kịch “tình yêu” thực dụng, toan tính
30
2.2. Bi kịch hôn nhân
40
2.2.1. Bi kịch hôn nhân không có tình yêu
40
2.2.2. Bi kịch hôn nhân “cọc cạch”
43
2.2.3. Bi kịch ngoại tình trong hôn nhân
45
Chƣơng 3: Phƣơng thức biểu hiện bi kịch tình yêu, hôn nhân trong
tiểu thuyết của Lê Lựu
1
56
3.1. Tạo tình huống bi kịch
56
3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật
62
3.2.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình, hành động nhân vật
62
3.2.2. Nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật
67
3.3. Ngôn ngữ, giọng điệu
74
3.3.1. Ngôn ngữ trần thuật
74
3.3.2. Giọng điệu trần thuật
78
KẾT LUẬN
86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
88
2
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Văn học Việt Nam hiện đại phát triển qua nhiều giai đoạn. Mỗi giai đoạn để
lại những thành tựu riêng. Văn học thời kì đổi mới, hòa trong công cuộc đổi mới đất
nước, đã có những đổi mới về tư duy nghệ thuật, đạt được những thành tựu bước
đầu. Trên con đường đổi mới văn học ấy, đặc biệt là đổi mới về đề tài, Lê Lựu là
một trong những tác giả đặt chân đầu tiên và để lại những dấu ấn trong lòng người
đọc. Thời xa vắng (1986) là tác phẩm gây tiếng vang đầu tiên, rồi sau đó là Chuyện
làng Cuội (1991), Sóng ở đáy sông (1994), Hai nhà (2000),… Đọc những tiểu
thuyết ấy của Lê Lựu, qua giọng kể khi hài hước bông lơn, khi xót xa thương cảm,
khi khắc khoải yêu thương, khi chìm sâu trong suy ngẫm, triết lý của nhà văn, người
đọc không khỏi băn khoăn trước số phận con người, trước tình yêu, hôn nhân, hạnh
phúc của con người.
Văn học dân tộc kể từ khi đất nước hòa bình, độc lập đã có nhiều cách tân, từ
những thay đổi tư duy nghệ thuật đến đổi mới quan niệm về hiện thực, về con
người, về sáng tạo nghệ thuật. Từ nền văn học mang cảm hứng sử thi, văn học đã
chuyển sự quan tâm chủ yếu sang vấn đề thời sự và đời tư, sự thức tỉnh ý thức cá
nhân đã mở ra cho văn học nhiều đề tài và chủ đề mới mẻ. Thời kì này, văn học đã
đi tới một quan niệm toàn vẹn sâu sắc về con người, về những suy nghĩ trăn trở
trước cuộc sống. Con người vừa là xuất phát điểm, là đối tượng khám phá chủ yếu,
vừa là cái đích cuối cùng của tác phẩm văn học.Con người trong văn học hôm nay
khác với con người trong văn học trước đây, vì nó được nhìn ở nhiều vị thế, ở mối
quan hệ đa chiều: con người với xã hội, con người với gia đình, và với chính mình,
bên cạnh đó mặt trái của cơ chế thị trường với bao ngổn ngang, hỗn độn đã đẩy
cuộc sống, số phận của con người đến trước những bi kịch không ai giống ai. Đây là
những vấn đề cần nghiên cứu một cách toàn diện và sâu sắc.
Từ Đại hội lần thứ VI (1986) của Đảng, đất nước bước vào thời kì hội nhập,
đổi mới và phát triển trên nhiều phương diện đời sống và xã hội. Điều này đòi hỏi
người viết phải có cái nhìn mới, thỏa đáng hơn cho những vấn đề đang tồn tại và
3
nảy sinh trong cuộc sống. Nhiều vấn đề của đời sống đã được các nhà văn lật lại,
nhận thức lại. Với khả năng miêu tả hiện thực đời sống cả ở bề rộng lẫn bề sâu, “là
mảnh đất lưu giữ bóng hình cuộc đời và con người” một cách hữu hiệu, không phải
vô tình mà tiểu thuyết trở thành thể loại nổi bật được các nhà văn lựa chọn để thể
hiện quan niệm và khả năng sáng tạo nghệ thuật của mình.
Lê Lựu là một trong những nhà văn tiêu biểu của văn học thời kì đổi mới.
Ngay từ những sáng tác đầu tay, Lê Lựu đã được nhận xét là người đang tìm tòi và
có nhiều đổi mới sáng tạo. Tác phẩm nào của nhà văn cũng tìm được những tính
chất mới, những hướng khai thác vấn đề mới. Một vấn đề được Lê Lựu thể hiện sâu
sắc trong nhiều tác phẩm của mình là bi kịch trong tình yêu và hôn nhân... Xuất
phát từ ám ảnh về bi kịch tình yêu, hôn nhân của các nhân vật trong một số tiểu
thuyết của Lê Lựu nên tôi muốn đi sâu tìm hiểu đề tài này.
2. Lịch sử vấn đề
Nghiên cứu về Lê Lựu đã có không ít ý kiến nhận xét, đánh giá của các nhà
văn, nhà phê bình văn học. Họ tìm đến với những tác phẩm và nhận thấy ở đấy
những chiều kích khác nhau của cuộc sống. Qua những tác phẩm ấy, người đọc
không chỉ hình dung được bộ mặt xã hội Việt Nam lúc bấy giờ mà còn cảm nhận
một cách sâu sắc những chuyển biến tinh tế nhất của đời sống con người thời đại.
