TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG
KHOA NGHỆ THUẬT
ĐỖ THỊ THU NƯƠNG
TÍNH DÂN TỘC TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM ĐIÊU KHẮC
GIAI ĐOẠN 1986 ĐẾN 2016
(NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP TRIỂN LÃM MĨ THUẬT TOÀN QUỐC)
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Ngành: Sư phạm Mỹ thuật
PHÚ THỌ, 2017
LỜI CẢM ƠN
Được sự phân công của khoa Nghệ Thuật, trường Đại học Hùng Vương và
sự đồng ý của thầy giáo hướng dẫn TH.S Nguyễn Quang Hưng tôi đã thực hiện
đề tài “Tính dân tộc trong một số tác phẩm điêu khắc giai đoạn 1986 đến
2016 (Nghiên cứu trường hợp Triển lãm MTTQ).
Để hoàn thành khóa luận này tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo đã
tận tình hướng dẫn, giảng dạy trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và rèn
luyện tại trường Đại học Hùng Vương.
Xin chân thành cảm ơn thầy giáo hướng dẫn TH.S Nguyễn Quang Hưng đã
tận tình, chu đáo hướng dẫn tôi thực hiện khóa luận này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng để thực hiện đề tài này một cách hoàn chỉnh
nhất. Song trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu bản thân tôi còn nhiều hạn chế
về kiến thức và kinh nghiệm nên không thể tránh khỏi những thiết sót nhất định
mà bản thân chưa thấy được. Tôi rất mong nhận được sự góp ý của quý thầy, cô
giáo và các bạn đọc để khóa luận của tôi được hoàn chỉnh hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Phú Thọ, tháng 5 năm 2017
Sinh viên
Đỗ Thị Thu Nương
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa … .................................................................................................. ..i
Lời cảm ơn…… .................................................................................................... ii
Mục lục………..................................................................................................... iii
Danh mục các cụm từ viết tắt .............................................................................. vi
PHẦN I: MỞ ĐẦU …….. .................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài…….. .................................................................... 1
2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn…….. .......................................................... 3
3. Mục tiêu nghiên cứu…….. ......................................................................... 3
PHẦN II: NỘI DUNG…….. ................................................................................ 4
Chương 1: Cơ sở lý luận …….. ............................................................................ 4
1.1. Khái niệm về tính dân tộc…….. .................................................................... 4
1.2. Vài nét về tính dân tộc trong một số loại hình nghệ thuật ............................. 4
1.2.1. Trong văn học. ..................................................................................... 4
1.2.2. Nghệ thuật điện ảnh. ............................................................................ 5
1.2.3. Nghệ thuật kịch .................................................................................... 8
1.2.4. Âm nhạc. .............................................................................................. 8
1.2.5. Mỹ thuật. ............................................................................................ 11
1.3. Khái niệm về tính dân tộc trong nghệ thuật điêu khắc ................................ 14
1.3.1. Tính dân tộc trong điêu khắc cổ truyền của người Việt ................... 14
1.3.2. Vài nét về nghệ thuật điêu khắc Việt Nam hiện đại ......................... 18
Tiểu kết chương................................................................................................... 24
Chương 2: Tính dân tộc trong một số tác phẩm điêu khắc giai đoạn 1986 đến
2016 ..................................................................................................................... 26
2.1. Nghiên cứu tính dân tộc trong một số tác phẩm tượng tiêu biểu ở triển lãm
MTTQ năm 1985 đến năm 2016 ........................................................................ 26
2.2. Nghiên cứu tính dân tộc ở một số tác phẩm điêu khắc tiêu biểu trong triển
lãm MTTQ năm 1990 đến 1995 .......................................................................... 29
2.2.1. Tính dân tộc trong một số tác phẩm điêu khắc ở triển lãm MTTQ năm
1990 ............................................................................................................ 29
2.2.2. Tính dân tộc trong một số tác phẩm điêu khắc ở triển lãm MTTQ năm
1995 ............................................................................................................. 32
2.3. Nghiên cứu tính dân tộc trong một số tác phẩm tượng tiêu biểu ở triển lãm
MTTQ năm 2000 đến năm 2010. ........................................................................ 36
2.3.1. Triển lãm MTTQ lần thứ 15, năm 2000. .......................................... 36
2.3.2. Tính dân tộc trong một số tác phẩm điêu khắc ở triển lãm MTTQ năm
2005 ............................................................................................................ 39
2.3.3. Tính dân tộc trong một số tác phẩm tượng tiêu biểu trong triển lãm
MTTQ năm 2010 ........................................................................................ 42
2.3.4. Tính dân tộc trong một số tác phẩm tượng tiêu biểu trong triển lãm
