BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ Y TẾ
ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BÙI XUÂN MẠNH
TỶ LỆ RỐI LOẠN TRẦM CẢM CHỦ YẾU
VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN
TRÊN BỆNH NHÂN RỐI LOẠN CƯƠNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2018
.
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
-- -- -- --
BÙI XUÂN MẠNH
TỶ LỆ RỐI LOẠN TRẦM CẢM CHỦ YẾU
VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN
TRÊN BỆNH NHÂN RỐI LOẠN CƯƠNG
Chuyên ngành: NỘI KHOA (TÂM THẦN)
Mã số: 8720107
LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
TS. NGÔ TÍCH LINH
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2018
.
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các số liệu, kết quả trong nghiên cứu này là trung thực và
chưa từng được công bố trong bất kỳ một công trình nghiên
cứu nào.
Tác giả
BÙ I XUÂN MẠNH
.
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU........................................................ 3
1.1
TỔNG QUAN VỀ RỐI LOẠN TRẦM CẢM .................................. 3
1.2
TỔNG QUAN VỀ RỐI LOẠN CƯƠNG ....................................... 13
1.3
CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN RỐI LOẠN TRẦM CẢM
CHỦ YẾU VÀ RỐI LOẠN CƯƠNG .......................................................... 18
CHƯƠNG 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ........... 25
2.1
ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU: ....................................................... 25
2.2
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: .................................................. 25
2.3
GIỚI THIỆU VỀ NƠI THỰC HIỆN NGHIÊN CỨU .................... 30
2.4
VẤN ĐỀ Y ĐỨC ............................................................................ 31
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ................................................... 32
3.1
ĐẶC ĐIỂM BỆNH NHÂN ............................................................. 32
3.2
RỐI LOẠN TRẦM CẢM CHỦ YẾU VÀ CÁC ĐẶC ĐIỂM LIÊN
QUAN TRÊN BỆNH NHÂN RLC ............................................................. 39
CHƯƠNG 4: BÀN LUẬN ............................................................................ 56
4.1
ĐẶC ĐIỂM CHUNG DÂN SỐ NGHIÊN CỨU ............................ 56
4.2
ĐẶC ĐIỂM RỐI LOẠN CƯƠNG TRÊN DÂN SỐ NGHIÊN
CỨU
......................................................................................................... 57
4.3
RỐI LOẠN TRẦM CẢM CHỦ YẾU TRÊN BỆNH NHÂN RỐI
LOẠN CƯƠNG VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN..................................... 61
KẾT LUẬN .................................................................................................... 78
.
KIẾN NGHỊ ................................................................................................... 79
TÀ I LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
.
DANH MỤC VIẾT TẮT VIỆT – ANH
Tiếng Việt:
BN: bệnh nhân.
ĐTĐ: đái tháo đường
RLC: rối loạn cương
RLTCCY: rối loạn trầm cảm chủ yếu
THA: tăng huyết áp.
Tiếng Anh:
DSM-5 (Diagnostic and Statistical Manual of Mental disorders – Fifth
edition): sổ tay chẩn đoán và thống kê các rối loạn tâm thần – Biên tập lần 5.
HAM-D (Hamilton Rating Scale for Depression): Thang đánh giá Hamilton
dành cho trầm cảm.
NaSSA (Noradrenergic and Specific Serotonin Antidepressants): Thuốc chố ng
trầ m cảm noradrenergic và serotonin đă ̣c hiê ̣u.
NARI (Norepinephrine reuptake inhibitors): Thuố c ức chế tái hấ p thu
norepinephrine.
NDRI (Norepinephrine–dopamine reuptake inhibitors): Thuố c ức chế tái hấ p
thu norepinephrine–dopamine.
MAOIs (Monoamine oxidase inhibitors): Các chất ức chế men Monoamine
oxidase.
SNRIs (Serotonin – norepinephrine reuptake inhibitors): Các chất ức chế tái
hấp thu serotonin – norepinephrine.
SSRIs (Selective serotonin reuptake inhibitors): Các chất ức chế tái hấp thu
serotonin có chọn lọc.
TCA (Tricyclic antidepressants): Thuố c chố ng trầm cảm ba vòng.
WHO: World Health Organization (Tổ chức Y tế Thế giới).
.