Vì vậy, tác phẩm của nhà văn không rơi vào khoảng không im lặng, mà cùng với
các cây bút văn xuôi lúc bấy giờ như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp,… Lê
Lựu đã làm cho đời sống văn học nước ta thêm phần sôi động. Từ một cây bút
truyện ngắn, Lê Lựu bước sang địa hạt tiểu thuyết, khẳng định vị trí của mình trên
văn đàn tiểu thuyết hiện đại.
Lê Lựu được đặc biệt quan tâm với tiểu thuyết Thời xa vắng. Ngay từ khi
Thời xa vắng ra đời, các nhà nghiên cứu văn học đã nhận thấy trong tác phẩm này
có “cách nhìn hiện thực mới”. Giáo sư Phong Lê cho rằng: “Thời xa vắng là sự đón
nhận trước cái yêu cầu nhìn thẳng vào sự thật và nhận thức lại lịch sử đề ra với Đại
hội VI, cuối năm 1986”. Tác giả Nguyễn Hòa nhận thấy Thời xa vắng là sự “đi tìm
lại những chân giá trị bị đánh mất, bị lãng quên, viên đại bác khoan thủng các tấm
4
màn vô hình che giấu nhiều điều lâu nay chúng ta không rõ tới, quá khứ đâu chỉ là
chiếc bánh ngọt ngào mà có cả vị đắng cay”. Tác giả Kim Hồng trong bài viết in
trên Tạp chí Văn học số 5 năm 1988 cũng có nhận xét: “Thời xa vắng của Lê Lựu là
một tác phẩm giàu năng lượng thật sự”. Nhà thơ Trần Đăng Khoa cảm nhận được
Thời xa vắng là sự khái quát lịch sử “bằng số phận bi thảm của anh nông dân Giang
Minh Sài”. Đánh giá về những sáng tác của nhà văn Lê Lựu, Trần Đăng Khoa cho
rằng: “Lê Lựu biết cuốn hút người đọc bằng một thứ văn đọc không nhạt. Ngay ở
những chuyện xoàng xoàng, người đọc vẫn thu lượm được một cái gì đó [...] nghĩa
là đọc anh không bị lỗ trắng. Cũng bởi Lê Lựu là nhà văn không chấp nhận sự nhạt
nhẽo, tầm thường. Ở bất kì tác phẩm nào dù lớn hay nhỏ Lê Lựu cũng có vấn đề gì
đấy gửi gắm”. Trần Bảo Hưng cho rằng: “Thô mộc hồn nhiên và đầy ắp chất sống –
ngay cả khi nghĩ ngợi triết lí cũng rất hồn nhiên, cũng là triết lí bật lên trực tiếp từ
đời sống. Tất cả dường như đã trở thành phong cách, thành cá tính của Lê Lựu”.
Tiếp tục khơi sâu vào đề tài gia đình, số phận con người, Lê Lựu viết Chuyện
làng Cuội (1991), Sóng ở đáy sông (1994),Hai nhà (2000), Thời loạn (2010).
Những tác phẩm này khi ra đời đã có hàng loạt bài nghiên cứu như: Tiểu thuyết đầu
tiên của một cây bút viết truyện ngắncủa Phong Vũ, Mỗi người phải chịu trách
nhiệm về nhân cách của mìnhhay Hỏi chuyện tác giả, tìm hiểu tác phẩm (báo Văn
nghệ tháng 12.1986). Chuyện phiếm với anh Sàicủa Hồng Vân, Nghĩ về Thời xa
vắngcủa Thiếu Mai, Khuynh hướng triết lí trong tiểu thuyết – những tìm tòi và thể
nghiệm của Nguyễn Hữu Sơn, Lê Lựu – Chân dung văn học của Trần Đăng
Khoa,Tiểu thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới của Đỗ Hải Ninh, … Tất cả những bài viết
này được chính Lê Lựu tập hợp lại trong cuốn Tạp văn của mình.
Nghiên cứu về Lê Lựu và các sáng tác của ông nói chung, tiểu thuyết Thời xa
vắng, Chuyện làng Cuội, Sóng ở đáy sông, Hai nhà, Thời loạn nói riêng có nhiều
bài viết đăng trên các báo, tạp chí. Tuy nhiên, các bài nghiên cứu hầu như tập trung
xoay quanh tác phẩm Thời xa vắng hoặc là viết về từng tác phẩm cụ thể chứ chưa
có bài nào hay một công trình nghiên cứu nào tìm hiểu về tiểu thuyết Lê Lựu một
cách toàn diện. Bài viết Tiểu thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới của tác giả Đỗ Hải
5
Ninhcũng đã nêu ra được những nét khái quát nhất về tiểu thuyết của Lê lựu thời kì
đổi mới, tuy nhiên tác giả không đi vào phân tích cụ thể.
Chưa có công trình nào nghiên cứu về bi kịch tình yêu và hôn nhân trong
tiểu thuyết của Lê Lựu.
3. Mục đích, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Dựa vào đặc điểm thể loại tiểu thuyết và các tác phẩm, trong đề tài này, tôi
cố gắng tìm hiểu những chuyển biến về quan niệm con người trong văn học Việt
Nam thời kì đổi mới, đi sâu tìm hiểu những bi kịch tình yêu và hôn nhân, nguyên
nhân của bi kịch, tìm hiểu cách nhà văn xây dựng bi kịch … trên những trang tiểu
thuyết của nhà văn Lê Lựu.
Đề tài sẽ không đi vào toàn bộ tác phẩm của ông mà chỉ tập trung vào một số
tác phẩm thời kỳ đổi mới, đó là: Thời xa vắng (1986) , Chuyện làng Cuội (1991),
Sóng ở đáy sông (1994), Hai nhà (2000), Thời loạn (2010).
