Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tỷ lệ mất ngủ và những yếu tố liên quan ở phụ nữ quanh tuổi mãn kinh đến khám tạ...

Tài liệu Tỷ lệ mất ngủ và những yếu tố liên quan ở phụ nữ quanh tuổi mãn kinh đến khám tại bệnh viện từ dũ

.PDF
72
1
88

Mô tả:

. THÔNG TIN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CẤP TRƯỜNG 1. Thông tin chung: - Tên đề tài: TỶ LỆ MẤT NGỦ VÀ NHỮNG YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở PHỤ NỮ QUANH TUỔI MÃN KINH ĐẾN KHÁM TẠI BỆNH VIỆN TỪ DŨ - Mã số: 218/18 - Chủ nhiệm đề tài: Võ Minh Tuấn, Điện thoại: 0909727199 Email: [email protected] - Đơn vị quản lý về chuyên môn (Khoa, Tổ bộ môn): BM Sản-Khoa Y - Thời gian thực hiện: 2018-2020 2. Mục tiêu: - Xác định tỷ lệ mất ngủ qua chẩn đoán sàng lọc ở những phụ nữ đến khám phụ khoa định kỳ tại Bệnh viện Từ Dũ trong khoảng thời gian từ 10/2017 đến 12/2017. - Khảo sát những yếu tố liên quan với mất ngủ ở phụ nữ đến khám phụ khoa định kỳ tại Bệnh viện Từ Dũ. 3. Nội dung chính: 386 trường hợp được thu nhận vào nghiên cứu, tỷ lệ mất ngủ là 27.72%. Mất ngủ liên quan với tuổi tác khi so giữa nhóm tuổi 45-49 và 50-52 (PR = 1.9; KTC 95% = 1.1 – 3.5), kinh tế (PR = 2.99; KTC 95% = 1,2 – 7.6), cơn bốc hỏa (PR = 3.65; KTC 95% = 2 – 6.6). Những phụ nữ quanh tuổi mãn kinh nên được tầm soát mất ngủ để có hướng tư vấn và điều trị sớm. 4. Kết quả chính đạt được (khoa học, đào tạo, kinh tế-xã hội, ứng dụng, ...):  Về đào tạo (số lượng, chuyên ngành: trình độ BS/DS/CN, ThS, NCS…): Đào tạo thành công 1 ThS  Công bố trên tạp chí trong nước và quốc tế (tên bài báo, tên tạp chí, năm xuất bản): Tỷ lệ mất ngủ và những yếu tố liên quan ở phụ nữ quanh tuổi mãn kinh đến khám tại bệnh viện Từ Dũ. Y học Việt Nam (ISSN 1859-1868); tập 466: số 2, tháng 4/2018: Trang 76-79.  Sách/chương sách (Tên quyển sách/chương sách, năm xuất bản): Chưa  Patent, Giải pháp hữu ích (tên; trình trạng nộp đơn đối với giải pháp chưa đăng ký sở hữu trí tuệ; mã số, ngày cấp, thời gian bảo hộ đối với patent và giải pháp đã đăng ký sở hữu trí tuệ): Chưa 5. Hiệu quả kinh tế - xã hội do đề tài mang lại:  Kết quả nghiên cứu được chuyển giao (Tên sản phẩm, tên đơn vị nhận chuyển giao, giá trị chuyển giao): Chưa  Phạm vi và địa chỉ ứng dụng kết quả nghiên cứu (tên đơn vị ứng dụng kết quả nghiên cứu/tên bài giảng được trích dẫn kết quả NC sử dụng trong giảng dạy đại học và sau đại học): Sử dụng bài báo và số liệu nghiên cứu cho giảng dạu y học thực chứng phần Bệnh lý phụ khoa Mãn kinh . . (Mẫu trang bìa của báo cáo tổng kết đề tài NCKH cấp Trường) BỘ Y TẾ ĐẠI HỌC Y DƯỢC TP. HỒ CHÍ MINH BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CẤP TRƯỜNG TỶ LỆ MẤT NGỦ VÀ NHỮNG YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở PHỤ NỮ QUANH TUỔI MÃN KINH ĐẾN KHÁM TẠI BỆNH VIỆN TỪ DŨ Mã số: <218/18> Chủ nhiệm đề tài: PGS.TS. Võ Minh Tuấn Tp. Hồ Chí Minh, 3/2019 . . (Mẫu trang bìa phụ của báo cáo tổng kết đề tài NCKH cấp Trường) BỘ Y TẾ ĐẠI HỌC Y DƯỢC TP. HỒ CHÍ MINH BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CẤP TRƯỜNG TỶ LỆ MẤT NGỦ VÀ NHỮNG YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở PHỤ NỮ QUANH TUỔI MÃN KINH ĐẾN KHÁM TẠI BỆNH VIỆN TỪ DŨ Mã số: <218/18> Chủ nhiệm đề tài (ký, họ tên) Tp. Hồ Chí Minh, 3/2019 . . MỤC LỤC ................................................................................................................................ Trang TRANG PHỤ BÌA LỜI CAM ĐOAN DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TIẾNG ANH DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TIẾNG VIỆT BẢNG ĐỐI CHIẾU VIỆT - ANH DANH MỤC CÁC BẢNG, ĐỒ THỊ ĐẶT VẤN ĐỀ ................................................................................................................ 1 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU .......................................................................................... 1 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN Y VĂN ............................................................................ 3 1.1 .................................................................................................... Giấc ngủ 3 1.2 ....................................................................................... Rối loạn mất ngủ 4 1.3 ................................................................................................... Mãn kinh16 1.4 ........................................................... Đặc điểm nơi tiến hành nghiên cứu23 CHƯƠNG 2 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ........................................................ 25 2.1 ................................................................................... Thiết kế nghiên cứu25 2.2 ..................................................................................... Dân số nghiên cứu25 2.3 ................................................................................ Tiêu chuẩn chọn mẫu25 2.4 .................................................................................... Tiêu chuẩn loại trừ25 2.5 ..................................................................................................... Cỡ mẫu25 2.6 ................................................... Phương pháp thu thập và quản lý số liệu26 2.7 ........................................................................................ Phân tích số liệu31 2.8 ............................................................................ Công cụ thu thập số liệu31 2.9 .................................................................................... Biến số nghiên cứu33 2.10 ....................................................................... Đạo đức trong nghiên cứu35 CHƯƠNG 3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU................................................................... 36 CHƯƠNG 4 BÀN LUẬN .......................................................................................... 45 4.1 ........................................................................... Phương pháp nghiên cứu45 4.2 ................................................................................... Kết quả nghiên cứu47 4.3 ............................................................................ Hạn chế của nghiên cứu53 4.4 .......................................................................... Ứng dụng của nghiên cứu53 KẾT LUẬN .................................................................................................................. 55 KIẾN NGHỊ ................................................................................................................. 56 TÀI LIỆU THAM KHẢO . . DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TIẾNG ANH AACE AFC AMH APA DSM-5 DSM-IV-TR ESS FMP FSH ICD-10 ICSD-2 ICSD-3 ISI LH MENQOL NREM PSQI REM STRAW+10 SWAN WHO American Assiciation of Clinical Endocrinologists Antral Follicle Count Anti-Müller Hormone American Psychiatric Association Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders – Fifth Edition Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders- Fourth Edition (Text Revision) Epworth Sleepiness Scale Final Menstrual Period Follicle-stimulating hormone The International Classification of Diseases Revision 10 The International Classification of Sleep Disorders – Second Edition the International Classification of Sleep Disorders – Third Edition Insomnia Severity Index Luteinizing hormone Menopause Specific Quality Of Life questionnaire Non-Rapid Eye Movement sleep Pittsburgh Sleep Quality Index Rapid Eye Movement Stages of Reproductive Aging Workshop +10 The Study of Women’s Health Across the Nation World Health Organization . . DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TIẾNG VIỆT BS ĐMK KTC MN TPHCM Bác sĩ Đa miên ký Khoảng tin cậy Mất ngủ Thành phố Hồ Chí Minh . . BẢNG ĐỐI CHIẾU VIỆT - ANH Bảng câu hỏi đánh giá chất lượng cuộc sống của phụ nữ mãn kinh Chỉ số chất lượng giấc ngủ Pittsburgh Chỉ số trầm trọng mất ngủ Đa miên ký Giấc ngủ có cử động nhãn cầu nhanh Giấc ngủ không có cử động nhãn cầu nhanh Hệ thống chẩn đoán và thống kê các rối loạn tâm thần phiên bản thứ 5 Hệ thống chẩn đoán và thống kê các rối loạn tâm thần phiên bản thứ 4 Hiệp hội các chuyên gia Nội tiết lâm sàng Mỹ Hiệp hội tâm thần Mỹ Hội chứng Chân không yên Hội chứng Ngưng thở khi ngủ Hội thảo về phân chia giai đoạn của tuổi sinh sản năm 2011 Kỳ kinh cuối cùng Mãn kinh Mãn kinh sớm Nghiên cứu về sức khỏe phụ nữ xuyên quốc gia Những triệu chứng rối loạn vận mạch Nội tiết tố kích thích nang noãn Nội tiết tố tạo hoàng thể Phân loại quốc tế về bệnh tật phiên bảng lần thứ 10 Phân loại quốc tế về rối loạn giấc ngủ phiên bản thứ 2 Phân loại quốc tế về rối loạn giấc ngủ phiên bản thứ 3 Siêu âm đếm nang thứ cấp Thang điểm buồn ngủ Epworth Tổ chức y tế thế giới . Menopause Specific Quality Of Life questionnaire Pittsburgh Sleep Quality Index Insomnia Severity Index Polysomnography Rapid Eye Movement sleep Non-Rapid Eye Movement sleep Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders – Fifth Edition Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders- Fourth Edition (Text Revision) American Assiciation of Clinical Endocrinologists American Psychiatric Association Restless Legs Syndrome Sleep Apnes Syndrome Stages of Reproductive Aging Workshop +10 Final Menstrual Period Menopause Premature menopause The Study of Women’s Health Across the Nation Vasomotor symptoms Follicle-stimulating hormone Luteinizing hormone The International Classification of Diseases Revision 10 The International Classification of Sleep Disorders – Second Edition The International Classification of Sleep Disorders – Third Edition Antral Follicle Count Epworth Sleepiness Scale World Health Organization . DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 1.1 Độ nhạy và độ đặc hiệu trong chẩn đoán MN theo các yếu tố của ĐMK . 10 Bảng 1.2 Độ nhạy, độ đặc hiệu, các giá trị tiên đoán của các tiêu chuẩn chẩn đoán 11 Bảng 1.3 Vùng dưới đường cong (AUC) của 4 công cụ ......................................... 15 Bảng 1.4 Tỷ lệ mất ngủ, điểm cắt độ nhạy, độ đặc hiệu của các công cụ ................ 15 Bảng 1.5 Chỉ số trầm trọng mất ngủ ISI ................................................................. 15 Bảng 1.6 Các giai đoạn của tuổi sinh sản ............................................................... 