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1: Nguyên nhân rố i loa ̣n cương .......................................................... 15
Bảng 1.2: Bảng tóm tắ t mô ̣t số nghiên cứu về rố i loa ̣n trầ m cảm trên bê ̣nh nhân
rố i loa ̣n cương ................................................................................................. 21
Bảng 3.1: Số lượng bệnh nhân theo nhóm tuổi (n = 169)............................... 32
Bảng 3.2: Số lượng bệnh nhân theo dân tô ̣c (n = 169) ................................... 33
Bảng 3.3: Số lượng bệnh nhân theo nơi cư ngu ̣ (n = 169) .............................. 33
Bảng 3.4: Số lượng bệnh nhân theo trình đô ̣ ho ̣c vấ n (n = 169) ..................... 33
Bảng 3.5: Số lượng bệnh nhân theo nghề nghiêp̣ (n = 169) ........................... 34
Bảng 3.6: Số lượng bệnh nhân theo trình tra ̣ng hôn nhân (n = 169) .............. 35
Bảng 3.7: Số lượng bệnh nhân theo trình tra ̣ng kinh tế gia điǹ h (n = 169) .... 35
Bảng 3.8: Số lượng bệnh nhân theo mức đô ̣ RLC (n = 169) .......................... 36
Bảng 3.9: Số lượng bệnh nhân theo triêụ chứng RLC (n = 169) .................... 36
Bảng 3.10: Số lượng bệnh nhân theo tiề n sử mắ c các bênh
̣ lý kèm theo (n =
169).................................................................................................................. 38
Bảng 3.11: Bệnh lý nam khoa đồng mắc của bê ̣nh nhân RLC (n = 169) ....... 39
Bảng 3.12: Tiền sử gia đình liên quan RLC và RLTCCY (n = 169) .............. 39
Bảng 3.13: Số lượng bệnh nhân mắ c RLTCCY (n = 169) ............................. 40
Bảng 3.14: Đă ̣c điể m triêụ chứng RLTCCY trên bênh
̣ nhân RLC (24 bệnh
nhân) ................................................................................................................ 40
Bảng 3.15: Số lượng triê ̣u chứng RLTCCY trên mô ̣t bênh
̣ nhân ................... 41
Bảng 3.16: Tỉ lê ̣ bênh
̣ nhân có suy nghi ̃ về cái chế t ....................................... 42
Bảng 3.17: Tình trạng giấc ngủ ở nhóm bệnh nhân RLTCCY kèm RLC ...... 43
.
Bảng 3.18: Đặc điểm các biểu hiện cơ thể ở nhóm bệnh nhân RLTCCY kèm
RLC ................................................................................................................. 44
Bảng 3.19: RLTCCY trên bênh
̣ nhân RLC phân bố theo nhóm tuổ i ............. 44
Bảng 3.20: RLTCCY trên bênh
̣ nhân RLC phân bố theo nơi cư ngụ............. 45
Bảng 3.21: RLTCCY trên bênh
̣ nhân RLC phân bố theo triǹ h đô ̣ ho ̣c vấ n .... 46
Bảng 3.22: RLTCCY trên bênh
̣ nhân RLC theo nhóm nghề nghiê ̣p .............. 46
Bảng 3.23: RLTCCY trên bênh
̣ nhân RLC theo tiǹ h tra ̣ng hôn nhân ............ 47
Bảng 3.24: RLTCCY trên bênh
̣ nhân RLC theo tiǹ h tra ̣ng kinh tế ................ 48
Bảng 3.25: RLTCCY trên bênh
̣ nhân RLC mức đô ̣ RLC ............................... 49
Bảng 3.26: RLTCCY theo than phiề n chủ yế u của bênh
̣ nhân RLC (số điểm ≤3
điểm)................................................................................................................ 50
Bảng 3.27: Số lươ ̣ng triê ̣u chứng RLTCCY và số lươ ̣ng triêụ chứng than phiề n
RLC ................................................................................................................. 51
Bảng 3.28: Tương quan giữa đô ̣ nă ̣ng của RLC theo IIEF-5 và đô ̣ nă ̣ng trầ m
cảm theo HAM-D 17 ....................................................................................... 52
Bảng 3.29: RLTCCY trên bê ̣nh nhân RLC và tiề n sử mắ c các bê ̣nh lý cơ
thể .................................................................................................................... 52
Bảng 3.30: RLTCCY trên bênh
̣ nhân RLC và sử dụng rượu ......................... 53
Bảng 3.31: RLTCCY trên bênh
̣ nhân RLC và lựa cho ̣n thuố c điề u tri ̣của bênh
̣
nhân ................................................................................................................. 54
Bảng 3.32: : RLTCCY trên bênh
̣ nhân RLC và điề u tri ̣RLTCCY ................ 54
Bảng 3.33: RLTCCY trên bênh
̣ nhân RLC và thuố c chố ng trầ m cảm bê ̣nh nhân
đang sử du ̣ng ................................................................................................... 55
.