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong đề tài này, tôi sử dụng một số phương pháp chủ yếu sau:
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp loại hình
- Phương pháp tiếp cận thi pháp học
- Phương pháp tiểu sử
5. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Luận văn gồm các nội dung chính sau đây:
Chương 1: Cảm hứng bi kịch trong tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới và
hành trình sáng tác của Lê Lựu
Chương 2: Các sắc thái bi kịch tình yêu, hôn nhân trong tiểu thuyết của Lê
Lựu
Chương 3: Phương thức biểu hiện bi kịch tình yêu, hôn nhân trong tiểu
thuyết của Lê Lựu
6
CHƢƠNG 1: CẢM HỨNG BI KỊCH TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM
THỜI KÌ ĐỔI MỚI VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC CỦA LÊ LỰU
1.1. Vài nét về tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới
Nghị quyết 05 của Bộ chính trịvề phát triển văn nghệ trong thời đổi mới đã
mở ra một hướng đi mới cho văn học. Nhà văn hiểu rõ đặc trưng của văn chương và
sứ mệnh của mình với cuộc sống. Những sáng tác của họ không chỉ nhằm minh họa
các khẩu hiệu hay cổ vũ cho các phong trào, các chủ trương, chính sách của nhà
nước mà “tập trung miêu tả số phận con người, mang đến cho con người cái đẹp,
tình yêu cuộc sống cũng như sự từng trải, làm phong phú thêm kinh nghiệm sống
của mỗi cá nhân, đồng thời phải nghiên cứu những vấn đề của xã hội đang diễn ra
hay đi lùi vào quá khứ, từ đó rút ra bài học, những tư tưởng mang tính khái quát,
không chỉ quan trọng về triết học, đạo đức, nhân sinh mà còn có thể mang ý nghĩa
chính trị lớn lao”[71, tr. 18].
Nhìn nhận về mối quan hệ giữa văn học và hiện thực lúc bấy giờ, các nhà
nghiên cứu đã đánh giá sâu sắc “yêu cầu văn học trong điều kiện lịch sử mới phải
giúp vào sự hoàn thiện bức tranh hiện thực còn trong dạng phác thảo của một thời
đã qua, sao cho chân thực hơn, được soi tỏ nhiều góc cạnh hơn.” [26, tr.106]. Giờ
đây với yêu cầu mới, nhiệm vụ của văn học thay đổi, nó không chỉ phản ánh thế
giới khách quan mà còn thể hiện thế giới chủ quan. Nhận định về văn xuôi trong
khoảng mười lăm năm (từ 1975 đến 1990), Hoàng Ngọc Hiến trong bài Chủ nghĩa
hiện thực và chủ nghĩa nhân đạo cho rằng:“Trong sáng tác văn học, cái nhìn mâu
thuẫn trong hiện thực đời sống hết sức quan trọng. Những biến đổi sâu sắc trong
văn xuôi của ta khoảng mười lăm năm nay bắt nguồn từ sự thay đổi trong cách nhìn
những mâu thuẫn trong đời sống xã hội.” [26, tr.239].
Vấn đề bản chất văn học cũng được Lê Ngọc Trà đặt ra trong một loạt bài
nghiên cứu của mình. Ông nhận định: “Tác phẩm văn học là tiếng nói của những ấn
tượng, những suy nghĩ vừa như xác định, vừa như chưa xác định, vừa như trọn vẹn
lại vừa như chưa trọn vẹn, vừa như có ý giới hạn lại vừa như miên man vô bờ bến.
Đó là những cảm giác mang tính hình tượng... Văn học chính là nỗi buồn về cái
7
đẹp, về lý tưởng, là nỗi đau giằng xé về số phận con người, là sự cắn rứt lương tri
không yên, là cuộc đấu tranh nội tâm...” [69, tr. 88, 89].
Nhận thức hiện thực trong trạng thái đời thường, cảm nhận và phản ánh sự
thật về hiện thực, đó là biểu hiện của đổi mới văn học. Nguyễn Văn Hạnh đã khẳng
định: “Tư tưởng quan trọng bậc nhất mà Đại hội Đảng lần thứ VI đã trang bị cho
nhận thức xã hội thời kì đổi mới, cũng là tư tưởng đã tạo nên bước ngoặt thật sự
trong tư duy nghệ thuật mấy năm qua, chính là tư tưởng tôn trọng sự thật, nhìn
thẳng vào sự thật. Bởi sự thật luôn luôn là linh hồn của nghệ thuật chân chính, nghệ
thuật tiến bộ.” [15, tr. 62].
“Những nhà văn nhạy cảm với cuộc sống, thiết tha với công cuộc đổi mới do
Đảng đề ra đã nhìn thấy phải bắt đầu quá trình đổi mới văn học đúng ngay từ chỗ
phải bắt đầu nói sự thật. Mà người đọc từng trải, thông minh chân tình của chúng ta
cũng hiểu như vậy. Họ chú ý đến tác phẩm mới, hoan nghênh nhà văn trước hết ở
sự trung thực, ở lời nói thật. Cái nhìn mới mẻ, trước hết bắt nguồn từ thái độ trung
thực và tinh thần trách nhiệm đối với cuộc sống, từ niềm tin vào chính nghĩa và sức
mạnh của cách mạng, do đó mà có đủ ý thức và dũng cảm nói lên sự thật, dù đó là
một sự thật không đơn giản, thậm chí phũ phàng.” [69, tr. 88, 89].