18 Bảng 2.1 Các biến số thu thập ............................................................................... 33 Bảng 3.1 Đặc điểm dân số – xã hội của đối tượng nghiên cứu ............................... 36 Bảng 3.2 Đặc điểm những triệu chứng kinh nguyệt của đối tượng tham gia nghiên cứu ............................................................................................................. 37 Bảng 3.3 Tỷ lệ mất ngủ theo tiêu chuẩn chẩn đoán DSM-5.................................... 38 Bảng 3.4 Liên quan giữa mất ngủ với các đặc điểm của đối tượng nghiên cứu ...... 39 Bảng 3.5 Phân tích đa biến giữa các đặc điểm và mất ngủ ..................................... 43 Bảng 4.1 Tỷ lệ mất ngủ trên phụ nữ quanh tuổi mãn kinh ...................................... 47 Bảng 4.2 Liên quan giữa tuổi đối tượng tham gia và mất ngủ ................................ 48 Bảng 4.3 Liên quan giữa yếu tố trình độ học vấn và mất ngủ ................................. 49 Bảng 4.4 Liên quan giữa yếu tố nghề nghiệp và mất ngủ ....................................... 49 Bảng 4.5 Liên quan giữa yếu tố tình trạng kinh tế và mất ngủ ............................... 49 Bảng 4.6 Liên quan giữa yếu tố tình trạng hôn nhân và mất ngủ ............................ 50 Bảng 4.7 Liên quan giữa triệu chứng bốc hỏa (rối loạn vận mạch) và mất ngủ ...... 51 Bảng 4.8 Liên quan giữa tình dục và mất ngủ ........................................................ 52 . . DANH MỤC CÁC ĐỒ THỊ Đồ thị 1.1 Đường cong ROC cho 4 công cụ tầm soát mất ngủ ............................... 14 Đồ thị 3.1 Tỷ lệ mất ngủ theo tiêu chuẩn DSM-5 ................................................... 39 . . ĐẶT VẤN ĐỀ Ngày nay, tuổi thọ của loài người càng được kéo dài hơn. Chính vì vậy, phụ nữ trong tương lai có thể sẽ dành nhiều hơn một phần ba thời gian suốt cuộc đời của họ để trải qua giai đoạn tiền mãn kinh và mãn kinh. Điều này tiềm ẩn những chuỗi phiền phức về thể chất lẫn tinh thần bởi những triệu chứng liên quan đến mãn kinh [8],[53]. Những khó khăn về giấc ngủ, điển hình là việc thức dậy giữa đêm, là một trong những than phiền chủ yếu trong thời kỳ tiền mãn kinh và mãn kinh, hiện diện ở 40 – 60% phụ nữ [35]. Đồng thời, đây cũng là một trong những vấn đề sức khỏe hàng đầu của phụ nữ trong giai đoạn này[83]. Mất ngủ nếu không được chẩn đoán và điều trị thì sẽ gây ra những tác động không tốt đến thể chất như cao huyết áp, đột quỵ, đái tháo đường [15] và tâm thần như trầm cảm [33]. Tuy nhiên, mất ngủ thường bị đánh giá chưa đúng mức vì đây là một chẩn đoán mang tính chủ quan. Ngoài ra, việc kết hợp nhiều yếu tố nguyên nhân đã làm cho việc nhìn nhận và điều trị mất ngủ gặp khó khăn. Gánh nặng kinh tế gây ra do mất ngủ là đáng kể vì nó gây giảm năng suất làm việc và tăng sử dụng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe của người mắc phải [15]. Trong quá trình điều trị những bệnh lý thực thể, giấc ngủ và chất lượng sống cũng đóng vai trò hết sức quan trọng trong quá trình lành bệnh. Do đó, ngủ không đầy đủ sẽ ảnh hưởng đến thời gian cũng như kết quả điều trị cho người bệnh. Chất lượng giấc ngủ sẽ giảm dần khi con người già đi và tình trạng mãn kinh dường như đã làm cho quá trình này càng nặng nề hơn. Nhiều phụ nữ đã ghi nhận các vấn đề về giấc ngủ xảy ra khi họ bước vào giai đoạn mãn kinh [43]. Theo WHO, vào năm 1996 ước tính có khoảng 500 triệu phụ nữ từ 50 tuổi trở lên và con số này nhiều khả năng sẽ đạt 1.2 tỉ người vào năm 2030. Chính vì vậy mà gánh nặng kinh tế từ những vấn đề gây ra do những triệu chứng trong thời kỳ mãn kinh như mất ngủ được dự đoán sẽ càng tăng lên [90]. Hiện nay, cơ chế liên quan giữa sự xuất hiện mất ngủ và giai đoạn mãn kinh vẫn còn chưa rõ ràng [77]. Khi càng lớn tuổi, bệnh lý và các yếu tố liên quan đến tuổi tác cũng có thể góp phần tạo nên những vấn đề của giấc ngủ ví dụ như những rối loạn tâm trạng, cảm xúc, tăng cân, rối loạn nhịp thở và hội chứng “Chân không yên” [35]. Bên cạnh đó, trung niên cũng là độ tuổi mà con người thường phải đối mặt với những áp lực trong cuộc sống như ly dị, góa bụa hay vấn đề về con cái và tất cả những lý do đó cũng có thể tác động không tốt lên chất lượng giấc ngủ của họ. Tuy nhiên, phần đông phụ nữ mãn kinh vẫn thường mất ngủ dù không có những rối loạn cảm xúc hay tình trạng bệnh tật nào [45]. Ở Việt Nam, hiện vẫn chưa có nhiều nghiên cứu về tỷ lệ mất ngủ, nhất là tỷ lệ mất ngủ ở phụ nữ mãn kinh. Chính vì vậy, với mục tiêu tìm hiểu rõ hơn tình trạng mất ngủ ở nhóm phụ nữ quanh tuổi mãn kinh đến khám tại bệnh viện Từ Dũ, câu hỏi nghiên cứu của chúng tôi là: “Tỷ lệ mất ngủ ở phụ nữ quanh tuổi mãn kinh đến khám tại bệnh viện Từ Dũ là bao nhiêu?” MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU . . 1. Mục tiêu chính Xác định tỷ lệ mất ngủ ở những phụ nữ quanh tuổi mãn kinh đến khám tại bệnh viện Từ Dũ. 2. Mục tiêu phụ Khảo sát những yếu tố liên quan với mất ngủ ở nhóm phụ nữ quanh mãn kinh tại bệnh viện Từ Dũ. . . CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN Y VĂN 1.1 Giấc ngủ 1.1.1 Giới thiệu về khái niệm giấc ngủ Ngủ xảy ra ở tất cả các loài động vật từ côn trùng cho đến động vật có vú. Giấc ngủ là một trong những hành động chiếm nhiều thời gian nhất của chúng ta vì con người có thể sẽ phải dành một phần ba cuộc đời để ngủ. Mặc dù chức năng chính xác của giấc ngủ đến nay vẫn chưa được thấu hiểu nhưng rõ ràng ngủ rất cần thiết cho mọi người ở tất cả các lứa tuổi khác nhau. Giấc ngủ đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong lâm sàng về tâm thần vì rối loạn giấc ngủ thường gặp trong đa số các bệnh tâm thần và là một trong những chẩn đoán hay gặp nhất [1]. Giấc ngủ xảy ra dưới sự kiểm soát tích cực của não bộ và là một phần cơ bản không thể tách rời trong đời sống hàng ngày của con người. Rối loạn giấc ngủ có thể là nguyên phát do sự rối loạn cơ chế điều hòa giấc ngủ hoặc thứ phát, hậu quả từ triệu chứng của các bệnh lý tiềm ẩn khác [2]. 1.1.2 Sinh lý học của giấc ngủ Điện não đồ là công cụ hữu hiệu để nghiên cứu giấc ngủ và có thể được thực hiện cả trong và ngoài giấc ngủ. Dựa vào điện não đồ, giấc ngủ được chia làm hai giai đoạn chính: ngủ không có vận động nhãn cầu nhanh (NREM) và ngủ có vận động nhãn cầu nhanh (REM). Hai giai đoạn này thay đổi theo chu kỳ khoảng 90 phút và thay đổi theo từng giai đoạn của cuộc đời con người. Ở trẻ sơ sinh, giấc ngủ REM chiếm tới 50% tổng thời gian. Chúng ngủ đến 16 giờ mỗi ngày với những lần thức ngắn và giai đoạn REM xuất hiện trực tiếp mà không theo trình tự từ giai đoạn 1 đến 4. Trẻ 4 tháng đến 1 tuổi, tổng giấc ngủ REM chỉ còn khoảng 40% thời gian ngủ và xảy ra sau giai đoạn NREM. Đến khi trở thành thanh niên, giai đoạn ngủ NREM chiếm 75% và REM chiếm 25%. Tỷ lệ này thường sẽ không thay đổi nữa và ở người lớn tuổi, thời gian ngủ giảm là do giảm cả độ dài REM lẫn NREM [2]. 1.1.2.1 Giấc ngủ không có vận động nhãn cầu nhanh (non-Rapid Eye Movement sleep –NREM) Ở người bình thường, giấc ngủ NREM là trạng thái yên tĩnh, nhịp tim thường giảm 5 - 10 nhịp mỗi phút so với lúc thức và rất đều. Nhịp thở và huyết áp cũng có xu hướng giảm. Giấc ngủ NREM chiếm 75% thời gian ngủ và được chia làm 4 giai đoạn:  Giai đoạn 1: chiếm 5%, chuyển tiếp từ thức sang ngủ.  Giai đoạn 2: chiếm 45%, bắt đầu giấc ngủ, ngủ chưa sâu, người ngủ yên tĩnh, không thấy cử động.  Giai đoạn 3: chiếm 12%, ngủ sâu.  Giai đoạn 4: chiếm 13%, ngủ rất sâu. Hiện nay, giai đoạn 3 và 4 được gộp lại, gọi chung là giấc ngủ sâu. Đây là thời điểm con người rất khó bị đánh thức. Tuy nhiên, người ngủ khi thức giấc lúc này sẽ bị rối loạn định hướng, ý nghĩ rất lộn xộn, sau đó thì họ quên mất mọi việc . . xảy ra lúc bấy giờ. Các rối loạn xảy ra trong giai đoạn này có thể là kết quả của các vấn đề đặc biệt bao gồm đái dầm, ác mộng và hoảng hốt trong giấc ngủ [1]. 1.1.2.2 Giấc ngủ có vận động nhãn cầu nhanh (Rapid Eye Movement-REM) Khác biệt với giấc ngủ NREM, giấc ngủ REM có đặc điểm là các hoạt động của não và các chức năng sinh lý hiện diện giống như lúc đang thức tỉnh. Giai đoạn này chiếm 25% thời gian ngủ và thường xuất hiện sau 70 – 90 phút kể từ khi bắt đầu giấc ngủ, kéo dài khoảng 10 phút. Trong giai đoạn này, trương lực cơ toàn thân sẽ giảm hơn so với lúc thức, ở đàn ông thường có biểu hiện cương cứng dương vật và dòng máu qua các cơ quan bao gồm cả não đều giảm nhẹ. Ngoài ra, não tăng sử dụng oxy, nồng độ CO2 giảm đi do thông khí tăng, thân nhiệt dao động. Thay đổi thân nhiệt trong giấc ngủ REM là do rối loạn các quá trình cân bằng nhiệt như rùng mình và ra mồ hôi. Có từ 4 đến 6 chu kỳ giấc ngủ không vận động nhãn cầu nhanh luân phiên với giấc ngủ có vận động nhãn cầu nhanh xảy ra trong suốt đêm. Càng về khuya, giai đoạn ngủ có vận động nhãn cầu nhanh càng trở nên dài hơn [1]. 1.1.3 Ý nghĩa và chức năng sinh lý của giấc ngủ Bằng nhiều phương pháp khác nhau, người ta đã kết luận rằng các chức năng của cơ thể đều giảm đi trong giấc ngủ sâu. Nhờ giấc ngủ NREM mà cơ thể sau khi trải qua hoạt động thể lực nặng nề sẽ có cơ hội điều hòa lại trong quá trình chuyển hóa [1] .Thêm vào đó, giấc ngủ cũng đóng vai trò bảo vệ các tế bào thần kinh trong não bộ khỏi bị suy kiệt vì hoạt động kéo dài [5]. Ngoài ra, một số ý kiến còn cho rằng pha ngủ nhanh có rất nhiều tác dụng như: tẩy sạch khỏi tế bào thần kinh những chất chuyển hóa bị tích tụ trong các giai đoạn khác của chu kỳ thức – ngủ; giúp cho giai đoạn phục hồi hoạt động của tế bào thần kinh có thể diễn ra; bảo đảm việc loại trừ các thông tin không cần thiết mà não bộ đã thu vào, do đó tạo điều kiện cho quá trình tiếp nhận thông tin mới được dễ dàng hơn; bảo đảm cho quá trình chuyển đổi trí nhớ ngắn hạn thành trí nhớ dài hạn; bảo đảm cho cơ chế của giấc ngủ mơ, nhằm giải quyết những “phản ứng cảm xúc đang diễn ra” và sự thích nghi tối ưu của cơ thể đối với những điều kiện xung quanh trong thời gian ngủ [6]. 1.1.4 Nhu cầu ngủ Nhu cầu ngủ của con người không giống nhau. Một số người chỉ cần ngủ ít hơn 6 giờ mỗi đêm, trong khi một số người khác lại cần ngủ hơn 9 giờ mỗi đêm. Những người ngủ dài thường có nhiều giai đoạn ngủ REM với thời gian của mỗi giai đoạn này dài hơn so với người ngủ ngắn. Giấc ngủ tăng lên khi người ta lao động nặng, tập thể dục, bị ốm, có thai, bị căng thẳng tâm lý và phải hoạt động trí óc nhiều. Giai đoạn ngủ REM tăng khi hiện diện những kích thích tâm lý như khó khăn trong học tập, việc thi cử, sử dụng các thuốc gây giảm tiết các chất dẫn truyền thần kinh trong não [1]. 