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biể u đồ 3.1: Phân bố mức đô ̣ RLTCCY trên bênh
̣ nhân RLC ....................... 42
Biể u đồ 3.2: Tuổ i trung bình của 2 nhóm bênh
̣ nhân không mắ c RLTCCY và
mắ c RLTCCY ................................................................................................. 45
Biể u đồ 3.3: Phân bố bênh
̣ nhân RLTCCY theo mức đô ̣ RLC ....................... 49
Biể u đồ 3.4: Phân bố điể m CAGE trên bênh
̣ nhân RLCTCCY kèm RLC ..... 53
.
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
Sơ đồ 2.1: Phương pháp nghiên cứu ............................................................... 26
Sơ đồ 4.1: Mố i quan hê ̣ giữa trầ m cảm – rố i loa ̣n cương – bê ̣nh lý tim ma ̣ch
theo Irwin Goldstein ........................................................................................ 72
.
MỞ ĐẦU
Rối loạn cương là tình trạng nam giới không thể đạt tới hay duy trì được sự
cương dương vật đủ cứng để giao hợp thỏa mãn [59]. RLC là vấn đề tính dục thường
gặp ở nam giới. Nghiên cứu Massachusetts trên nam giới lớn tuổi (MMAS) được tiến
hành trên 1290 đàn ông tuổi từ 40-70 ở Hoa Kỳ, ghi nhận 52% bê ̣nh nhân có RLC
[11]. Tại Việt Nam, tần suất RLC khoảng 15,7% [5]. RLC có ảnh hưởng xấu trên sự
tự tin của bản thân, chất lượng sống và có thể gây tổn hại mối quan hệ vợ chồng, vì
vậy cần được đánh giá và điều trị một cách hiệu quả.
Trầm cảm là một rối loạn khí sắ c hay gặp trong thực hành tâm thần, đồ ng thời
là rố i loa ̣n đồ ng mắ c với nhiề u bê ̣nh lý y khoa khác. Theo dự báo của Tổ chức y tế
thế giới, rối loạn trầm cảm sẽ là nguyên nhân gây mất khả năng lao động đứng hàng
thứ hai vào năm 2020 [62]. Khoảng 45-70% những người tự sát mắc trầm cảm và
15% bệnh nhân trầm cảm chết do tự sát [62]. Trầm cảm là một trong những nguyên
nhân dẫn đến rối RLC [46]. Trầm cảm cũng có một tác động tiêu cực lên chất lượng
cuộc sống, lên tâm lý của người bệnh [11],[47].
Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng RLC và RLTCCY là các rố i loa ̣n có mố i quan
hê ̣ mật thiế t với nhau và đang được quan tâm bởi các các bác sĩ nam khoa và tâm
thần. Mối quan hệ giữa trầm cảm và RLC là hai chiều: sự hiện diện hoặc thay đổi ở
một trong hai rối loạn này có thể là nguyên nhân, hậu quả, hoặc ảnh hưởng đến rối
loạn kia [3],[18]. Thực tế hiện nay, có một tỷ lệ rất thấp các bê ̣nh nhân mắc trầm cảm
được phát hiện bởi các bác sĩ nam khoa và các bác sĩ không chuyên ngành tâm thần
khác. Lee và các cộng sự [10] đã xác định rằng 33% trong số 120 người đàn ông đến
phòng khám ngoa ̣i trú mắ c mô ̣t rối loạn tâm thần nào đó, RLTCCY chiếm 12,5%. Do
đó, việc phát hiện RLTCCY là cần thiết khi đánh giá và điều trị RLC [12], mang đến
nhiều lợi ích cho bệnh nhân.
Ở Việt Nam, cho đến nay trong lĩnh vực tâm thần học và nam khoa chưa có
một công trình nào nghiên cứu, chuyên sâu và có hệ thống các đặc trưng rối loạn trầm
cảm ở bệnh nhân rối loạn cương. Chúng tôi tập trung vào nghiên cứu đặc điểm lâm
.
sàng, các yếu tố liên quan và điều trị các rối loạn trầm cảm ở nhóm bệnh nhân này,
với hy vọng sẽ giúp tăng cường hơn nữa chất lượng chẩn đoán và điều trị, góp phần
nâng cao chất lượng cuộc sống của bệnh nhân.
Xuất phát từ thực tế đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “ Khảo sát tỉ lệ
rối loạn trầm cảm và các yếu tố liên quan trên bệnh nhân rối loạn cương ” với
mục tiêu:
1. Xác định tỷ lệ rối loạn trầm cảm chủ yếu trên bệnh nhân rối loạn cương.
2. Đánh giá một số yếu tố liên quan đế n rối loạn trầm cảm chủ yếu trên bệnh nhân rối
loạn cương.
.