ĐKTQ 10 năm (2003 – 2013). .................................................................... 43
2.3.5. Tính dân tộc trong một số tác phẩm tượng tiêu biểu trong triển lãm
năm 2015. .................................................................................................... 49
Tiểu kết chương .................................................................................................. 51
Chương 3: Sự kế thừa và phát huy những giá trị của tính dân tộc trong các tác
phẩm điêu khắc hiện đại...................................................................................... 53
3.1. Giá trị của tính dân tộc trong tác phẩm điêu khắc thể hiện ở nội dung tư
tưởng.................................................................................................................... 53
3.2. Giá trị tính dân tộc trong một số tác phẩm điêu khắc đối với việc nghiên cứu,
sáng tác của học sĩ Việt Nam hiện đại và việc nghiên cứu học tập của sinh viên
Mỹ thuật .............................................................................................................. 57
3.2.1. Đối với việc nghiên cứu, sáng tác của các nhà điêu khắc Việt Nam
hiện đại ........................................................................................................ 57
3.2.2. Đối với việc nghiên cứu, học tập của sinh viên Mỹ thuật ................ 59
3.3. Vấn đề kế thừa và phát huy giá trị của tính dân tộc trong tác phẩm điêu khắc
giai đoạn hiện nay ............................................................................................... 61
3.3.1. Vấn đề kế thừa trong giai đoạn hiện nay. ......................................... 61
3.3.2. Một số giải pháp nhằm phát huy giá trị tính dân tộc trong tác phẩm
điêu khắc hiện đại ....................................................................................... 64
Tiểu kết chương................................................................................................... 69
PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ .......................................................... 70
1. Kết luận. .................................................................................................... 70
2. Kiến nghị . ................................................................................................. 73
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 74
PHỤ LỤC
CHỮ VIẾT TẮT
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
ĐKTQ : Điêu khắc toàn Quốc
MTTQ : Mỹ thuật toàn Quốc
TK : Thế Kỷ
THCS : Trung học cơ sở
THPT : Trung học phổ thông
1
PHẦN I
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Năm 1986, đất nước Việt Nam từ bỏ nền kinh tế bao cấp chuyển sang nền
kinh tế thị trường cũng là lúc nền nghệ thuật thay đổi và chuyển mình, phát triển
bắt kịp xu hướng của thế giới, trong đó các ngành nghệ thuật vận động đó, nghệ
thuật điêu khắc có sự phân hóa hoạt động và sáng tác một cách rõ rệt. Trong thời
kỳ đầu của cơ chế thị trường, các tượng đài được phát triển rất mạnh và rầm rộ.
Điêu khắc với tư cách là một bộ phận của nghệ thuật thị giác góp phần làm
nên thế giới sự nhìn của một cộng đồng văn hóa. Với chiến lược tiếp cận và giáo
dục con người có thế giới quan, nhân sinh quan về nhân cách, trí tuệ và các yếu
tố thẩm mỹ, điêu khắc là một phần thiết yếu của quá trình vận động đó, nó là
phương tiện độc đáo để biểu hiện, để khám phá các giá trị vật thể và phi vật thể
của những nền văn hóa, thông qua ngôn ngữ đặc trưng của mình nó truyền đạt
thông điệp trực tiếp nhất đến người thưởng thức qua kênh thị giác. Qua con
đường thị giác với những ngôn ngữ tạo hình cụ thể là hình khối, đường nét, màu
sắc, bề mặt, chất cảm, không gian được thể hiện rõ nét.
Nghệ thuật điêu khắc lưu giữ và phát tán những tín hiệu văn hóa dân tộc trong
mối quan hệ giữa các nền văn hóa với nhau, khi xã hội chuyển biến, điêu khắc
cũng thay đổi, biến động. Xu hướng phát triển chung của xã hội cho thấy điêu
khắc dù ở được trưng bày ở bất cứ không gian nào cũng đều phản ánh sống động
sự phát triển của văn hóa. Đối với một loại hình mang tính xã hội như điêu khắc
thì cần mở rộng của để hội nhập với thế giới, do vậy tính dân tộc và yêu cầu hiện
đại sẽ bộc lộ bằng chính cái tâm và bản năng của người nghệ sĩ.
2
Năm 1925 thành lập trường Mỹ thuật Đông Dương, từ ngôi trường này các
nhà điêu khắc được đào tạo một cách bài bản và dần khẳng định vị thế, đóng góp
vai trò to lớn của mình vào sự phát triển chung của nền mĩ thuật Việt Nam
đương đại. Cũng từ cái nôi này những “ Cây đa, cây đề” ngành điêu khắc như
Nguyễn Thị Kim, Diệp Minh Châu, Nguyễn Hải, Lê Công Thành,…chính họ đã
cống hiến những tác phẩm nổi tiếng, có nhiều sáng tạo, mang nhiều dấu ấn ngôn
ngữ, nội dung, hình thức có tinh thần Việt, dân tộc Việt. Tre già măng mọc, lứa
nhà điêu khắc này già đi lại có lứa điêu khắc trẻ khác kế thừa và tiếp tục sáng tạo
ra những tác phẩm mang hồn cốt Việt tinh thần dân tộc Việt. Đó là những thế hệ
tài năng kế tiếp như: Vương Học Báo, Tạ Quang Bạo, Đào Châu Hải, Lưu Danh
Thanh, Lê Đình Quỳ, Ninh Thị Đền... và hiện nay những nhà điêu khắc trẻ đã
trưởng thành và tiếp nối được các thế hệ đàn anh, tiếp tục say mê sáng tạo làm ra
các tác phẩm đẹp cho đời như: Hoa Bích Đào, Khổng Đỗ Tuyền, Lê Lạng
Lương, Thái Nhật Minh…Có thể nói những tác giả trên đã khai thác mạnh về
nguồn vô giá là những chạm khắc đình làng, là hoa văn, họa tiết, là lối tạo hình,
bố cục, là màu sắc là không gian…để làm tác phẩm của mình trở nên gần gũi và
đậm đà bản sắc dân tộc.