Nhận định về tiểu thuyết trong thời đại mới, Cao Tiến Lê đã khái quát “Tiểu
thuyết của ta mấy năm gần đây đã khởi sắc, nhất là những năm 1988, 1989, 1990,
có đổi mới, tự do hơn, nêu được nhiều vấn đề... Văn học đã đi vào đời thường. Mỗi
một con người đều bình đẳng trước cái nhìn của nhà văn.Tất cả mọi người trước
nhà văn đều là nhân vật, nhà văn coi trọng ở chỗ số phận của họ đóng góp được gì
cho văn học”. Cùng chung mối quan tâm về văn học, năm 1989, trong bài Về vấn đề
định hướng của văn học trong tình hình hiện nay, Trần Hữu Tá tinh tế khi chỉ ra
những hạn chế, những sai lầm, non yếu trong sáng tác nhưng cũng rất khách quan.
Tác giả khẳng định “ít thấy lúc nào tiểu thuyết phát triển mạnh như mấy năm gần
đây”, “sự lao động nghệ thuật nghiêm túc theo phương hướng đổi mới sáng tạo ở
một số cây bút là không thể phủ nhận”. Tác giả khẳng định những nét đổi mới của
tiểu thuyết trong việc bám sát cuộc sống hôm nay, nhất là quan tâm đến những vấn
8
đề tâm lí xã hội của đời thường (quyền sống và số phận con người, những mối quan
hệ nghĩa tình nhân bản, bi kịch cá nhân, sự suy thoái của đạo đức truyền thống...).
Như vậy, với công cuộc đổi mới trên toàn xã hội, văn học đang chuyển mình
một cách mạnh mẽ. Giờ đây nó “không xuôi chiều kiểu êm dầm mát mái nữa” mà
mạnh dạn “phanh phui các mặt trái của xã hội, các uẩn khúc hoặc tráo trở của lòng
người”. Đến với những tác phẩm văn học giai đoạn này, người đọc tìm thấy mọi
cung bậc của tình cảm: từ buồn bã, cô đơn cho đến công phẫn, xót xa. Văn học giai
đoạn này đã làm một cuộc cách mạng thực sự. Nó giàu chất thực hơn, miêu tả cuộc
sống trần trụi và mạnh dạn phơi bày sự băng hoại đạo đức nếu thấy cần thiết. Giờ
đây yêu cầu tái hiện lịch sử phải đi sâu vào số phận mỗi cá nhân, phải đặt lại mọi
vấn đề, suy nghĩ lại mọi niềm tin và có thể vượt qua mọi cấm đoán kiêng kị. Điều
này được Phan Cự Đệ ghi nhận trong công trình Văn học Việt Nam thế kỉ XX –
những vấn đề lịch sử và lý luận: “Các nhà văn đã đi sâu vào tâm lí bên trong, để cho
nhân vật soi bóng vào nhau hoặc tự khám phá mình, như là một sự lắng lại, suy
ngẫm về cuộc đời đã qua...Nhân vật nhìn bản thân mình, tự đối diện với mình như
một sự tự phán xét về nhân cách nhằm hướng tới một nhân cách hoàn thiện.” [7,
tr.152-153].
Cho nên tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ này quả đã ghi nhận những diễn biến
tinh vi nhất về cuộc sống mới đa dạng, phức tạp. Văn học nói chung và tiểu thuyết
nói riêng nhận thức trở lại chính bản thân nó; nhận thức về mối quan hệ giữa văn
học và hiện thực, giữa văn học và chính trị. Yêu cầu mới đòi hỏi văn học phải trả lời
được những câu hỏi như: Mối quan hệ giữa văn học và cuộc sống?, Nghệ sĩ anh là
ai? Bản chất của văn học là gì?
Văn học nghệ thuật trong thời đại mới trở về với thiên chức vốn có của mình
là “món ăn tinh thần” đặc sắc nhất mà không một ngành nghệ thuật nào có thể thay
thế được. Văn học mang sứ mệnh to lớn như vậy nên nghệ sĩ cũng xác định sứ
mệnh của mình trong nghệ thuật phải sáng tạo, phải thể nghiệm mình. Điều này
từng được Nam Cao khẳng định qua lời nhân vật Hộ “Văn chương không cần đến
những người thợ khéo tay làm theo một vài mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp
9
những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo
những gì chưa có”. Điều này một lần nữa được Thạch Lam khẳng định trong tác
phẩm của mình: “…là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực…làm cho lòng người
trong sạch và phong phú”.