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1
TỔNG QUAN VỀ RỐI LOẠN TRẦM CẢM
1.1.1 Lịch sử nghiên cứu và phân loại trầm cảm:
Sầu uất (Melancholia) là thuật ngữ được dùng đầu tiên trong học thuyết thể
dịch của Hippocrates (460 – 377 trước Công nguyên). Năm 1686, Bonet mô tả một
dạng bệnh tâm thần với tên gọi: Hưng cảm – sầu uất (Maniaco – Melancolicus). Năm
1854 Falret lần đầu tiên mô tả hai trạng thái rối loạn trên cùng một người bệnh trong
một bệnh cảnh chung, được gọi là loạn thần tuần hoàn. Năm 1882 nhà tâm thần học
người Đức Karl Kahlbaum dùng thuật ngữ bệnh khí sắc chu kỳ (Cyclothymia) để mô
tả hưng cảm và trầm cảm là các giai đoạn cảm xúc của cùng một bệnh. Năm 1899
nhà tâm thần học người Đức Kraepelin mô tả thao cuồng và sầu uất là hai hình thái
đối lập nhau trong một bệnh cảnh và đặt tên là loạn thần hưng trầm cảm (PsychoseManico – Depressive). Năm 1950, Kleist phân ra hai thể loạn thần hưng trầm cảm
lưỡng cực và đơn cực. Quan điểm này được chấp nhận cho đến năm 1962 khi Leonard
và cộng sự đề xuất sự phân loại thành ba nhóm: Trầm cảm đơn cực, hưng cảm đơn
cực và những bệnh nhân bị cả rối loạn trầm cảm và hưng cảm (lưỡng cực). Trầm
cảm đã được các nhà tâm thần học mô tả một cách cụ thể hơn vào những năm 80 của
thế kỷ XX với đặc trưng: cảm xúc, hành vi và tư duy đều bị ức chế [44].
Đến năm 1992, Bảng Phân loại bệnh Quốc tế lần thứ 10 ra đời (ICD 10:
International Classification of Diseases), và mô tả trầm cảm là một hội chứng bệnh
lý của rối loạn cảm xúc có đặc điểm là khí sắc trầm, mất quan tâm hay thích thú,
giảm năng lượng dẫn đến mệt mỏi giảm hoạt động, phổ biến là mệt mỏi rõ rệt chỉ sau
một cố gắng nhỏ, tồn tại trong một khoảng thời gian kéo dài ít nhất hai tuần.
Ngày nay, trầm cảm được xem như là yếu tố góp phần chính cho toàn bộ gánh
nặng bệnh tật toàn cầu và ảnh hưởng đến hầu hết mọi người trong tất cả các cộng
đồng trên thế giới. Theo số liệu thống kê của WHO, hiện nay ước tính có khoảng 350
triệu người ở tất cả các độ tuổi đang mắc phải rối loạn này trên toàn thế giới [18].
.
Một nghiên cứu về Sức khỏe tâm thần thế giới (the World Mental Health
survey) thực hiện trên 17 quốc gia tìm thấy rằng cứ khoảng 1 trên 20 người tham gia
nghiên cứu thì báo cáo rằng đã có một giai đoạn trầm cảm xảy ra trong năm trước đó.
Hay nói khác đi thì có khoảng 5 - 17% người trưởng thành trong dân số chung có ít
nhất một cơn trầm cảm chủ yếu trong giai đoạn nào đó của cuộc đời, và tỷ lệ mắc
bệnh ở nữ giới so với nam giới là 2:1 [44].
Tại Việt Nam, theo một nghiên cứu vào năm 2008 của tác giả Đặng Hoàng
Hải [2], tỷ lệ trầm cảm trong dân số thành phố Hồ Chí Minh là 6,5% và tỷ lệ nữ giới
cũng cao hơn gấp đôi so với nam giới có ý nghĩa thống kê (p = 0,002; OR = 2,48).
Có rất nhiều biến thể của trầm cảm, trong đó RLTCCY hay còn gọi trầm cảm đơn
cực được định nghĩa là trong tiền sử không có những giai đoạn hưng cảm, hỗn hợp
hay hưng cảm nhẹ.
Một giai đoạn trầm cảm chủ yếu điển hình phải kéo dài ít nhất hai tuần, với 5
triệu chứng (hay nhiều hơn) trong số 9 triệu chứng, và ít nhất một trong hai triệu
chứng chính là khí sắc trầm cảm hay mất sự quan tâm, thích thú; các triệu chứng còn
lại bao gồm thiếu năng lượng, cảm giác tội lỗi hay tự hạ thấp giá trị bản thân, rối loạn
giấc ngủ hay sự ngon miệng, giảm hoạt động tâm thần vận động, mất tập trung, và tự
sát. Tùy theo số lượng và độ nặng của triệu chứng, mà một giai đoạn trầm cảm có thể
phân loại là nhẹ, vừa, hay nặng. Một cá nhân bị một giai đoạn trầm cảm nhẹ sẽ có
một số khó khăn trong việc tiếp tục thực hiện những công việc hàng ngày hay các
hoạt động xã hội, nhưng các hoạt động chức năng không bị ngừng hoàn toàn. Ngược
lại, trong giai đoạn trầm cảm nặng, rất hiếm khi người bệnh có thể tiếp tục các hoạt
động xã hội, việc làm hay việc nhà thường ngày, hoặc nếu có thì cũng chỉ trong một
mức độ rất hạn chế [44].