Để vấn đề nghiên cứu tính dân tộc trong nghệ thuật điêu khắc Việt Nam hiện
đại một cách chỉnh chu, nghiêm túc nhằm tìm ra giá trị độc đáo của tính dân tộc
có những tác động như thế nào, vai trò của nó ra sao và phát huy nó vào trong
sáng tác các tác phẩm điêu khắc như thế nào? rất cần có những phân tích, chứng
minh một cách rõ ràng và rành mạch.
Chính vì lý do trên và để có thêm những kiến thức về nghệ thuật điêu khắc
Việt Nam, tôi đã lựa chọn đề tài “Tính dân tộc trong một số tác phẩm điêu
khắc giai đoạn 1986 đến 2016” (Nghiên cứu trường hợp Triển lãm MTTQ)
làm khóa luận tốt nghiệp.
3
2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Đề tài nghiên cứu về phong cách sáng tạo trong điêu khắc của một số nhà
điêu khắc Việt Nam hiện đại, góp phần nâng cao khả năng thẩm mỹ, xây dựng
hình tượng sáng tác tác phẩm.
Là tài liệu tham khảo cho sinh viên mỹ thuật trường Đại học Hùng Vương.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài này nhằm nghiên cứu và khẳng định tính dân tộc trong các tác phẩm
điêu khắc giai đoạn 1986 đến 2016.
Những giá trị nổi bật của tính dân tộc ở các tác phẩm điêu khắc trong nền
mỹ thuật Việt Nam hiện đại giai đoạn 1986 đến 2016.
Tiếp thu, kế thừa và phát huy những giá trị của tính dân tộc trong các tác
phẩm điêu khắc Việt Nam giai đoạn 1986 đến 2016
4
PHẦN II: NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1.
Khái niệm về tính dân tộc
Tính dân tộc được hình thành từ truyền thống, mang đặc điểm và giá trị
văn hóa truyền thống với những bản sắc độc đáo của mỗi dân tộc. Tính dân tộc là
hệ tư duy, hệ thống giá trị, hình thành của giai đoạn văn hóa trong đời sống dân
tộc và nhân loại, tùy theo mỗi nền văn hóa mà tính dân tộc có nội dung khác
nhau.
Như vậy có thể hiểu, tính dân tộc được xác lập bởi chính con người trong
từng thời kỳ lịch sử và trao truyền qua từng thế hệ, có khi tiềm ẩn trong mỗi cá
nhân dưới dạng vô thức. Hay nói cách khác, tính dân tộc chứa đựng trong đó
những yếu tố tâm sinh lý phù hợp với lịch sử phát triển của dân tộc với tính cách
là một thực thể xã hội.
Tính dân tộc phụ thuộc vào tính chất các quan hệ xã hội cũng như hình
thức hoạt động nghệ thuật chủ đạo của con người trong những giai đoạn lịch sử
khác nhau. Điều này lý giải vì sao những tác phẩm nghệ thuật chân chính có khả
năng tồn tại trong suốt chiều dài lịch sử, vượt qua cả thời đại mà chúng ra đời và
có ảnh hưởng đến các thế hệ sau này.
1.2. Vài nét về tính dân tộc trong một số loại hình nghệ thuật
1.2.1. Trong văn học
Văn học cũng như mọi loại hình nghệ thuật khác đều là sản phẩm tinh thần
của một cá nhân nghệ sĩ mà cá nhân đó lại thuộc về một cộng đồng, một dân tộc
nhất định. Mỗi tác phẩm văn học ít nhiều đều mang dấu ấn riêng về văn hóa,
phong tục tập quán hay tâm lí, tính cách đặc trưng của dân tộc mình. Vậy tính
5
dân tộc có thể được xem như là một thuộc tính xã hội của văn học, là một “thuộc
tính tất yếu của việc sáng tạo”. (Bienlinxki).
Tính dân tộc trong văn học không bộc lộ một cách rõ ràng, cụ thể thành yếu
tố hữu hình mà nó thấm vào trong cảm xúc, trong cách nhìn và phương thức thể
hiện của tác phẩm, thông qua tác phẩm nó truyền đi thông điệp một cách rõ ràng
nhất đến người thưởng thức.
Nhà văn không phải cứ chăm chú miêu tả về cảnh sắc thiên nhiên hay kể về
những tên đất, tên làng gắn liền với dân tộc mình đang sinh sống thì tác phẩm
mới có tính dân tộc. Đọc tác phẩm “ Truyện Kiều” của Nguyễn Du chúng ta thấy
trong tác phẩm xuất hiện nhiều địa danh, nhân vật, kể cả cốt truyện đều có nguồn
gốc từ đất nước Trung Hoa, nhưng người đọc vẫn cảm nhận được tâm hồn dân
tộc thấm đẫm trong những tranh Kiều.