Sau chiến tranh, khi tư duy nghệ thuật thay đổi, văn học không chỉ nhìn lại
quá khứ bằng việc miêu tả hiện thực đời sống chiến tranh hay trở lại những vấn đề
lịch sử dưới một cái nhìn mới mà quan trọng hơn là đi sâu vào số phận mỗi cá nhân,
mỗi gia đình, mỗi làng quê. Cuộc sống được phản ánh vào tác phẩm không phải chỉ
là cái phần anh hùng cao cả mà còn thấm thía nỗi buồn của con người thời hậu
chiến. Đấy là cuộc sống đời thường vừa nhân hậu, ấm áp, vừa bận rộn nhưng cũng
không kém phần sôi động quyết liệt. Đặc biệt, “con người” trở thành một đối tượng
thực sự trong văn học, một thế giới đầy bí ẩn và là đối tượng khám phá không cùng
của văn học. Con người với đầy đủ các “phẩm chất” và “thuộc tính”, “bản năng” và
“ý thức”, “thấp hèn” và “cao thượng”, “phần con” và “phần người”,… Từ con
người tập thể sang con người đời thường với tất cả tính chất mâu thuẫn phức tạp,
con người anh hùng và con người bi kịch… Một quan niệm mới về con người được
hình thành, đấy là con người cá nhân, con người chịu trách nhiệm trước mọi quyết
định của chính bản thân mình. Con người ấy không còn “nguyên phiến sử thi” –
chữ dùng của Trần Đình Sử - mà hiện lên với nhiều mâu thuẫn. Những mặt trái của
đời sống được phơi bày cụ thể. Sự tha hóa về nhân cách, những số phận bi kịch,
những tâm trạng lo âu, khắc khoải được đặc tả. Giọng điệu mỉa mai, phê phán tự
vấn thay thế giọng điệu ngợi ca, ru vỗ ngọt ngào êm ái. Con người được hình dung
nhiều mặt, không chỉ có ý chí, tư tưởng, tình cảm mà còn được khắc họa ở các
phương diện bản năng vô thức, tâm linh nghịch lí. Ánh sáng lí tưởng với những hào
quang giờ đây nhạt dần. Những người chiến sĩ, những anh hùng không còn vị trí
trung tâm mà được thay thế bởi những con người đời thường, có khi là tầm thường
nữa. Do đó, khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn phải nhường chỗ cho cảm
hứng thế sự đời tư với những trăn trở tìm tòi. Nhiệt tình ca ngợi, khẳng định được
thay thế bằng sự phê phán. Điều này thể hiện hầu như trong các tác phẩm có giá trị
10
lúc bấy giờ: Bến không chồng của Dương Hướng, Mảnh đất lắm người nhiều ma
của Nguyễn Khắc Trường,…
Có thể nhận thấy trên các trang tiểu thuyết của văn học giai đoạn này, những
mặt trái, những hiện tượng tiêu cực trong đời sống mà trước đây bị lờ đi, bị gác lại
thì nay đã được các ngòi bút văn xuôi, với thế mạnh riêng, lật xới lại hầu hết mọi
vấn đề. Những nhân vật xấu trước đây chỉ được miêu tả như những thiếu sót, những
khuyết điểm có thể sửa chữa được, còn về cơ bản thì vẫn là người tốt thì nay hoàn
toàn khác. Những kẻ xấu là những kẻ mang bộ mặt đạo đức giả. Chúng lợi dụng
danh nghĩa của Đảng – cách mạng để trục lợi, để thỏa mãn ham muốn quyền lực cá
nhân. Chúng trù dập người khác nhằm nâng cao uy tín của bản thân, của gia đình và
dòng họ mình. Phong Lê quả là sắc sảo khi cho rằng: “Tiểu thuyết thời kì này
không ngần ngại vục vào cái sự thật tối tăm oan khổ nhưng đem lại hiệu quả thanh
lọc, tẩy rửa.” [20, tr. 92].
Tìm hiểu những trang tiểu thuyết sau 1975, người đọc bắt gặp những số phận
riêng với những bi kịch rất đời thường của con người trong xã hội mới. Thực ra đây
không phải là điều mới mẻ gì, không phải là lần đầu tiên xuất hiện, bởi xu thế này
đã có trên những trang văn xuôi giai đoạn 1930-1945. Tuy nhiên, với thời gian dài
của cuộc chiến tranh 30 năm giành độc lập dân tộc buộc văn học phải quan tâm đến
cái chung còn những vấn đề cá nhân đời thường, số phận riêng mỗi người phải tạm
gác sang một bên; giờ đây, khi chiến tranh kết thúc, cảm hứng đời tư thế sự với
những trăn trở tìm tòi được thể hiện đậm nét trên những trang tiểu thuyết như Mùa
lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng, Sao đổi ngôi của Chu Văn, Chim én bay
của Nguyễn Trí Huân,… Trong thế giới nghệ thuật Ma Văn Kháng, con người được
soi chiếu cả ở phần thể chất lẫn tâm hồn nên vừa nồng nàn trong niềm khát khao
được giao cảm lại vừa bận rộn với những tính toán trong cuộc mưu sinh. Ngòi bút
nhà văn dường như luồn thật sâu vào mọi ngõ ngách trong tâm hồn con người để
lần tìm những rung động dù rất nhỏ. Cuộc sống thường nhật cũng như đời sống tâm
hồn được miêu tả chân thực hơn. Ở đấy không chỉ có hạnh phúc, chiến thắng mà
còn có đau đớn, tủi nhục, bất hạnh. Cuộc sống con người hiện lên trên trang viết
11
hôm nay thật phong phú đa dạng. Các nhà văn đã tiếp cận con người từ nhiều chiều
và thể hiện những cảm nhận về con người bằng nhiều cách khác nhau. Chiến tranh
đã kết thúc nhưng những dư âm của cuộc chiến vẫn còn. Giờ đây, chiến tranh được
tái hiện trên nhiều bình diện nhưng đằm lại và sâu lắng hơn.
Như vậy, đổi mới tư duy nghệ thuật, văn xuôi nói chung và tiểu thuyết nói
riêng giai đoạn này đã thực sự mở rộng đường biên trong việc phản ánh vì nó được
viết dưới ánh sáng của tư tưởng nhân văn. Văn học đã thực sự được cởi trói, cho
nên chủ đề, đề tài được mở rộng, không bị gò ép, không bị giới hạn. Văn học đã tìm
về với “con người đời thường”, “con người cá nhân” nhưng vẫn “mới”, vẫn không
dẫm chân lên lối cũ “mà đầy sáng tạo” trong sự vân động không ngừng của cuộc
sống mới.