1.1.2 Tiêu chuẩn chẩn đoán RLTCCY:
Hiện nay, trên thế giới, các tiêu chuẩn chẩn đoán RLTCCY có thể được áp
dụng dựa trên một trong hai hệ thống phân loại phổ biến nhất, đó là Sổ tay Chẩn đoán
và Thống kê các Rối loạn tâm thần, tái bản lần 5 (DSM-5) vào năm 2013 của Hiệp
.
hội Tâm thần học Hoa Kỳ và Sổ tay Phân loại bệnh tật quốc tế, tái bản lần 11 (ICD11) vào năm 2015.
Nghiên cứu này xin trình bày tiêu chuẩn chẩn đoán của DSM-5 [12]:
A. Có năm (hay nhiều hơn) các triệu chứng sau trong vòng hai tuần và có
một sự thay đổi về các chức năng so với trước đây; ít nhất một trong các triệu
chứng là (1) khí sắc trầm cảm hay (2) mất sự quan tâm, thích thú.
(Ghi chú: không bao gồm các triệu chứng rõ ràng do bệnh lý y khoa khác gây ra)
1. Khí sắc trầm cảm hầu như cả ngày, gần như mỗi ngày, do chính bệnh nhân
kể (Vd. cảm thấy buồn, trống rỗng, vô vọng) hay được quan sát thấy bởi những người
khác (Vd. vẻ ngoài dễ khóc).
2. Giảm sự quan tâm hay thích thú một cách rõ rệt trong tất cả, hay hầu như
tất cả, các hoạt động gần như trong suốt cả ngày, và hầu như mỗi ngày (do chính bệnh
nhân kể hay được quan sát thấy bởi những người khác).
3. Sụt cân đáng kể dù không ăn kiêng hay tăng cân (Vd. thay đổi hơn 5% cân
nặng trong vòng 1 tháng), hay giảm hoặc tăng sự ngon miệng gần như mỗi ngày.
4. Mất ngủ hay ngủ nhiều gần như mỗi ngày.
5. Chức năng tâm thần vận động trở nên kích thích hay chậm chạp gần như
mỗi ngày (có thể quan sát được bởi những người khác, không chỉ là những cảm giác
chủ quan về sự bồn chồn hay trở nên chậm chạp).
6. Mệt mỏi hay mất năng lượng gần như mỗi ngày.
7. Những cảm giác vô dụng hay cảm giác có tội quá mức hay không phù hợp
(có thể là hoang tưởng) gần như mỗi ngày (không chỉ là tự sỉ nhục hay cảm giác có
tội về việc bị bệnh).
8. Suy giảm khả năng suy nghĩ hay tập trung, hay không thể quyết định, gần
như mỗi ngày (do chính bệnh nhân kể hay được quan sát thấy bởi những người khác).
9. Những suy nghĩ lặp đi lặp lại về cái chết (không chỉ là sợ chết), những ý
tưởng tự sát lặp đi lặp lại, không có kế hoạch cụ thể, hoặc có một sự cố gắng tự sát,
hoặc có một kế hoạch rõ ràng để thực hiện hành vi tự sát.
.
Bản quyền tài liệu thuộc về Thư viện Đại học Y Dược TP.Hồ Chí Minh
6
B. Các triệu chứng gây ra những đau khổ đáng kể về mặt lâm sàng hay
suy yếu về mặt xã hội, nghề nghiệp, hay những lĩnh vực chức năng quan trọng
khác.
C. Giai đoạn này không do sự góp phần của những hậu quả sinh lý của
một chất hay một bệnh lý y khoa khác.
Ghi chú: Tiêu chuẩn A – C biểu hiện một giai đoạn trầm cảm chủ yếu.
Ghi chú: Đáp ứng với một mất mát quan trọng (vd: sự chết chóc, sụp đổ tài
chính, mất mát do thiên tai, một bệnh lý cơ thể nặng nề hay tàn phế) có thể cũng có
những cảm giác buồn bã khủng khiếp, kể đi kể lại về nỗi mất mát, mất ngủ, ăn kém,
và sụt cân, như các ghi chú ở tiêu chuẩn A, có thể giống với một giai đoạn trầm cảm.