1.2.2. Nghệ thuật điện ảnh
Tính dân tộc của nghệ thuật điện ảnh bộc lộ ở hai mặt là nội dung tác phẩm
và hình thức thể hiện. Nội dung tác phẩm sẽ mang tính dân tộc khi người sáng
tác đề cập đến những vấn đề cốt lõi, quan thiết của đất nước, phản ánh những suy
nghĩ, tâm tư, tình cảm của những con người trong cộng đồng. Hình thức thể hiện
sẽ mang tính dân tộc khi nội dung tác phẩm được chuyển tải lên màn ảnh theo
đúng cách nghĩ, cách cảm của dân tộc đó, bằng hình ảnh và âm thanh đặc trưng.
Có thể thấy, tính dân tộc đa dạng về chủ đề, đồng hành cùng lịch sử dân tộc. Kể
từ bộ phim truyện nhựa đầu tiên của miền Bắc Việt Nam sau năm 1954 và cũng
là bộ phim truyện đầu tiên của Nguyễn Hồng Nghi và Phạm Hiếu Dân, hãng
phim truyện Việt Nam) ra đời cho đến nay có thể thấy phim truyện đã thể hiện ở
sâu sắc tâm hồn dân tộc qua từng thời kỳ lịch sử và chính những tác phẩm đó đã
góp vào thành tựu chung của điện ảnh cách mạng Việt Nam 60 năm qua.
6
Những phim truyện đã tập trung phản ánh cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp và đế quốc Mỹ, như Lửa trung tuyến, Vợ chồng A Phủ, Con chim vành
khuyên, Người chiến sĩ trẻ, Nguyễn Văn Trỗi, Nổi gió, Lửa rừng, Tiền tuyến gọi,
Chị Nhung, Vĩ tuyến 17 ngày và đêm, Bài ca ra trận…Sau năm 1975, không khí
hân hoan của đất nước hòa bình, thống nhất đã tạo nên môi trường kích thích và
đòi hỏi cao sự sáng tạo của người nghệ sỹ, đặc biệt tính dân tộc trong cảm hứng
đất nước thống nhất. Nhiều phim truyện ra đời, đa dạng hơn chủ đề: Phim Sao
Tháng Tám, Ngày lễ Thánh, Mối tình đầu (1977), Tiếng gọi phía trước, Hà Nội
mùa chim làm tổ (1978), Cánh đồng hoang, Mẹ vắng nhà, Tự thú trước bình
minh (1979). Thập niên 80-90 của thế kỷ trước là thời kỳ “hoàng kim” của phim
truyện với nhiều đề tài, gồm: Ván bài lật ngửa, Làng Vũ Đại ngày ấy, Bao giờ
cho đến tháng Mười, Thằng Bờm, Đêm hội Long Trì, Kiếp phù du, Số đỏ, Vị
đắng tình yêu, Nước mắt học trò, Hoa ban đỏ...
Cũng như các loại hình văn học nghệ thuật khác, tính dân tộc trong tác
phẩm điện ảnh Việt Nam thể hiện ở rất nhiều khía cạnh, nhưng tập trung rõ nhất
ở ba mặt: Tư tưởng, tâm hồn và những nét sinh hoạt của một dân tộc. Đặt trong
bất kỳ một thời kỳ lịch sử nào, phim truyện đã thể hiện bao yếu tố đó ở chủ
nghĩa anh hùng cách mạng với tinh thần yêu nước, sẵn sàng hy sinh vì độc lập tự
do của Tổ quốc, ở chủ nghĩa anh hùng bình dị với cuộc sống giản dị, bình
thường, sự gắn bó với ông bà tổ tiên, mối quan hệ gắn kết hữu cơ giữa gia đình
và xã hội. Ở chủ nghĩa nhân văn cao cả thì tính nhân văn là một điểm mạnh của
phim truyện, có sức mạnh chinh phục mang tính toàn cầu. Đây không phải là đặc
trưng riêng của Việt Nam, song tính nhân văn lại mang tâm hồn dân tộc của
chính quốc gia đó. Điều quan trọng là tinh thần nhân văn của phim Việt được thể
hiện theo tâm hồn, cốt cách Việt Nam, tạo nên nét đặc sắc của tác phẩm…
Trong hình thức thể hiện, tính dân tộc không chỉ bộc lộ một chiều “tô
hồng” nhằm tôn vinh con người cần cù trong lao động, dũng cảm trong chiến đấu
7
mà còn phơi bày cả những tiêu cực của con người, mặt trái của xã hội. Được xây
dựng từ một cốt truyện hoàn chỉnh, hoặc được gợi ý hoặc chuyển thể từ tác phẩm
văn học, nhân vật trong phim truyện bao giờ cũng được xây dựng theo hai tuyến
rõ rang đối lập với nhau như “nước với lửa”: chính diện và phản diện, chính và
tà, trung và nịnh, thiện và ác…Kết thúc phim thường có hậu. Đó cũng là niềm
mong ước của khán giả.