Nền văn học nước nhà sau 1975, đặc biệt là từ năm 1986 đã có những bước
thay đổi và chuyển mình sâu sắc, nhất là về cảm hứng sáng tác. Mỗi nhà văn khi đặt
bút khám phá thể hiện phải đứng trước những thách thức bởi sự phức tạp của cuộc
sống, các nhà văn phải suy nghĩ, nghiền ngẫm để lí giải những vấn đề đó theo một
tinh thần mới. Thời kỳ này, khuynh hướng dân chủ hóa đã giúp nhà văn nhìn nhận
cuộc sống đa chiều và con người bình đẳng trong sự quan sát và phản ánh của nhà
văn. Con người với tính cách và số phận cá nhân trở thành đối tượng khám phá đến
tận cùng của nhà văn. Con người chính là sự tổng hòa, là sự đan xen của nhiều mối
quan hệ và phẩm chất, luôn có sự cao thượng bên cạnh cái thấp hèn, lí tưởng đan
xen với dục vọng, cái xấu xen lẫn vào cái đẹp. Đặc biệt hơn là bản chất đích thực
của con người nhiều khi không trùng khít với giá trị và sự thể hiện bên ngoài của
nhân vật. “Cuộc chiến đã lùi vào dĩ vãng sau một quãng lùi lịch sử, sau một khoảng
cách thời gian, chất sử thi nhạt dần. Cảm hứng sáng tạo chuyển từ ngợi ca, tự hào,
khâm phục đến chiêm nghiệm, lắng đọng, suy tư. Thay vì cách nhìn nhận giản đơn,
rạch ròi thiện – ác, bạn – thù, cao cả - thấp hèn là cách nhìn đa chiều, phức hợp về
hiện thực và số phận con người.” [67, tr.23]. Xóa bỏ những nguyên tắc cứng nhắc
trong nhận thức về con người, văn xuôi sau đổi mới có được sự phong phú trong
miêu tả, thể hiện và đi đến khám phá toàn vẹn về đối tượng này. Với các sáng tác
12
mang hơi thở của thời đại, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Lê Lựu,Nguyễn Huy
Thiệp,Nguyễn Khắc Trường, … là những nhà văn tiêu biểu cho quá trình đổi mới
nền văn học Việt Nam thời kì này.
Trong văn học thời kì đổi mới, hiện thực được nới rộng phạm vi thể hiện.
Không chỉ có hiện thực cách mạng, các biến cố trong đời sống cộng đồng mà còn có
cả hiện thực của cuộc sống hằng ngày với các quan hệ thế sự phức tạp, đời sống cá
nhân riêng tư với hạnh phúc, khát vọng, bi kịch của riêng nó. Nhiều mảng hiện thực
mới được bổ sung khiến cho văn học có khả năng đi sâu, thâm nhập vào tất cả các
ngóc ngách của đời sống xã hội và trong tâm hồn con ngươi. Dường như thời kì này
không còn những vùng đất cấm kị đối với văn xuôi. Những hiện thực trước đây một
thời bị cấm kị, bị né tránh thì nay lại có một sức hút mạnh mẽ hơn bao giờ hết.
Những tiêu cực, bất cập trong đời sống được phanh phui, được đem ra mổ xẻ với
một thái độ nghiêm túc, thẳng thắn nhằm mục đích mang lại những nhận thức sâu
sắc hơn về hiện thực và con người.
Trong bối cảnh lịch sử xã hội có nhiều biến động, con người đang phải trải
qua những thăng trầm của số phận, thể loại tiểu thuyết đã phát huy được ưu thế vốn
có. Với khả năng “tiếp xúc với cái hiện tại chưa hoàn thành”, người viết tiểu thuyết
“có thể xuất hiện trong trường miêu tả ở bất cứ tư thế tác giả nào, có thể miêu tả
những sự việc có thật trong đời mình hoặc ám chỉ đến chúng, có thể can thiệp vào
cuộc trò chuyện giữa các nhân vật, có thể bút chiến công khai với các địch thủ văn
học của mình” [2, tr.57]. Thời kì này, tiểu thuyết đã được đông đảo giới sáng tác lựa
chọn, tìm đến, đặc biệt là tiểu thuyết viết về chiến tranh cách mạng và người lính do
chính những nhà văn đã từng cầm súng trên chiến trường chắp bút. Tiểu thuyết Việt
Nam sau năm 1986 đã thực sự đổi mới trên nhiều phương diện: tư duy nghệ thuật,
cảm hứng sáng tạo, ngôn ngữ, kết cấu…
Văn học trong thời kì đổi mới, đặc biệt là tiểu thuyết đã có rất nhiều sự thay
đổi trong việc khám phá và tái hiện hiện thực. Chiến tranh đã qua đi, các nhà văn
không phải cầm thêm cây súng như trước nên giờ đây họ có điều kiện và thời gian
để khám phá, để suy ngẫm kĩ lưỡng về mọi mặt, mọi khía cạnh của cuộc sống, đặc
13
biệt là về số phận con người. Họ băn khoăn, trăn trở và tìm tòi những điểm mới, và
chính điều đó đã tạo sự thúc đẩy lớn cho sự phát triển của văn xuôi nói chung, cho
tiểu thuyết nói riêng. Có thể khẳng định đay chính là giai đoạn đánh dấu bước
chuyển mình rõ rệt trong tư duy nghệ thuật của người cầm bút. Văn học chuyển từ
tư duy sử thi sang tư duy tiểu thuyết. Các nhà văn đã đổi mới trong cách tiếp cận
cuộc sống và con người, họ không chỉ soi ngắm, suy ngẫm tỉ mỉ về hiện thực và số
phận cá nhân con người, mà còn thẳng thẵn nhìn nhận và đánh giá đúng bản chất
các hiện tượng xã hội, đứng trong tư thế đối thoại với mọi người và với xã hội.
Tư duy nghệ thuật đổi mới đã kéo theo sự ra đời của quan niệm mới về con
người. Đi vào những trang viết của các nhà văn lúc này không phải là những con
người anh hùng – đại diện cho vẻ đẹp lí tưởng cộng đồng trong giai đoạn 19451975 nữa, mà là con người “với những vấn đề riêng tư, số phận, nhân cách, với khát
vọng mọi mặt, cả hạnh phúc và bi kịch” [28, tr. 48]. Đó là Giang Minh Sài (Thời xa
vắng), là Kiên (Thân phận tình yêu), là Hai Hùng (Ăn mày dĩ vãng), là Vạn (Bến
không chồng), là Tâm (Hai nhà), bà cụ Đất (Chuyện làng Cuội),… Văn xuôi giai
đoạn này, cảm hứng bi kịch đã được thể hiện rất rõ và đa dạng trong nhiều tác
phẩm, đó chính là minh chứng cho những thay dổi mới mẻ của tiểu thuyết. Chiến
tranh đã qua đi nhưng dư âm của nỗi đau đớn, nhức nhối của nó thì vẫn còn dai
dẳng, âm ỉ trong cuộc sống hằng ngày, đặc biệt là là đối với những người lính thời
hậu chiến. Quá khứ đau thương đã để lại cho những người lính những nỗi đau đớn
như một bóng ma ám ảnh, đeo bám lấy cuộc sống của họ, khiến cho họ mất đi khả
năng hòa nhập với cộng đồng. Chiến tranh đi qua, họ trở về với cuộc sống đời
thường nhưng niềm vui thì ngắn ngủi mà những nỗi buồn, nỗi đau thì triền miên.
Kiên trong Thân phận tình yêu của Bảo Ninh “đã phải chịu đựng hết hồi ức này
sang hồi ức khác, ngày này qua ngày khác, đêm thâu này đến đêm thâu kia. Thử hỏi
đã bao đêm ròng? Nhiều hôm đi giữa phố xá đông người, tôi đi lạc vào giữa một
giấc mơ khi tỉnh … có đêm tôi giật mình thức dậy nghe tiếng quạt trần kêu hóa
thành tiếng rú tít rợn gáy của trực thăng vũ trang” [53, tr.99]. Hay Giang Minh Sài
trong Thời xa vắng của Lê Lựu cũng đã rất cay đắng khái quát về cuộc đời mình:
14
“Nửa đời người phải đi yêu cái người khác yêu, nửa còn lại đi yêu cái mình không
có, đến bây giờ mới biết thì lại…” [43, tr.332]. Rồi số phận Vạn trong Bến không
chồng của Dương Hướng cũng không hơn không kém. Ra trận trở thành một người
hùng, khi trở về làng thì “những tấm huân chương lấp lánh trên ngực” [20, tr.5]
nhưng cuộc sống khi không còn cây súng lại khiến cho ông thêm đau khổ, xấu hổ
cho tới tận lúc chết – một cái chết đầy bi kịch, kết thúc cho chuỗi tháng ngày cũng
đầy bi kịch của cuộc đời ông. Bi kịch của Tâm trong Hai nhà của Lê Lựu là bi kịch
của cuộc đời khi Tâm bị phản bội, Tâm càng chăm sóc, nín nhịn vợ thì cô ta càng
lăng loàn. Trong Chuyện làng Cuội là một chuỗi tháng ngày bi kịch của bà cụ Đất
vì bà quá giàu yêu thương, hiền lành như đất, câm lặng hi sinh, chịu đủ mọi điều
tiếng nhục nhã cho đến lúc chết.
Trong hoàn cảnh đất nước thời kì đổi mới, tiểu thuyết đã trở thành thể loại có
ưu thế nhất trong việc phản ánh hiện thực đời sống xã hội và những bi kịch của con
người trước cuộc đời.
1.2. Cảm hứng bi kịch trong tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới
1.2.1. Cảm hứng bi kịch
Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Cái bi (Tragique) là phạm trù mĩ học phản
ánh một hiện tượng có tính quy luật của thực tế đời sống xã hội thường diễn ra
trong cuộc đấu tranh không cân sức giữa cái thiện và cái ác, cái mới và cái cũ, cái
tiến bộ và cái phản động… trong điều kiện những cái sau còn mạnh hơn những cái
trước. Đó là sự trả giá tự nguyện cho những chiến thắng và bất tử về tinh thần bằng
nỗi đau và cái chết của nhân vật chính diện. Cái bi tạo ra một cảm xúc thẩm mĩ
phức hợp bao hàm cả nỗi xót đau, niềm hân hoan lẫn nỗi sợ hãi khủng khiếp. Cái bi
thường đi liền với nỗi đau và cái chết, song bản thân nỗi đau và cái chết chưa phải
là cái bi. Chúng chỉ trở thành cái bi khi hướng tới và khẳng định cái bất tử về mặt
tinh thần của con người…” [13, tr. 19].
Như vậy, bi kịch sẽ không còn là bi kịch nữa nếu người xem không bị rung
động bởi nhân vật và nếu toàn bộ nỗi xúc động khiếp sợ không dẫn đến một cách
giải quyết nào đó về tình cảm theo hướng tích cực. Nhân loại đã tìm thấy ở những
15
tác phẩm bi kịch những gì khủng khiếp nhất mà cái ác có thể gieo rắc, áp đặt cho
mình, do đó không thể bàng quan và chịu khuất phục trước sức mạnh tàn bạo của nó
được. Kết thúc bi thảm của số phận nhân vật bi kịch thường có ý nghĩa thức tỉnh, dự
báo về một cái gì đó tốt đẹp hơn sẽ nảy sinh trong cuộc sống và trong mỗi con
người. Trong bi kịch, qua cái chết của nhân vật chính, người ta tìm ra cái thiêng
liêng vô giá của sự sống chân chính và cái bất tử của cộng đồng. Vì thế, nhân vật
chính của bi kịch thường là những nhân vật anh hùng với ý nghĩa tích cực cao cả.