Mặc dù những triệu chứng này có thể hiểu được và có thể được xem là phù hợp với
hoàn cảnh mất mát, thì vẫn nên cân nhắc một cách cẩn trọng về sự xuất hiện của một
giai đoạn trầm cảm chủ yếu thêm vào trên cái nền phản ứng bình thường đối với một
mất mát nghiêm trọng. Quyết định không thể tránh khỏi này cần thường xuyên thực
hiện khi đánh giá lâm sàng, dựa trên lịch sử của một cá nhân cũng như những chuẩn
mực văn hóa về cách thức thể hiện sự đau buồn trong một hoàn cảnh mất mát.
D. Việc xảy ra giai đoạn trầm cảm chủ yếu này không thể được giải thích
tốt hơn bằng rối loạn phân liệt cảm xúc, tâm thần phân liệt, rối loạn dạng phân
liệt, rối loạn hoang tưởng, phổ tâm thần phân liệt xác định hoặc không xác định
khác và các rối loạn loạn thần khác.
E. Chưa bao giờ có một giai đoạn hưng cảm hoặc hưng cảm nhẹ.
Điều cần lưu ý là các triệu chứng tiêu chí của RLTCCY phải hiện diện hầu
như mỗi ngày thì mới được xem là có triệu chứng đó, ngoại trừ sự thay đổi cân nặng
và ý tưởng tự sát. Khí sắc trầm cảm phải hiện diện gần như hầu hết thời gian trong
ngày, thêm vào đó phải có hầu như mỗi ngày. Triệu chứng mất ngủ và mệt là những
than phiền thường gặp, và sự thất bại trong việc thăm dò những triệu chứng trầm cảm
kèm theo sẽ dẫn đến việc bỏ sót chẩn đoán. Triệu chứng buồn bã có thể bị phủ nhận
lúc ban đầu nhưng có thể được gợi ra trong quá trình hỏi bệnh hoặc được suy ra từ
.
Bản quyền tài liệu thuộc về Thư viện Đại học Y Dược TP.Hồ Chí Minh
7
những biểu hiện của nét mặt và hành vi. Với những cá nhân tập trung vào những than
phiền về mặt thể chất, nhà lâm sàng nên xác định xem liệu nỗi đau đớn từ những than
phiền đó có phối hợp với những triệu chứng trầm cảm đặc hiệu hay không. Mệt và
rối loạn giấc ngủ cũng hiện diện ở phần lớn các trường hợp. Các rối loạn tâm thần
vận động thì ít phổ biến hơn nhiều, nhưng nếu có thì sẽ là biểu hiện của mức độ trầm
trọng của bệnh xét về khía cạnh tổng thể, cũng giống như khi có sự hiện diện của các
triệu chứng hoang tưởng hay những mặc cảm tội lỗi gần như hoang tưởng [12].
Đặc điểm chủ yếu của một giai đoạn trầm cảm là một giai đoạn kéo dài ít nhất
hai tuần; trong suốt thời gian đó bệnh nhân có thể có khí sắc trầm cảm hoặc mất sự
quan tâm, thích thú trong gần như toàn bộ các hoạt động. Bệnh nhân cũng phải có
thêm ít nhất bốn triệu chứng khác trong danh sách bao gồm thay đổi sự ngon miệng
hay cân nặng, giấc ngủ và các hoạt động tâm thần vận động; giảm năng lượng; cảm
giác không xứng đáng hay mặc cảm tội lỗi; khó khăn trong việc suy nghĩ, tập trung,
hay ra quyết định; hay các suy nghĩ lặp đi lặp lại về cái chết hay những ý tưởng tự sát
hay những kế hoạch tự sát hay những cố gắng tự sát. Để được tính là một giai đoạn
trầm cảm chủ yếu, một triệu chứng phải hiện diện hầu hết thời gian trong ngày, gần
như mỗi ngày, trong ít nhất hai tuần liên tiếp (tiêu chuẩn A). Ngoài ra, còn kèm theo
các đau khổ trầm trọng về mặt lâm sàng, suy giảm các hoạt động chức năng xã hội,
nghề nghiệp hay các lĩnh vực quan trọng khác. Đối với những cá nhân có mức độ
nhẹ, những hoạt động chức năng có thể có vẻ bình thường, nhưng cần tăng cố gắng
một cách đáng kể (tiêu chuẩn B). Hơn nữa, giai đoạn này phải không do sự góp phần
của những hậu quả sinh lý của một chất hay một bệnh lý y khoa khác (tiêu chuẩn C).