Điện ảnh thời kỳ đổi mới có những biểu hiện phong phú của tính hiện đại
và tính dân tộc. Nhiều bộ phim tạo được ấn tượng đẹp cho khán giả bởi chính
tâm hồn dân tộc: Đêm hội Long Trì , Kiếp phù du , Canh bạc , Hãy tha thứ cho
em , Vị đắng tình yêu , Thương nhớ đồng quê (1995), Đời cát (1999)…
Là đất nước “Ra ngõ gặp anh hùng”, nên chủ nghĩa anh hùng cách mạng
thể hiện rất đậm nét trong những phim truyện giàu tính sử thi. Phim truyện phục
vụ nhiệm vụ chính trị của dân tộc là đánh đuổi ngoại xâm, giành độc lập và
thống nhất đất nước. Đặc điểm nổi bật của phim truyện chiến tranh cách mạng là
tính sử thi, tập trung ca ngợi con người với những phẩm chất cao quý như một di
sản tinh thần quý báu của dân tộc: lòng yêu nước, căm thù giặc, tinh thần chiến
đấu quả cảm, sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp chung. Những phẩm chất được phản
ánh trong phim liên quan đến đặc điểm của tính dân tộc và tính hiện đại. Các nhà
làm phim đã có thời gian tách khỏi cuộc chiến để chắt lọc những chi tiết có sức
nặng. Dưới bề mặt hiện thực ta cảm nhận những triết lý sống sâu sắc của dân tộc,
là chiều sâu của tâm hồn con người Việt Nam, cuộc sống tâm linh trong mối
quan hệ mật thiết với truyền thống dân tộc. Tư duy của người sáng tác cũng có
sự đổi mới để bắt nhịp được với thời đại và trở thành chiếc cầu nối giữa truyền
thống và hiện đại. Cũng cùng chủ đề trên, nhưng khi có “độ lùi” thời gian, tách
khỏi cuộc chiến, những tác phẩm điện ảnh đó chắt lọc để nhìn cuộc chiến bình
tĩnh và có chiều sâu hơn vì có được vốn sống và sự trải nghiệm.
8
Có thể thấy dưới bề mặt hiện thực ta vẫn cảm nhận những triết lý sống sâu
sắc của dân tộc, là chiều sâu của tâm hồn con người Việt Nam, cuộc sống tâm
linh trong mối quan hệ mật thiết với truyền thống dân tộc. Tư duy của người
sáng tác cũng có sự đổi mới để bắt nhịp được với thời đại và trở thành chiếc cầu
nối giữa truyền thống và hiện đại.
1.2.3. Nghệ thuật Kịch
Kịch là một môn nghệ thuật sân khấu, một trong ba phương thức phản ánh
hiện thực của văn học. Thuật ngữ này bắt nguồn từ từ tiếng Hy Lạp có nghĩa là
"hành động" (cổ điển Hy Lạp: δρᾶμα, drama), được bắt nguồn từ "I do" (Tiếng
Hy Lạp cổ: δράω, drao). Là sự kết hợp giữa 2 yếu tố bi và hài kịch. Được coi là
một thể loại thơ ca, sự kịch tính được đối chiếu với các giai thoại sử thi và thơ ca
từ khi Thơ của Aristotle (năm 335 trước Công nguyên) - tác phẩm đầu tiên của
thuyết kịch tính ra đời. Mặc dù kịch bản văn học vẫn có thể đọc như các tác
phẩm văn học khác, nhưng kịch chủ yếu để biểu diễn trên sân khấu. Đặc trưng
của bộ môn nghệ thuật này là phải hành cuộc sống bằng các hành động kịch,
thông qua các xung đột tính cách xảy ra trong quá trình xung đột xã hội, được
khái quát và trình bày trong một cốt truyện chặt chẽ với độ dài thời gian không
quá lớn. Mỗi vở kịch thường chỉ trên dưới ba giờ đồng hồ và còn tuy kịch ngắn,
kịch dài.
Căn cứ vào nội dung kịch, có thể chia thành các thể loại: hài kịch, bi
kịch, bi hài kịch, chính kịch... Cũng có thể căn cứ vào nội dung của các đề tài mà
chia kịch thành: kịch cổ điển, kịch dân gian, kịch thần thoại, kịch hiện đại... Một
cách phân chia khác dựa theo chính thời gian biểu diễn, có kịch ngắn, kịch dài.
1.2.4. Trong Âm nhạc
Âm nhạc là một bộ môn nghệ thuật dùng âm thanh để diễn đạt. Các yếu tố
chính của nó là cao độ (điều chỉnh giai điệu), nhịp điệu (và các khái niệm liên
9
quan của nó: tempo, tốc độ), âm điệu, và những phẩm chất âm thanh của âm sắc
và kết cấu bản nhạc. Từ gốc music xuất phát từ tiếng Hy Lạp μουσική (mousike;
"nghệ thuật của Muses").