1.2 Rối loạn mất ngủ 1.2.1 Khái niệm về mất ngủ Hiện nay, theo Hệ thống chẩn đoán và thống kê các rối loạn tâm thần phiên bản thứ 5 (2013) của Hiệp hội tâm thần Mỹ, mất ngủ là ngủ ít hơn so với bình . . thường từ 2 giờ trở lên. Ví dụ, một người 35 tuổi trước đây mỗi ngày ngủ 8 giờ nhưng 2 tháng gần đây, anh ta hay chị ta chỉ còn ngủ được khoảng 6 giờ mỗi ngày [1]. Theo phân loại của DSM-5, mất ngủ là một trong mười rối loạn thức – ngủ bao gồm: [11] 1) Mất ngủ 2) Rối loạn ngủ li bì 3) Chứng ngủ rũ 4) Rối loạn giấc ngủ có liên quan đến hô hấp 5) Rối loạn ngủ – thức liên quan đến nhịp sinh học 6) Rối loạn kích thích ngủ không cử động nhãn cầu nhanh 7) Rối loạn ác mộng 8) Rối loạn hành vi trong giấc ngủ có cử động nhãn cầu nhanh 9) Hội chứng “Chân không yên” 10) Rối loạn giấc ngủ vì thuốc hay hóa chất. Mất ngủ đặc trưng bởi sự khó ngủ và khó hoặc không duy trì được giấc ngủ [7]. Tình trạng này được gọi là mạn tính khi một người có chứng mất ngủ ít nhất ba đêm một tuần trong một tháng hoặc lâu hơn 3 tháng. Thường thì chúng ta chỉ bắt đầu chú ý đến mất ngủ khi những triệu chứng do nó gây ra đã ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày. Mất ngủ cấp tính thường xảy ra sau một biến cố đã được người bệnh ghi nhận lại. Đó có thể là những khó khăn trong cuộc sống như sự chia ly với người thân, kết quả không theo ý muốn trong công việc cũng như tình cảm. Loại mất ngủ này có thể kéo dài từ một đêm đến vài tuần và sự mệt mỏi xuất hiện có thể gây nhầm lẫn là do tâm trạng gây ra. 1.2.2 Phân loại mất ngủ Theo phân loại DSM-IV-TR [12] của Hiệp hội Tâm thần Mỹ, mất ngủ có hai loại: mất ngủ nguyên phát và mất ngủ thứ phát. a) Mất ngủ nguyên phát là một người đang có vấn đề về giấc ngủ mà không trực tiếp liên hệ với bất kỳ tình trạng sức khỏe khác. b) Mất ngủ thứ phát là một người đang có vấn đề về giấc ngủ trực tiếp liên hệ với các tình trạng sức khỏe khác chẳng hạn như bệnh lý (hen suyễn, viêm khớp, ung thư hoặc trào ngược dạ dày – thực quản), những cơn đau mạn tính, do sử dụng các loại chất kích thích. DSM-IV-TR [12] đã từng được áp dụng rộng rãi trong chẩn đoán mất ngủ bởi Hiệp hội Tâm thần Mỹ. DSM-IV-TR là bằng chứng cho sự cố gắng của các nhà lâm sàng nhằm chi tiết hơn trong sự phân loại các rối loạn ngủ – thức khi tập hợp những chẩn đoán với nhiều tên gọi khác nhau nhưng lại ít khác biệt trong phương pháp điều trị [11]. Tuy nhiên, mất ngủ là một vấn đề mà bản thân chính nó cần được quan tâm y tế khách quan dù có hay không sự hiện diện của những yếu tố đi kèm khác. Vì vậy, Hiệp hội Tâm thần Mỹ đã có sự thay đổi trong DSM-5 (2013) ở mục chẩn đoán rối loạn mất ngủ. Chẩn đoán rối loạn mất ngủ vẫn được đặt ra cho dù có sự tồn tại độc . . lập hoặc song song với những rối loạn tâm thần khác (ví dụ như rối loạn trầm cảm), tình trạng sức khỏe (ví dụ như đau mạn tính), hoặc một rối loạn giấc ngủ khác (ví dụ như rối loạn giấc ngủ liên quan nhịp thở) [11]. Bước tiến thay thế phân loại của DSM-IV-TR bằng DSM-5 có thể được hiểu là “sự phân nhỏ ra đã được tập hợp lại”. Mất ngủ có thể tự tiến triển theo con đường riêng của nó với sự xuất hiện tâm trạng lo âu và các yếu tố của trầm cảm nhưng lại thiếu đi những tiêu chuẩn khác cần phải có để chẩn đoán những rối loạn tâm thần này. Chính vì vậy, mất ngủ cũng có thể đồng thời mang hình dạng của một tình trạng rối loạn tâm thần khác. Điều đó dẫn tới mất ngủ kéo dài sẽ trở thành yếu tố nguy cơ dẫn đến trầm cảm, vấn đề thường thấy song song với quá trình điều trị mất ngủ. Bằng cách nhìn nhận sự tồn tại song song đồng thời của mất ngủ và một rối loạn tâm thần khác, việc điều trị sẽ được hướng đến cả hai tình trạng đó. Còn nếu không tiếp cận theo phương pháp này thì đôi lúc, chúng ta sẽ phải đối mặt với vấn đề là không thể xây dựng được sự liên kết tự nhiên chính xác giữa những tình trạng lâm sàng nói trên, nhất là khi mối quan hệ này lại có thể thay đổi theo thời gian. Do đó, người ta cho phép sự có mặt của mất ngủ song song với một bệnh lý khác mà không nhất thiết phải tồn tại một mối liên hệ nhân – quả. Một chẩn đoán mất ngủ liên quan với một tình trạng khác chỉ nên được xem xét trong những điều kiện đặc biệt mà thường là không cần thiết [11]. Chính vì vậy, DSM-5 đã không còn sử dụng thuật ngữ “mất ngủ nguyên phát” và “mất ngủ thứ phát” mà tập hợp lại chỉ còn duy nhất “rối loạn mất ngủ”. 1.2.3 Đặc điểm của mất ngủ Đặc điểm cần có của rối loạn mất ngủ là sự không hài lòng với thời lượng, chất lượng giấc ngủ hay những than phiền về việc khó khăn trong bắt đầu cũng như duy trì giấc ngủ. Mất ngủ lâu dài sẽ có thể gây ra những biểu hiện lâm sàng của một tình trạng trầm cảm trầm trọng, suy giảm năng suất lao động, ảnh hưởng đến các mối quan hệ trong xã hội, tình cảm. Sự xáo trộn về giấc ngủ có thể xảy ra trong thời gian hiện diện một rối loạn tâm thần hay tình trạng sức khỏe khác hoặc nó cũng có thể diễn tiến độc lập một cách tự nhiên [11]. Thêm vào đó, sự đa dạng trong mất ngủ là do nó có thể xảy ra ở các thời điểm khác nhau trong quá trình ngủ:  “Mất ngủ khởi đầu của giấc ngủ” liên quan đến sự khó ngủ khi người đó đã lên giường và muốn ngủ.  “Mất ngủ trong duy trì giấc ngủ” hay còn gọi là “mất ngủ giữa chừng” liên quan đến tần suất thức dậy hay thời gian dài để có thể ngủ lại giữa mỗi lần thức giấc trong suốt buổi tối.  “Mất ngủ trễ” liên quan đến việc tỉnh giấc vào sáng sớm (không phải là thói quen) mà không có khả năng ngủ trở lại được. Nhìn chung, khó đi ngủ và khó duy trì giấc ngủ là triệu chứng thường thấy của mất ngủ. Những người than phiền về vấn đề này cũng có thể than phiền về vấn đề kia và ngược lại. Những vấn đề xảy ra trước, trong và sau giấc ngủ đều có thể được ghi nhận bằng bệnh sử, nhật ký ngủ hoặc những phương pháp khác như đo ĐMK. Tuy nhiên, chẩn đoán mất ngủ thường lại phải dựa trên nhận định chủ quan của cá nhân hoặc những báo cáo lại của người chăm sóc trực tiếp. . . “Ngủ không hồi phục” là than phiền về giấc ngủ có chất lượng thấp khi người ta không cảm thấy khỏe dù thời gian ngủ đủ. Đây là một vấn đề thường thấy liên quan đến việc khó bắt đầu hay duy trì giấc ngủ hoặc đôi khi đi kèm với những rối loạn khác như rối loạn giấc ngủ liên quan đến nhịp thở. Trong trường hợp không có sự khó khăn trong bắt đầu hoặc duy trì giấc ngủ nhưng tất cả tiêu chuẩn chẩn đoán về tần suất, thời gian và lo âu vào ban ngày hay giảm năng suất lao động lại thỏa thì người ta sẽ cân nhắc đặt ra một chẩn đoán về rối loạn mất ngủ đặc trưng hay không đặc trưng. Ngoại trừ tiêu chuẩn về tần suất và thời gian cần phải có để chẩn đoán mất ngủ, những tiêu chuẩn phụ khác rất hữu ích trong việc đánh giá mức độ trầm trọng của mất ngủ. Những tiêu chuẩn định lượng này rất khác nhau ở mỗi người và được sử dụng chỉ cho mục đích minh họa. Ví dụ như khó bắt đầu giấc ngủ được xác định khi cần 20 – 30 phút để đi vào giấc ngủ và sự khó khăn trong duy trì giấc ngủ được định nghĩa là khoảng thời gian tỉnh giấc kéo dài 20 – 30 phút giữa đêm khi đang ngủ. Mặc dù không có định nghĩa chuẩn nào là thức dậy sớm vào buổi sáng, triệu chứng này liên quan đến việc tỉnh giấc khoảng 30 phút trước thời điểm thông thường và trước khi đạt đủ thời gian 6 giờ và 30 phút. Thêm vào đó, người ta cần phải xem xét không chỉ thời điểm thức dậy cuối cùng mà còn cả mốc đi ngủ vào tối hôm trước. Ví dụ như thức dậy lúc 4 giờ sáng có ý nghĩa lâm sàng khác nhau khi so sánh giữa mốc ngủ vào 9 giờ tối và 11 giờ tối. Những ghi nhận tổng quát như vậy mới có thể phản ánh được toàn bộ quá trình ngủ và tìm ra câu trả lời cho những trường hợp ví dụ như phân biệt giữa sự thay đổi nhịp sinh học và nguyên nhân khác ở những ca bệnh có mất ngủ [11]. Rối loạn mất ngủ có mối liên quan đến suy giảm năng suất lao động ban ngày, xáo trộn về mặt cảm xúc cũng như ngủ khó vào ban đêm hoặc ít gặp hơn là buồn ngủ nhiều vào buổi sáng. Giảm năng suất làm việc có thể bao gồm khó tập trung, chú ý, giảm trí nhớ và khó thực hiện ngay cả những kỹ năng đơn giản. Xáo trộn về cảm xúc thường được mô tả là sự bứt rứt, dễ thay đổi cảm xúc nhất thời và ít thấy hơn là triệu chứng trầm cảm hay lo âu. Tuy nhiên, không phải tất cả mọi người có thời gian ngủ ban đêm bị xáo trộn thì sẽ dẫn đến những tình trạng này. Ví dụ người lớn tuổi khỏe mạnh thường cũng không hài lòng về giấc ngủ của mình với những than phiền về tần suất thức dậy trong đêm nhưng điều đó không làm ảnh hưởng đến hoạt động ban ngày của họ. Chẩn đoán mất ngủ chỉ nên được dành cho những trường hợp có sự mệt mỏi nghiêm trọng hoặc giảm năng suất hoạt động liên quan đến khó ngủ vào ban đêm [11]. 1.2.4 Dịch tễ học của mất ngủ Theo công trình của Ohayon [59] về dịch tễ của mất ngủ tổng hợp hơn 50 nghiên cứu của nhiều nhà dịch tễ học dựa trên những dữ liệu thu thập từ các cộng đồng đại diện cho dân số chung, số trường hợp mất ngủ được chẩn đoán theo tiêu chuẩn DSM-IV-TR chiếm tỷ lệ 6%. Đồng thời, tỷ lệ mất ngủ ở nữ cũng cao hơn ở nam. Còn theo tác giả Vũ Anh Nhị [7], mất ngủ xảy ra ở mọi lứa tuổi, mọi chủng tộc và trong tất cả các nền văn hóa ở các quốc gia khác nhau. Tỷ lệ thực tế của . . chứng mất ngủ thay đổi tùy theo mức độ khắt khe của định nghĩa hay tiêu chuẩn chẩn đoán được sử dụng. Triệu chứng mất ngủ xảy ra ở khoảng 33% đến 50% dân số trưởng thành. Chứng mất ngủ thường là mạn tính, thời gian kéo dài từ một đến vài năm chiếm 50% đến 85% số trường hợp. Tuy nhiên, bất kể dùng tiêu chuẩn nào để chẩn đoán thì mất ngủ vẫn là hình thức rối loạn giấc ngủ chiếm tỷ lệ nhiều nhất trong dân số với khoảng 30% – 40% người trưởng thành than phiền về vấn đề này, 10% – 15% đã từng trải qua những triệu chứng liên quan đến giảm năng suất hoạt động vào ban ngày và 6% – 10% thỏa tiêu chuẩn chẩn đoán. Tại những đơn vị chăm sóc sức khỏe ban đầu, khoảng 10% – 20% bệnh nhân có than phiền về những triệu chứng mất ngủ nghiêm trọng. Đặc biệt, mất ngủ có tần suất cao hơn ở phụ nữ so với đàn ông và tỷ số về giới vào khoảng 1.44:1. Mặc dù mất ngủ có thể là một triệu chứng hoặc một rối loạn riêng biệt nhưng khoảng 40% – 50% trường hợp lại tồn tại sự hiện diện song hành của một tình trạng rối loạn tâm thần khác [11]. Tuy nhiên, phần lớn người có triệu chứng mất ngủ không tự đi khám để được chẩn đoán hay điều trị cho đến khi họ quá đau khổ vì tình trạng này hay xuất hiện những rối loạn nghiêm trọng ảnh hưởng đến cuộc sống [16]. 