Cuối cùng, để thật sự chẩn đoán là một RLTCCY, bệnh nhân còn phải thỏa đủ tất cả
các điều kiện của các tiêu chuẩn còn lại. Nghĩa là, giai đoạn trầm cảm chủ yếu này
không thể được giải thích tốt hơn rối loạn phân liệt cảm xúc, tâm thần phân liệt, rối
loạn dạng phân liệt, rối loạn hoang tưởng, phổ tâm thần phân liệt xác định hoặc không
xác định khác và các rối loạn loạn thần khác (tiêu chuẩn D). Chưa bao giờ có một
giai đoạn hưng cảm hoặc hưng cảm nhẹ (tiêu chuẩn E).
.
Bản quyền tài liệu thuộc về Thư viện Đại học Y Dược TP.Hồ Chí Minh
8
Phân loại mức độ rối loạn trầm cảm dựa vào ảnh hưởng của các triệu chứng
lên các chức năng nghề nghiệp xã hội và sự có mặt của các triệu chứng loạn thần. Có
bốn mức độ như sau [12]:
Mức độ nhẹ: khi các triệu chứng chỉ làm suy giảm không đáng kể chức năng
nghề nghiệp hoặc những hoạt động xã hội thông thường hoặc trong mối quan
hệ với những người khác.
Mức độ vừa: các triệu chứng và mức độ suy giảm chức năng giữa mức độ nhẹ
và nặng.
Mức độ nặng không có các triệu chứng loạn thần: các triệu chứng gây ảnh
hưởng đáng kể đến các chức năng nghề nghiệp hoặc với các hoạt động xã hội
thông thường hoặc trong mối quan hệ với người khác.
Mức độ nặng với các triệu chứng loạn thần: có kèm theo hoang tưởng và ảo
giác.
1.1.3 Thuố c chố ng trầ m cảm SSRIs và rối loạn chức năng tình dục [44]
Thuốc ức chế tái hấp thu chọn lọc serotonine (serotonine selective reuptake
inhibitor – SSRI) đầu tiên được phát hiện năm 1987 là fluoxetine làm thay đổi thái
độ về điều trị hoá dược với trầm cảm. Lý do đầu tiên là do tác dụng phụ của fluoxetine
thường được dung nạp tốt hơn những thuốc điều trị trước đây, như thuốc chống trầm
cảm ba vòng (TCA) và thuốc ức chế MAO (MAOI) và tính đơn giản trong liều dùng
fluoxetine.
Sau đó, những thuốc SSRI khác được phát hiện, có cùng đặc tính cơ bản của
fluoxetine. Từ 1990, danh sách các chỉ định điều trị được chứng thực cho những thuốc
xếp trong nhóm này mở rộng thêm, không chỉ là trầm cảm, như: rối loạn ám ảnh
cưỡng chế (OCD), rối loạn hoảng loạn, rối loạn lo âu lan toả, rối loạn loạn cảm trước
kì kinh, rối loạn lo âu xã hội và rối loạn ăn uống. Tất cả các thuốc SSRI có hiệu quả
tương đương để điều trị các rối loạn này.
.
Bản quyền tài liệu thuộc về Thư viện Đại học Y Dược TP.Hồ Chí Minh
9
Các thuốc SSRI có cấu trúc hoá học khác biệt nhau, nhưng escitalopram là
ngoại lệ, là dạng đồng phân của citalopram. Tính đa dạng về phân tử giải thích được
tại sao có cá nhân đáp ứng và dung nạp với các thuốc SSRI khác nhau.
Sự khác biệt quan trọng nhất giữa các SSRI là thời gian bán huỷ trong huyết
tương có thay đổi rộng. Tất cả các SSRI được chuyển hoá ở gan do men cytocrome
P450 (CYP). Nhưng do các SSRI có chỉ số trị liệu rộng nên hiếm khi những thuốc
khác gây tăng vấn đề nồng độ của các SSRI. Tương tác thuốc quan trọng nhất với
SSRI là làm ức chế chuyển hoá SSRI nếu dùng đồng thời. Các SSRI đều có khả năng
gây ức chế chuyển hoá của khá nhiều thuốc.
Các thuốc SSRI được cho là có hiệu quả trị liệu thông qua ức chế tái hấp thu
5-HT. Thuốc cũng ít ảnh hưởng đến tái hấp thu norepinephrine hay dopamine. Thông
thường tác động lâm sàng thích hợp, sự bảo hoà chất vận chuyển 5-HT đều đạt được
ngay từ liều khởi đầu. Về nguyên tắc, liều cao cũng không làm tăng hiệu quả điều trị
chống trầm cảm nhưng có thể làm tăng nguy cơ bị tác dụng phụ.