Bản sắc dường như là một “mặc định” trong suy nghĩ của nhiều người Việt
chúng ta mỗi khi nói tới tính dân tộc trong âm nhạc. Tuy nhiên, để chỉ ra những
gì cụ thể thật không đơn giản.
Hình 1.1. Hát xoan cửa đình
Lướt một vòng theo dải đất hình chữ S, chúng ta vẫn còn quá nhiều những
gì thuộc về âm nhạc dân tộc. Chỉ tính riêng những di sản được vinh danh tầm thế
giới đã có một số lượng tương đối. Từ quan họ, ca trù, hát xoan của miền Bắc tới
ví giặm xứ Nghệ, nhã nhạc cung đình Huế, cồng chiêng Tây Nguyên của miền
Trung, vào Nam có thêm đờn ca tài tử. Vẫn còn đó hát then, hát văn, bài chòi…
đang trên hành trình chờ ngày UNESCO vinh danh. Và còn biết bao di sản âm
nhạc khác nữa của người Kinh cũng như các tộc người trên khắp đất nước khó có
thể kể đầy đủ ra đây. Còn chưa nói tới những tác phẩm thuộc nhiều thể loại khác
nhau của nền âm nhạc mới giờ cũng là một di sản đồ sộ và quý giá. Nhưng tính
dân tộc thể hiện ở đâu trong những di sản ấy? Đương nhiên, nó hiện hữu trong
tất cả các di sản và thể hiện trong từng chi tiết tạo nên diện mạo của mỗi di sản.
10
Điều này tôi luôn coi là một phi thường và từ đó càng thêm nể phục, ngưỡng mộ
những bậc tiền nhân mỗi khi soi lại quá khứ về hành trình âm nhạc của dân tộc.
Gần như chỉ biết tới cây đàn bầu là một trong số hiếm hoi nhạc cụ do cha
ông ta tạo nên. Cây đàn có âm thanh trữ tình buồn man mác nghe rất quyến rũ.
Sự ra đời gắn liền với người hát xẩm, lại chỉ có nam giới dùng nên dân gian mới
khuyên răn “Làm thân con gái chớ nghe đàn bầu”. Âm thanh của tiếng đàn rất
gần với giọng người, được ví như giọng hát thứ hai cùng song ca với nghệ nhân.
Vậy thì phải chăng, nhạc hát mới là bản chất của nhạc Việt khi mà hầu hết di sản
xưa nhất đều là những thể loại ca hát dân gian không nhạc đệm, có chăng chỉ là
nhạc cụ gõ đơn giản như trong hát xoan, hát ví, hát đúm, trống quân, quan
họ...Tuy nhiên, sự giao lưu tiếp biến không chỉ diễn ra ở riêng nhạc hát dân gian
mà nó ở ngay trong chính những yếu tố du nhập từ bên ngoài vào.
Lớp nhạc sĩ thế hệ đầu tiên nhanh chóng đưa nhạc mới đến gần với màu sắc
dân ca. Ngay cả những bài hành khúc như “Chiến thắng Điện Biên” (Đỗ Nhuận)
cũng tràn ngập âm hưởng dân gian từ đồng bằng đến miền núi phía Bắc. Những
thể loại lớn như ca kịch, nhạc kịch cũng vậy, yếu tố dân tộc luôn chiếm vị trí chủ
đạo. Trong khí nhạc tính dân tộc cũng luôn ở vị trí hàng đầu. Nhà soạn nhạc
Nguyễn Thiên Đạo thành công ở Pháp có lẽ bởi chính từ phương châm sáng tác
của ông là: “Dân tộc đích thực, nhân loại tiên phong”.
Nhạc sĩ Đỗ Nhuận từng viết: “Tôi thấy cách sáng tác do tinh hoa của vốn cổ
dân tộc (cả hình thức lẫn nội dung) đã “nhập” vào tâm hồn người viết một cách
nhuần nhuyễn và bật ra thành ngôn ngữ thời đại của dân tộc là một cách sáng tác
lý tưởng”. Tính dân tộc trong âm nhạc mang tính trìu tượng nhưng nó lại có sức
sống vô cùng mạnh mẽ bởi nó nằm trong chính tâm thức, bản năng và suy nghĩ
và hành động của người Việt. Có lẽ trong suốt quá trình lập nước luôn gắn với
việc đấu tranh đánh đuổi giặc ngoại xâm để giữ nước nên ý thức về tính dân tộc
luôn được đặt lên hàng đầu.
11
1.2.5. Trong Mỹ thuật
Mỹ thuật Việt Nam hiện đại hình thành trong bối cảnh thuộc Pháp, cùng với
sự ra đời của Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương (giai đoạn 1925-1945).
Đó là giai đoạn văn hóa Việt Nam giao lưu tiếp xúc văn hóa Đông - Tây đầy sôi
động, góp phần tạo ra sự biến đổi diện mạo của văn hóa Việt Nam nói chung, mỹ
thuật Việt Nam nói riêng.
Sự tiếp xúc với mỹ thuật Pháp và phương Tây đem lại một diện mạo mới
cho mỹ thuật Việt Nam. Sự hình thành diện mạo mới của mỹ thuật Việt Nam
hiện đại được thực hiện theo quy trình: tiếp nhận, sao phỏng, biến đổi theo
hướng bản địa hóa các yếu tố văn hóa ngoại sinh.