Về cảm hứng trong văn học, Lê Ngọc Trà từng cho rằng: “Tư tưởng của tác
phẩm không thể là những tư tưởng khô khan thuần lý mà phải biến thành khát vọng,
thành cảm hứng.” [70, tr. 13]. Như vậy có nghĩa là cùng lấy con người và cuộc sống
làm đối tượng khám phá, nhưng văn học khác với các ngành khoa học khác ở chỗ
nó gắn liền với cảm hứng mạnh mẽ của người nghệ sĩ. Vậy cảm hứng là gì?
Có thể nói, khái niệm cảm hứng đã được đề cập từ lâu trong lí luận nghệ
thuật ở Châu Âu. Và Hê-ghen chính là người đưa ra lý luận tương đối hoàn chỉnh về
nó. Theo ông thì cội nguồn gốc rễ của nghệ thuật chính là cảm hứng. Ông khẳng
định: “Tình cảm tạo nên trung tâm thực sự trên vương quốc chân chính của nghệ
thuật; thể hiện tình cảm là cái chủ yếu trong tác phẩm nghệ thuật, cũng như trong
cảm thụ của công chúng”. [80, tr. 39]. Như vậy, tác phẩm nghệ thuật chính là kết
quả của cảm hứng. Điều này được Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương triển
khai một cách cụ thể và đi đến kết luận: “Cảm hứng là sự thiết tha và nhiệt tình
nồng cháy gợi nên bởi một tư tưởng nào đó.” [15, tr. 208, 209].
Nhà nghiên cứu văn học N. Pôxpêlôp lại quan tâm đến sự chân thực của
cảm hứng. Ông khẳng định: “Ở những tác phẩm không có chiều sâu của hệ vấn đề,
sự lí giải và đánh giá các tính chất sẽ không được nâng lên thành cảm hứng. Ở
những tác phẩm mang tư tưởng giả tạo, cảm hứng chỉ được tạo nên do ý chí chủ
quan của nhà văn và vì vậy cảm hứng sẽ mang tính chất gượng gạo, cố tình.” [79, tr.
152, 153].
Vậy là, dù cách diễn đạt có khác nhau nhưng ta có thể nhận thấy các nhà mĩ
học, các nhà nghiên cứu văn học đều thống nhất khi quan niệm về cảm hứng. Đó
16
chính là một thứ tình cảm mạnh mẽ, đam mê, mang bầu nhiệt huyết nóng hổi của
trái tim người nghệ sĩ hướng về đối tượng phản ánh trong tác phẩm của mình. Cảm
hứng do vậy cũng không thể là một thứ tình cảm giả tạo, hời hợt mà thực sự là một
thứ tình cảm sâu sắc, mãnh liệt. Đó thực sự phải là một tình yêu tha thiết, cũng có
thể là một nỗi đau đớn nát tan hay một sự căm ghét tận xương tủy.
Cuộc sống con người là thế giới muôn màu, chính vì thế, cảm hứng cũng
mang nhiều dạng thức khác nhau. Có cảm hứng bi kịch, cảm hứng hài kịch, cảm
hứng lãng mạn, cảm hứng châm biếm,… Tuy nhiên cảm hứng chủ đạo trong các
tiểu thuyết của Lê Lựu là cảm hứng bi kịch.
Bản chất của sự xuất hiện cái bi chính là sự xung đột. Và những xung đột để
tạo ra cái bi ấy không phải là những xung đột thông thường mà là những xung đột
mang ý nghĩa xã hội, lịch sử, nhân sinh. Một biểu hiện cụ thể dễ thấy khi con người
rơi vào bi kịch theo N. Pôxpêlôp là “người ta trải nghiệm sự căng thẳng và sự lo âu
sâu sắc trong tâm hồn, khiến người ta phải chịu những đau khổ, thường rất nặng
nề”. Những bi kịch ấy chủ yếu ở “những mâu thuẫn và đấu tranh bên trong, nảy sinh
trong ý thức, trong tâm hồn con người.” [70, tr. 170].
1.2.2. Cảm hứng bi kịch trong văn học Việt Nam thời kì đổi mới
Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, phương châm “nhìn thẳng vào sự
thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật” của Đại hội Đảng lần VI đã thực sự khơi
dòng cho nguồn cảm hứng bi kịch đang bị chặn lại trong chiến tranh. Với cảm hứng
bi kịch, các nhà văn đã thăm dò thật sâu vào bên trong đời sống tâm hồn và tình
cảm của con người. Họ phản ánh sự thật mà không hề né tránh dù đó là sự thật khốc
liệt nhất.
Viết về chiến tranh, chúng ta không chỉ thấy những hào quang lấp lánh nữa
mà còn thấy cả những tổn thất mất mát. Con người có thể mất đi một phần hoặc mất
tất cả: gia đình, bạn bè, người thân, mất cuộc sống bình thường,… khiến cho con
người rơi và chuỗi đau đớn đến tuyệt vọng đầy bi kịch. Điều này được thể hiện
trong hàng loạt tác phẩm như: Bến không chồng của Dương Hướng, Cỏ lau của
17
- Xem thêm -