Nhiề u thuốc SSRI được chấp nhận trong điều trị trầm cảm. Một số nghiên cứu
cho thấy các thuốc chống trầm cảm có tác động lên serotonine hoặc/và
norepinephrine, như MAOI, TCA, venlafaxine, mirtazapine đạt hiệu quả hồi phục
bệnh cao hơn so với SSRI trong các nghiên cứu đối đầu (so sánh). SSRI được chọn
là thuốc đầu tay trong điều trị chỉ vì sử dụng đơn giản, an toàn và phổ hoạt động rộng.
So sánh trực tiếp, đơn độc thì một thuốc SSRI không bộc lộ bất cứ ưu điểm
nào so với thuốc SSRI khác. Tuy nhiên, tính đa dạng rõ ràng là do khả năng đáp ứng
của bệnh nhân với các SSRI khác nhau. Ví dụ: hơn 50% đáp ứng kém với một thuốc
SSRI có thể đáp ứng tốt với một thuốc SSRI khác. Do đó, trước khi thay đổi bằng
một thuốc chống trầm cảm không phải SSRI, nên thử tất cả các thuốc SSRI khác khi
bệnh nhân đã không đáp ứng với thuốc SSRI sử dụng đầu tiên. Một số bác sĩ lâm
sàng cố gắng chọn một thuốc SSRI đặc biệt cho những bệnh nhân chuyên biệt dựa
trên danh sách tác dụng phụ của riêng từng thuốc. Ví dụ: fluoxetine là một thuốc SSRI
có tác động kích thích, một số bác sĩ sẽ thừa nhận rằng chọn sử dụng fluoxetine sẽ có
.
Bản quyền tài liệu thuộc về Thư viện Đại học Y Dược TP.Hồ Chí Minh
10
hiệu quả tốt hơn với bệnh nhân bị mất ý chí, hơn là dùng SSRI có tác dụng an thần.
Tuy nhiên sự khác biệt này thường thay đổi tuỳ theo bệnh nhân.
Các thuốc SSRI an toàn và dung nạp tốt với người già và người có bệnh thực
thể. Như cách phân loại, thuốc SSRI có ít hoặc không gây độc cho tim, tác dụng phụ
kháng cholinergic, kháng histamine hoặc tác dụng phụ inotropic adrenergic. Riêng
paroxetine có hoạt tính kháng cholinergic, nên có thể gây táo bón, làm suy giảm nhận
thức. Các SSRI có thể gây suy giảm nhận thức rất nhẹ, kéo dài thời gian tuần hoàn
máu, giảm natri máu và điều này có thể ảnh hưởng đến sức khoẻ những bệnh nhân
điều trị bằng SSRI. Các SSRI còn có hiệu quả đến trầm cảm sau đột quỵ và làm giảm
kịch tính tình trạng hay khóc lóc.
Xuất tinh sớm: hiệu quả dươ ̣c lý của SSRI được lợi dụng để điều trị cho nam
giới bị chứng xuất tinh sớm. Thuốc SSRI cho phép kéo dài thời gian giao hợp và cải
thiện sự thoả mãn tình dục cho những cặp vợ chồng mà người chồng bị xuất tinh sớm.
Fluoxetine và sertraline có ích cho việc sử dụng nhằm mục đích này.
Rối loạn chức năng tình dục: tất cả các thuốc SSRI đều gây rối loạn chức
năng tình dục và là tác dụng phụ thường gặp nhất của SSRI khi sử dụng lâu dài. Tần
suất mới mắc của tác dụng phụ này khoảng 50 – 80%. Than phiền thường nhất là
giảm cực khoái, ức chế tình trạng cực khoái, giảm ham muốn tình dục. Một số nghiên
cứu đề nghị rằng rối loạn chức năng tình dục có liên quan đến liều sử dụng, nhưng
mối liên quan này cũng không rõ ràng lắm. Không giống như hầu hết các tác dụng
phụ khác do SSRI, ức chế tình dục hiếm khi hồi phục sau vài tuần đầu điều trị, nhưng
thường kéo dài cùng với thời gian sử dụng thuốc. Ở một số trường hợp, tình trạng
này có thể cải thiện theo thời gian.
Chiến lược chống lại rối loạn tình dục do SSRI được đề cập đến rất nhiều
nhưng không chiến lược nào chứng mình được hiệu quả. Một số nghiên cứu đề nghị
giảm liều SSRI và thêm bupropion vào. Các nghiên cứu cũng mô tả những thành công
trong điều trị rối loạn tình dục do SSRI bằng sildenafil (Viagra), có hiệu quả điều trị
rối loạn chức năng cương. Cuối cùng thì bệnh nhân cũng phải đổi sang thuốc chống
.
- Xem thêm -