Giai đoạn thời mỹ thuật Đông Dương có nhiều ý nghĩa quan trọng đối với
sự phát triển của mỹ thuật Việt Nam hiện đại. Đó là bước chuyển từ nền mỹ
thuật dân gian sang nền mỹ thuật hiện đại có tính bác học, hàn lâm theo hướng
phương Tây hóa. Các họa sĩ thời đó được đào tạo trong môi trường giáo dục
phương Tây, từ giáo trình, chương trình học, thầy giáo cho đến học liệu, họa
phẩm..., nhưng các tác phẩm của họ vẫn phản ánh đậm nét cốt cách và tâm hồn
dân tộc. Trước hết, chúng ta đều nhận thấy đối tượng phản ánh và miêu tả hội
họa Việt Nam giai đoạn này là thiên nhiên và con người Việt Nam. Làng quê và
những người lao động bình dị là chủ đề khá bao trùm trong các bức tranh thời
đó. Trường hợp tranh lụa của Nguyễn Phan Chánh (1892-1984) là một ví dụ tiêu
biểu. Toàn bộ nhân vật, cảnh sinh hoạt, lao động trong tranh của Nguyễn Phan
Chánh là thể hiện đời sống thôn quê thường nhật, bình dị, ấm áp. Tiêu đề của các
bức tranh đã phản ánh khá rõ chủ đề của chúng, ví như: Chơi ô ăn quan, Ra
đồng, Đi chợ về, Rửa rau cầu ao…
Lúc đầu khi người Pháp mở trường dạy mỹ thuật là nằm trong chiến lược
của chính sách đồng hóa của thực dân. Điều này dễ nhận thấy ở những mục tiêu
12
đào tạo khác nhau trong những giai đoạn khác nhau. Người có công lớn cho sự
ra đời của Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương là người hiệu trưởng đầu
tiên Vichtor Tardieu. Chính giai đoạn từ 1925 đến 1937, từ ngôi trường danh
tiếng này xuất hiện nhiều họa sĩ Việt Nam danh tiếng, mà các tác phẩm của họ
đặt nền móng cho nền mỹ thuật Việt Nam hiện đại như Tô Ngọc Vân, Trần Văn
Cẩn, Nguyễn Phan Chánh, Nguyễn Đỗ Cung… Người kế nhiệm Vichtor Tardieu
là Evarite Jonchere, một nhà điêu khắc có tư tưởng thực dân đã phát biểu
“Trường Mỹ thuật Đông Dương chỉ nên đào tạo những người thợ lành nghề”. Ý
tưởng đào tạo thợ mỹ nghệ đã được thể chế hóa bằng việc đổi tên trường từ
Trường Mỹ thuật Đông Dương (L' Ecole des Beaux - Art des Indochine) thành
Trường mỹ thuật và mỹ nghệ ứng dụng (L' Ecole superieure des Beaux - Arts et
des Arts appliques de L' Indochine). Tư tưởng này đã bị vấp phải sự phản kháng
mãnh liệt của sinh viên. Một sự kiện được nhiều người nhắc đến, đó là tại Triển
lãm Đấu Xảo 1931 tại Paris, khách tham quan đã rất ấn tượng với bức tranh
lụa Chơi ô ăn quan của họa sĩ Nguyễn Phan Chánh. Với thành công này, tranh
của họa sĩ Nguyễn Phan Chánh trở thành người đại diện tiêu biểu cho tranh lụa
Việt Nam hiện đại. Tiếp bước Nguyễn Phan Chánh, những người bạn học của
ông như Lê Phổ, Mai Trung Thứ, Nguyễn Tường Lân, Lê Thị Lựu, Trần Văn
Cẩn, Lương Xuân Nhị cũng đã bắt đầu vẽ lụa trong khi vẫn tiếp tục vẽ tranh sơn
dầu. Cả nhóm đã sáng tác những bức tranh lụa mang tâm hồn họ cộng hưởng với
truyền thống dân tộc. Những bức tranh Em bé cho chim ăn của Nguyễn Phan
Chánh, Hiện và hoa của Nguyễn Tường Lân, Chị em của Lê Thị Lựu, Thiếu
nữ của Lê Văn Đệ, Mai Trung Thứ...đã dần khẳng định tranh lụa Việt Nam là
một trường phái độc đáo chứ không phải là bản sao của tranh lụa Trung Quốc.
Vẽ lụa nhưng không dùng nét như tranh quốc họa của Trung Quốc hay tranh
khắc gỗ Nhật Bản, xây dựng hình họa vững vàng, nhưng không theo lối diễn tả
sáng tối như của Châu Âu.