1.2.5 Các yếu tố ảnh hưởng đến mất ngủ Nhìn chung, mất ngủ có khả năng xảy ra với ai phải đối mặt với những sự kiện không mong muốn như bệnh tật, bị chia ly với người thân hoặc những áp lực liên tục xảy ra trong cuộc sống hàng ngày. Hầu hết các trường hợp này sẽ trở về với nhịp ngủ bình thường của họ khi mà những yếu tố làm khởi phát mất ngủ biến mất. Tuy nhiên, một số trường hợp sẽ tiến triển thành mất ngủ mạn tính và gây ra nhiều hậu quả trong tương lai [11]. Ngoài ra: [72],[85]  Những đặc điểm về suy nghĩ hay cách sinh hoạt như thói quen ngủ không tốt, ngủ không đúng giờ và nỗi sợ hãi do không ngủ được sẽ làm cho vấn đề mất ngủ trầm trọng hơn, trở thành vòng xoắn bệnh lý diễn tiến tới mất ngủ mạn tính.  Nguyên nhân về tình cảm như tính cách hay lo âu, dễ sợ hãi hoặc dễ bị kích động sẽ làm người bệnh có khuynh hướng tự kìm nén cảm xúc dẫn đến tăng nguy cơ bị mất ngủ.  Nguyên nhân về môi trường như tiếng ồn, ánh sáng, cảm giác không thoải mái vì thời tiết quá nóng hay quá lạnh và sợ độ cao cũng có thể làm tăng khả năng bị mất ngủ.  Nguyên nhân về di truyền và thể chất như sự già đi của cơ thể có mối liên quan đến khả năng bị mất ngủ. Tần suất của mất ngủ cao hơn ở những cặp sinh đôi cùng trứng so với sinh đôi khác trứng. Mất ngủ thường xảy ra ở nữ hơn ở nam với tỷ số nữ/nam là 1.4 lần khi xét về sự xuất hiện của những triệu chứng mất ngủ (1.7 lần sau tuổi 45) và là 2 lần cho các chẩn đoán mất ngủ. Mất ngủ cũng thường tồn tại song song với nhiều tình trạng sức khỏe khác bao gồm đái tháo đường, bệnh mạch vành, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, viêm khớp và những bệnh lý gây đau mạn tính khác. Mặc khác, tương quan này thường . . mang tính chất hai chiều: mất ngủ làm tăng nguy cơ của những tình trạng trên và những vấn đề sức khỏe đó cũng làm tăng nguy cơ mất ngủ. Tuy nhiên, mối liên hệ này không phải lúc nào cũng có thể được xác định rõ ràng và chúng luôn thay đổi theo thời gian. Vì vậy mà “mất ngủ đồng hợp” là thuật ngữ được ưa thích sử dụng trong trường hợp có sự hiện diện đồng thời của mất ngủ và một tình trạng sức khỏe khác (hoặc rối loạn tâm thần khác). Thêm vào đó, thói quen sinh hoạt cũng có thể là một nguyên nhân quan trọng chẳng hạn như dùng thức uống có chứa chất kích thích, rượu, bia, hút thuốc lá, sử dụng thuốc phiện, nhất là vào thời điểm trước khi ngủ [21]. Tuy nhiên, chính mất ngủ dai dẳng cũng là yếu tố nguy cơ của việc sử dụng không phù hợp các hóa chất này. Ví dụ như thuốc ngủ và rượu, bia để dễ ngủ vào buổi tối; thuốc chống lo âu để điều trị căng thẳng, lo lắng gây ra bởi mất ngủ; những chất kích thích khác để chống lại mệt mỏi do hậu quả từ nhiều đêm không ngon giấc. Mặc khác, việc lạm dụng những chất này không chỉ làm tình trạng mất ngủ thêm tồi tệ hơn mà còn có thể tiến triển thành một dạng rối loạn giấc ngủ do sử dụng hóa chất. Một vài bệnh lý khác cũng đã được chứng minh có mối liên quan với mất ngủ như cao huyết áp, bệnh về hô hấp như hen suyễn, bệnh về tiêu hóa như trào ngược dạ dày – thực quản [76], hội chứng “Chân không yên”, hội chứng “Ngưng thở khi ngủ” (thường xảy ra ở người béo phì với BMI ≥ 30 kg/m2) [2]. Đối với những trường hợp thường gặp, mất ngủ xảy ra do có sự thay đổi nhịp sinh học như chuyển ca làm việc từ sáng sang tối, lệch múi giờ khi đi du lịch giữa các vùng lãnh thổ và quốc gia. Theo nghiên cứu của Shin [69], những yếu tố khác cũng có thể dẫn đến mất ngủ là tuổi tác, trình độ học vấn, tình trạng hôn nhân, tình trạng mãn kinh của người phụ nữ. 1.2.6 Hậu quả của mất ngủ Mất ngủ thường liên quan đến trạng thái tinh thần, sự hưng phấn và những yếu tố ảnh hưởng đến giấc ngủ. Bởi vì vậy, không thể ngủ được do mối bận tâm về tình trạng này sẽ dẫn đến một vòng xoắn bệnh lý: ta càng muốn ngủ, cảm giác bực bội lại càng tăng và giấc ngủ sẽ càng kém chất lượng. Do đó, quan tâm quá mức và hành động cố gắng để ngủ sẽ là yếu tố thúc đẩy thay đổi cơ chế đi vào giấc ngủ bình thường, góp phần tạo nên mất ngủ. Những cá nhân với mất ngủ dai dẳng cũng có thể tự tạo thói quen xấu để đáp ứng với tình trạng này mà điển hình là dành quá nhiều thời gian nằm trên giường dù không ngủ được, giờ ngủ không cố định, hay ngủ gật. Mất ngủ có thể đi kèm với chuỗi những than phiền trong ngày như thường cảm thấy mệt mỏi, giảm năng lượng trong các hoạt động bình thường, xáo trộn cảm xúc và hay cáu gắt với mọi người xung quanh. Bên cạnh đó, những triệu chứng thuộc về lo âu hay trầm cảm nhưng không đủ tiêu chuẩn để chẩn đoán những rối loạn này có thể hiện diện và làm người bệnh rơi vào trạng thái lo lắng quá mức [11]. Theo một nghiên cứu cắt ngang tại Tây Ban Nha, mất ngủ có liên quan đến ý tưởng tự sát và những cái chết xuất phát từ nguyên do này [25]. Một nghiên cứu trong 3 năm, theo dõi 159 trường hợp đột quỵ cũng đã chỉ ra rằng rối loạn giấc ngủ sẽ làm tăng nguy cơ xảy ra bệnh lý này [51]. Ngoài ra, vấn đề về các mối quan hệ cá nhân, xã hội cũng có thể hình thành và tiến triển trầm trọng hơn từ hậu quả của mất ngủ. . 0. Các than phiền về giảm khả năng chú ý và tập trung khi làm việc cũng rất thường gặp, liên quan đến tỷ lệ cao của những tai nạn có liên quan đến mất ngủ. Tình trạng dai dẳng như vậy thường sẽ kéo theo nhiều hệ lụy gây ảnh hưởng xấu lên các vấn đề sức khỏe bao gồm tăng nguy cơ xuất hiện của những rối loạn trầm cảm, bệnh lý mạn tính như cao huyết áp và tim mạch, giảm năng suất làm việc, giảm chất lượng cuộc sống và làm tăng chi phí xã hội cả trực tiếp lẫn gián tiếp do tăng nhu cầu sử dụng dịch vụ y tế xuất phát từ những lý do liên quan đến mất ngủ [11]. 