13
Là một trong số ít nữ sinh mỹ thuật thời đó, bà Lê Thị Lựu tham gia hội các
nữ họa sĩ và điêu khắc, sau khi đã tốt nghiệp trường mỹ thuật và được nhận giải
thưởng về tranh lụa của hội. Tranh của Lê Thị Lựu mang đậm hình ảnh người
phụ nữ Việt Nam và Châu Á. Bà thích những đề tài về gia đình và thích bày tỏ
tình yêu qua các đề tài phụ nữ và trẻ em. Phong cách nghệ thuật của bà mang
tính kinh điển, nhưng luôn thể hiện bằng một bút pháp mềm mại và một gam
màu dịu dàng. Lúc đầu bà cũng vẽ theo phong cách Trung Quốc, dùng các mảng
màu có viền nét, sáng tối phân cách, sau mới chuyển dần sang các ảnh hưởng
của phái ấn tượng Pháp như Cezanne, Renoir, nhưng cái cốt lõi vẫn luôn là một
tinh thần phương Đông, đặc biệt là Việt Nam.
Họa sĩ Mai Trung Thứ tốt nghiệp trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương
khóa đầu tiên (1925-1930). Tác phẩm hội họa của ông thoạt nhìn giống như là
nghệ thuật dân gian: đường nét, màu sắc mộc mạc, có khi không theo luật viễn
cận. Tranh của ông chứa chan tình cảm luyến tiếc cái cổ xưa, cái thiện lương.
Nói đến tranh sơn mài Việt Nam, người ta không thể không nói đến danh
họa Nguyễn Gia Trí. Ông là người đầu tiên trong số nhiều họa sĩ Việt Nam gặt
hái được thành công rực rỡ trên con đường tìm tòi chất liệu tạo hình mới mang
nét đặc sắc Việt Nam. Mặc dù ông áp dụng cả phương pháp tiếp cận hội họa hiện
đại phương Tây nhưng kỹ thuật sơn mài của ông dùng là thuần Việt. Có thể nói,
Nguyễn Gia Trí đặt chuẩn mực cho hội họa sơn mài chính thống Việt Nam, tranh
của ông dường như là hình ảnh phản chiếu của đối tượng dưới một mặt nước
trong veo. Các họa sĩ vẽ tranh sơn mài khác như Trần Văn Cẩn, Trần Quang
Trân, Nguyễn Tư Nghiêm, Nguyễn Văn Tỵ...đều có những đóng góp đáng kể
cho việc khẳng định tính chất độc đáo của hội họa sơn mài Việt Nam. Họ thường
vẽ phong cảnh, đình chùa, cầu quán, bờ tre, sông biển...với những màu sơn mài
truyền thống như son, then, vàng, bạc cánh gián cùng gam màu lạnh và các thủ
pháp tạo hình không dễ làm chủ.
14
Nghệ thuật là một hình thái ý thức xã hội. Khi một nền nghệ thuật phát
triển đến trình độ có khả năng phản ánh mâu thuẫn xã hội thì khuynh hướng
nghệ thuật kết tinh của ý thức xã hội mới phát triển. Trong thời kỳ Pháp thuộc,
họa sĩ theo xu hướng hiện thực phản ánh đời sống thực tế của nhân dân, nhất là
nhân dân lao động, họ nêu lên được những đức tính cần cù, chịu khó, tâm hồn
mộc mạc, chất phác của tầng lớp này, làm cho người xem tranh biết yêu quê
hương đất nước, biết trăn trở và suy nghĩ trước thực tại.
1.3. Khái niệm về tính dân tộc trong nghệ thuật điêu khắc
Tính dân tộc trong nghệ thuật điêu khắc có thể được hiểu là những đặc
điểm nổi bật của cộng đồng người có chung lãnh thổ, ngôn ngữ, phương thức và
chế độ chính trị trải qua một thời kì lịch sử lâu dài được chiêm nghiệm, được
nghiên cứu, vận dụng ngôn ngữ tạo hình để chuyển tải vào tác phẩm thông qua
bàn tay, khối óc, sự sáng tạo của người nghệ sĩ nhằm đưa đến người xem một tác
phẩm hoàn chỉnh nhất.
Như vậy có thể hiểu tính dân tộc trong tác phẩm điêu khắc được nhà điêu
khắc trải qua quá trình chiêm nghiệm, nghiên cứu, suy tư những giá trị truyền
thống, giá trị văn hóa với những bản sắc độc đáo của mỗi dân tộc, của cộng
đồng, lãnh thổ, đất nước, chuyển tải nó vào tác phẩm thông qua các phương
pháp, cách thức, ngôn ngữ thể hiện nhằm đưa đến người xem một nội dung cụ
thể nhất định.
1.3.1. Tính dân tộc trong điêu khắc cổ truyền của người Việt
Phải nói rằng tính dân tộc được hình thành phụ thuộc vào điều kiện tự
nhiên, phương thức sản xuất và lối sống của dân tộc. Những yếu tố này tác động
đến cách nghĩ, cách cảm, cách ứng xử cụ thể trên những vật thể xác định. Trước
một tác phẩm điêu khắc như tượng phật, tượng thú, người Việt có xu hướng
thiên về một sự vật có kích thước vừa phải, không to hoặc nhỏ quá, vẻ ngoài ít
phô trương, mang tính hòa đồng nhiều hơn là tính nổi trội. Tượng được kết hợp
- Xem thêm -