1.2.7 Các phương pháp chẩn đoán mất ngủ 1.2.7.1 Chẩn đoán mất ngủ: Từ lâu, đa miên ký đã được xem như là “tiêu chuẩn vàng” để định lượng giấc ngủ [44]. ĐMK thường sẽ cho thấy những bất thường trong giấc ngủ một cách liên tục như tăng thời gian ngủ và thời gian thức tỉnh sau khi ngủ; giảm thời gian ngủ hiệu quả (phần trăm thời gian ngủ khi ở trên giường); tăng giai đoạn ngủ 1, giảm giai đoạn ngủ 3 và 4. Tuy nhiên, những ghi nhận bất thường này không phải lúc nào cũng tương xứng với biểu hiện lâm sàng hoặc những than phiền về mất ngủ do con người có xu hướng đánh giá cao sự tỉnh táo của bản thân hơn là thời lượng giấc ngủ. Phân tích ĐMK chỉ ra rằng những trường hợp mất ngủ có sự xuất hiện của nhiều sóng điện não với tần số cao hơn so với những người ngủ tốt ở khoảng thời gian bắt đầu ngủ và suốt thời gian ngủ không cử động nhãn cầu nhanh, đây là một gợi ý của trạng thái tăng kích thích vỏ não [11]. Tuy nhiên, khi đánh giá mất ngủ bằng phương tiện này, người ta vẫn chưa thống nhất được về những bộ tiêu chuẩn chẩn đoán mà chủ yếu xoay quanh 3 yếu tố: khó bắt đầu ngủ; khó duy trì ngủ; thời gian ngủ được đánh giá dựa trên 2 đêm sử dụng ĐMK. Nghiên cứu của Edinger [22] trên những đối tượng được chẩn đoán mất ngủ nguyên phát theo DSM-IV-TR đã đánh giá độ nhạy và độ đặc hiệu của những yếu tố ghi nhận trên ĐMK trong chẩn đoán mất ngủ. Kết quả của nghiên cứu đã kết luận rằng chẩn đoán mất ngủ chỉ dựa vào đơn thuần ĐMK là không nên. Mất ngủ được xác định chủ yếu từ những than phiền trên lâm sàng của bệnh nhân và hiện vẫn chưa có một phương thức hay xét nghiệm nào đủ tin cậy để thay thế lâm sàng trong chẩn đoán mất ngủ. Bảng 1.1 Độ nhạy và độ đặc hiệu trong chẩn đoán MN theo các yếu tố của ĐMK Yếu tố Độ nhạy (%) phát hiện MN Độ đặc hiệu (%) phát hiện MN (1) 36.5 80.4 (2) 52.1 63.9 (3) 74.0 26.8 (1) + (2) 17.7 89.7 (1) + (3) 29.2 84.5 (2) + (3) 40.6 70.1 (1) + (2) + (3) 13.5 91.8 Khó bắt đầu giấc ngủ (1): cần ≥ 20 phút và không có đêm nào < 15 phút trong 2 đêm để bắt đầu giấc ngủ Khó duy trì giấc ngủ (2): thời gian thức tỉnh ≥ 60 phút mỗi đêm trong cả 2 đêm Tổng thời gian ngủ (3): tổng thời gian ngủ ≥ 180 phút nhưng ≤ 420 phút mỗi đêm trong 2 đêm. . 1. Nguồn: Nghiên cứu của Edinger [22] Thêm vào đó, ĐMK không được khuyến khích sử dụng thường quy trong thực hành lâm sàng đánh giá mất ngủ, nhất là ở những cơ sở chăm sóc sức khỏe ban đầu vì sự đòi hỏi phải có các thiết bị chuyên môn và bất tiện phải đo điện não đồ trong giấc ngủ của người bệnh. Trước đây, trên lâm sàng, để chẩn đoán mất ngủ, người ta sử dụng hệ thống chẩn đoán và thống kê các rối loạn tâm thần phiên bản thứ 4 (DSM-IV-TR) của Hiệp hội Tâm thần Mỹ. Tuy nhiên, mặc dù được áp dụng rộng rãi, trên thế giới vẫn có rất ít nghiên cứu chứng minh được mức độ tin cậy của DSM-IV-TR trong chẩn đoán mất ngủ. Thêm vào đó, sự phân chia mất ngủ thành 2 nhóm đã gây ra khó khăn trong ứng dụng thực tế trên lâm sàng. Edinger (2011) [23] đã thực hiện một nghiên cứu nhầm kiểm tra độ tin cậy và hiệu quả của chẩn đoán mất ngủ theo DSM-IV-TR tại 2 bệnh viện khác nhau. Đối tượng nghiên cứu là các trường hợp được chẩn đoán mất ngủ theo DSM-IV-TR và sẽ tham gia đánh giá lại bằng những phương pháp khác gồm phỏng vấn lâm sàng, phỏng vấn có cấu trúc, đo ĐMK. Nghiên cứu cho thấy các chẩn đoán mất ngủ thứ phát theo DSM-IV-TR có độ tin cậy trung gian cao nhất. Trong khi đó, chẩn đoán mất ngủ nguyên phát lại có độ tin cậy trung gian thấp hơn khi so sánh với các phương pháp đánh giá mất ngủ khác. Kết luận đặt ra là DSM-IV-TR có thể được sử dụng tốt để chẩn đoán mất ngủ nhưng chủ yếu là mất ngủ thứ phát. Đây cũng chính là lý do mà tiêu chuẩn chẩn đoán mất ngủ của DSM-5 loại bỏ hẳn sự phân chia mất ngủ thành nguyên phát và thứ phát. Nghiên cứu của Chung [18] đã so sánh khả năng đánh giá mất ngủ giữa các tiêu chuẩn chẩn đoán của DSM-5, DSM-IV-TR thông qua một bảng câu hỏi mất ngủ dựa trên các tiêu chuẩn này. Kết luận của nghiên cứu cho kết quả khá cao về độ nhạy và độ đặc hiệu của DSM-5 cũng như DSM-IV-TR trong chẩn đoán mất ngủ. Tuy nhiên, cần phải lưu ý rằng việc phân loại cầu kỳ của DSM-IV-TR sẽ gây hạn chế trong thực hành lâm sàng. Bảng 1.2 Độ nhạy, độ đặc hiệu, các giá trị tiên đoán của các tiêu chuẩn chẩn đoán Tiêu chuẩn chẩn đoán DSM-5 DSM-IV-TR AUC 0.92 0.94 Độ nhạy (%) 87.4 91.8 Độ đặc hiệu (%) 95.6 97.0 Giá trị tiên đoán dương (%) 77.4 89.1 Giá trị tiên đoán âm (%) 97.8 97.8 AUC: vùng dưới đường cong Nguồn: Nghiên cứu của Chung [18] Tiêu chuẩn chẩn đoán DSM-5 là một cải tiến vượt bậc từ DSM-IV-TR và đã được thông qua bởi Hiệp hội Tâm thần Mỹ cho phép áp dụng rộng rãi để chẩn đoán mất ngủ tại nhiều nước trên thế giới trong đó có Việt Nam. Khác với tiêu chuẩn chẩn đoán mất ngủ của DSM-IV-TR, DSM-5 không còn phân chia giữa mất ngủ nguyên phát và thứ phát như ở phiên bản trước. Thêm vào đó, việc cải tiến như vậy giúp thống nhất được việc chẩn đoán mất ngủ giữa các nhà tâm thần học, chuẩn hóa dữ liệu cho những mục đích nghiên cứu khoa học [79]. DSM-5 ra đời đã nhấn mạnh .
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất