Đăng ký Đăng nhập

Tài liệu Tieu luan triet hoc

.DOC
16
415
83

Mô tả:

1 LỜI MỞ ĐẦU 1) Tính cấp thiết của đề tài Trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, phát triển nguồn nhân lực được coi là một trong ba khâu đột phá của chiến lược chuyển đổi mô hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; đồng thời phát triển nguồn nhân lực trở thành nền tảng phát triển bền vững và tăng lợi thế cạnh tranh quốc gia. Hơn nữa, với những mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, hiện nay, con người và nguồn nhân lực được coi là nhân tố quan trọng hàng đầu, quyết định sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững nền kinh tế nước ta. Chúng ta khẳng định con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của phát triển kinh tế xã hội đồng thời phải là những con người có tri thức và đạo đức. Từ những lý do và tính cấp thiết nói trên em chọn đề tài: “Nhân tố con người trong lực lượng sản xuất và ý nghĩa của nó đối với quá trình phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở việt nam thời kỳ hội nhập thế giới” để làm tiểu luận môn triết học. 2) Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài Hiện nay, có rất nhiều nghiên cứu bàn về vấn đề phát triển nguồn nhân lực với nhiều ý tưởng hay và có thể kế thừa. Tuy nhiên, một phần các nghiên cứu hoặc đã được viết từ cách đây khá lâu, hoặc của nước ngoài nên được viết trong những bối cảnh tương đối khác biệt so với điều kiện hiện tại ở Việt Nam. Vì vậy, việc thực hiện một nghiên cứu có tính hệ thống về vấn đề nhân tố con người trong lực lượng sản xuất và ý nghĩa của nó đối với quá trình phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở việt nam thời kỳ hội nhập thế giới là một hướng đi mới và khác biệt so với các công trình nghiên cứu khác được công bố trước đây. 3) Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu tiểu luận Tiểu luận hướng tới việc thực hiện hai mục đích nghiên cứu cơ bản sau: Một là, Góp phần hệ thống hóa và phát triển cơ sở khoa học công nghệ về phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam. 2 Hai là, nghiên cứu sâu và toàn diện về nhân tố con người trong lực lượng sản xuất và ý nghĩa đối với việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay 4) Phương pháp nghiên cứu của tiểu luận Tiểu luận sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu như phương pháp thống kê phân tích, thống kê mô tả, tổng hợp, phân tích, so sánh, phương pháp chuyên gia và đặc biệt là phương pháp điều tra xã hội học. 5) Đối tượng và phạm vi nghiên cứu tiểu luận Đối tượng nghiện cứu: Nhân tố con người trong lực lượng sản xuất và ý nghĩa của nó đối với quá trình phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở việt nam thời kỳ hội nhập thế giới Phạm vi nghiện cứu: Về phạm vi không gian: Đối tượng nghiên cứu là phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay Về phạm vi thời gian: Đề tài sử dụng các tài liệu học được trong trường, các tạp chí, văn kiện và tài liệu khác liên quan đến triết học để phân tích. 6) Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của tiểu luận Về mặt lý luận, tiểu luận góp phần khái quát và phát triển những nội dung lý thuyết về phát triển nguồn lực nói chung, cũng như phát triển nguồn nhân lực nước Việt Nam nói riêng. Về mặt thực tiễn, tiểu luận nghiên cứu, tìm hiểu và tổng hợp các kinh nghiệm thực tiễn quý báo liên quan tới phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta trong thời kỳ hội nhập thế giới. 7) Kết cấu của tiểu luận Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo; nội dung chính của tiểu luận gồm có 2 chương: Chương 1: Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay. 3 Chương 2: Nhân tố con người trong lực lượng sản xuất theo quan điểm MácXít và ý nghĩa đối với việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay. PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1: TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 1.1 Quan điểm của triết học MácXít về trình độ phát triển của lực lượng sản xuất Khái niệm lực lượng sản xuất lần đầu tiên được C.Mác sử dụng trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”. Qua một số tác phẩm khác như “Sự khốn cùng của triết học”, “Lao động làm thuê và tư bản”, “Tiền công, giá cả và lợi nhuận”, đặc biệt là trog bộ “ Tư bản”, nội hàm của khái niệm này ngày càng được làm sang rõ hơn, có nội dung sâu sắc hơn. Lực lượng sản xuất là kết quả năng lực thực tiễn của con người, được kế thừa từ thế hệ này đến thế hệ khác.Chính vì thế, lực lượng sản xuất là một yếu tố động và là một quá trình luôn được đổi mới và phát triển không ngừng. Xét đến cùng chính sự vận động và phát triển của lực lượng sản xuất quyết định sự phát triển của xã hội loài người. Điều đó đã được C.Mác khẳng định trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” như sau: “ Lịch sử chẳng qua là sự tiếp nối của những thế hệ riêng rẽ, trong đó mỗi thế hệ khai thác những vật liệu, những tư bản, những lực lượng sản xuất do tất cả thế hệ trước để lại; do đó, mỗi thế hệ một mặt tiếp tục các hoạt động được truyền lại, trong những hoàn cảnh đã hoàn toàn thay đổi, và một mặt khác lại biến đổi những hoàn cảnh cũ bằng một hoạt động hoàn toàn thay đổi”. Trình độ của lực lượng sản xuất được biểu hiện thông qua trình độ của những yếu tố cấu thành nó, qua tính chất của nó đồng thời biểu hiện qua khả năng ứng dụng khoa học vào sản xuất và qua năng suất lao động. Những biểu hiện đó cụ thể như sau: Biểu hiện qua trình độ của các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất 4 Biểu hiện qua tính chất của lực lượng sản xuất Biểu hiện qua việc ứng dụng khoa học vào sản xuất Biểu hiện qua năng suất lao động Như vậy, trình độ của lực lượng sản xuất chính là thước đo cho sự phát triển của mỗi hình thái kinh tế - xã hội. Trình độ của lực lượng sản xuất là sự hợp thành của nhiều yếu tố như trình độ của những yếu tố cấu thành nó, qua tính chất của lực lượng sản xuất, qua việc ứng dụng khoa học vào sản xuất, qua năng suất lao động,…. Bởi vậy, muốn nhận thức được trình độ của lực lượng sản xuất ở mỗi chế độ xã hội, cần phải có nhận thức ở nhiều mặt, nhiều gốc độ. 1.2 Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay Trong những năm qua, bên cạnh những thành tựu to lớn về trình độ phát triển của lực lượng sản xuất như công cụ lao động và phương tiện lao động không ngừng được cải tiến theo hướng hiện đại; lực lượng lao động không ngừng tăng lên về số lượng, chất lượng cũng từng bước được nâng lên cả về mặt thể lực và trí lực; khoa học và công nghệ ngày càng được áp dụng vào quá trình sản xuất; cải thiện chất lượng tay nghề cho người lao động, góp phần từng bước hiện đại hóa lực lượng sản xuất,…Tuy nhiên, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở Việt Nam vẫn còn tồn tại một số hạn chế, bất cập cần được khắc phục. Thứ nhất, việc áp dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất và cải tiến công cụ lao động còn nhiều bất cập. Trong thời gian qua, mặc dù việc áp dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất và cải tiến công cụ lao động ở nước ta đã đạt được những thành tựu, góp phần đáng kể vào sự phát triển nền kinh tế - xã hội như vẫn còn nhiều hạn chế và bất cập, cả trong lĩnh vực công nghiệp và nông nghiệp. Trong công nghiệp, phần lớn máy móc trong sản xuất công nghiệp của nước ta là hang nhập khẩu. Điều đó làm tăng tính phụ thuộc củ nước ta vào việc nhập khẩu, máy móc thiết bị dẫn tới sự thiếu ốn định trong việc vận hành, 5 sửa chữa và làm chủ công nghệ.Hơn nữa, trong quá trình hội nhập và chuyển giao công nghệ, Việt Nam thướng xuyên chịu sức ép từ các nước lớn với mong muốn biến nước ta thành nơi sản xuất hàng hóa theo yêu cầu của họ mà không cần sự sang tạo. Đó là những mặt hàng may mặc, giầy dép, những ngành công nghiệp nhẹ, tận dụng lao động phổ thong, giản đơn. Vì vậy, chất lượng và trình độ của người lao động khó có cơ hội được nâng lên. Năng suất, chất lượng, hiệu quả sẽ không được cải thiện. Trong nông nghiệp việc ứng dụng khoa học – kỷ thuật – công nghệ vào sản xuất chưa được tiến hành đồng bộ. Những máy móc thiết bị đưa vào sản xuất vẫn còn lạc hậu so với thế giới và để lại hậu quả nặng nề là sự ô nhiễm môi trường ở mức độ nghiêm trọng. Tốc độ cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp còn thấp, chưa đồng bộ và phát triển chưa toàn diện. So với các nước trong khu vực như Thái Lan, Trung Quốc mức độ trang bị động lực của nông nghiệp Việt Nam còn thấp. Cơ giới hòa nông nghiệp chủ yếu ở khâu làm đất hàng năm, tập trung cấy lúa, tuốt đập, vận chuyển và xay xát lúa, gạo. Các khâu canh tác như gieo cấy, chăm sóc thu hoạch lúa và các loại cây trồng khác mức độ cơ giới hóa rất thấp, lao động thủ công vẫn là chủ yếu. Thứ hai, hạ tầng kỹ thuật phục vụ cho sản xuất còn nhiều yếu kém, chưa đáp ứng được nhu cầu của nền sản xuất hiện đại. Trong thời gian qua, việc xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất ở nước ta vẫn còn bộc lộ nhiều điểm yếu kém. Trong văn kiện hội nghị lần thứ tư Ban chấp hang Trung Ương khóa XI, Đảng ta cũng đã khẳng định: “ Hệ thống kết cấu hạ tầng ở nước ta vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém, lạc hậu, thiếu đồng bộ, kém tính kết nối, hiện đang là điểm nghẽn của quá trình phát triển. Hạ tầng đô thị kém chất lượng và quá tải. Hạ tầng xã hội thiếu về số lượng, yếu về chất lượng, hiệu quả sử dụng chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu dịch vụ xã hội cơ bản, đặc biệt là về y tế, giáo dục.Hạ tầng thong tin phát triển chưa đi đôi với quản lý, sử dụng một cách có hiệu quả”. 6 Những yếu kém trên đã trở thành lực cản, thành “điểm nghẽn” đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất nói riên và nên kinh tế - xã hội ở nước ta nói chung. Thứ ba, chất lượng nguồn nhân lực còn thấp, có nhiều hạn chế cả về thể lực và trí lực. Trong những năm qua, mặc dù Việt Nam được đánh giá là một trong những nước có sự cải thiện đáng kể vầ thể lực cho người lao động nhưng khi đối chiếu với tiêu chuẩn quốc tế thì thể lực của người Việt còn có rất nhiều hạn chế. Theo báo cáo của Ủy Ban dân số - gia đình và trẻ em về thể lực và tầm vóc của người Việt Nam, hiện nay chiều cao của nam thanh niên việt nam chỉ đạt 163,7cm (thấp hơn 13,1cm so với chuẩn) và chiều cao trung bình của nữ Việt Nam 153cm (thấp hơn 10,7cm so với chuẩn) nếu đem các chỉ số trên ra so sánh với các nước khu vực Châu Á, nam thanh niên Việt Nam kém thanh niên nhật bản 8cm, nữ kém 4cm. Còn trong khu vực Đông Nam Á, đặc biệt là quốc gia có điều kiện tự nhiên gần giống nước ta là Thái Lan thì chiều cao của nam thanh niên Việt Nam kém 6cm, nữ kém 2cm. Nếu xem xét hai yếu tố này thì nguồn nhân lực Việt Nam thấp bé, nhẹ cân, sức bền bỉ thấp.Bên cạnh đó, trình độ hiểu biết về dinh dưỡng và sức khỏe của nhân dân còn thấp. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, người lao động chính là nhân tố quyết định sự phát triển của lực lượng sản xuất. Vì vậy,việc phát triển nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay cũng là một động lực cơ bản của sự phát triển lực lượng sản xuất nói riêng và đời sống kinh tế - xã hội nói chung. Để nâng cao chất lượng của nguồn nhân lực, điều kiện tiên quyết là đẩy mạnh sự phát triển của giáo dục và đào tạo. Nguồn nhân lực muốn có trình độ, muốn có trí tuệ, có phẩm chất đạo đức, năng lực nghề nghiệp cần phải được giáo dục và đào tạo một cách bài bản khoa học. Vì thế, mỗi quốc gia, mỗi dân tộc cần phải coi giáo dục là “quốc sách hang đầu”. Để phát huy vai trò giáo dục và đào tạo cần phải đẩy mạnh công tác “ đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ 7 hóa và hội nhập quốc tế; trong đó đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt”. Kết luận: Trình độ phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay vẫn còn nhiều thấp kém, hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu của nền sản xuất trong thời ký mới. Bởi vậy, để thực hiện mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 nước ta về cơ bản sẽ là một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, rất cần phải có những chiến lược phù hợp để cải thiện trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. CHƯƠNG 2: NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT THEO QUAN ĐIỂM MÁC XÍT VÀ Ý NGHĨA ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 2.1 Quan điểm của triết học Mác - Lênin về nhân tố con người trong lực lượng sản xuất Theo C.Mác, sản xuất vật chất là hoạt động đầu tiên và cơ bản của con người. Đó là quá trình con người sử dụng những công cụ lao động tác động vào tự nhiên, tạo ra những của cải vật chất nhằm phục vụ nhu cầu của bản thân mình và phát triển xã hội. Để tiến hành sản xuất, con người phải sử dụng những tư liệu sản xuất như đối tượng lao động, công cụ lao động và những điều kiện vật chất khác. Những vật đó được C.Mác gọi là “khí quan” giúp con người có khả năng nối dài đôi bàn tay và làm cho quá trình tác động vào tự nhiên trở nên có hiệu quả hơn. Ngoài việc nhấn mạnh đến vai trò của tư liệu sản xuất - yếu tố cần thiết của mỗi quá trình sản xuất, C.Mác đã khẳng định, để quá trình sản xuất được tiến hành không thể thiếu vai trò của người lao động. Theo C.Mác, yếu tố vật thể sẽ không có bất cứ tác dụng nào nếu không có một lực lượng xã hội để tiến hành sản xuất vật chất. Tư liệu sản xuất sẽ trở thành vô nghĩa nếu không có sự tác động của con người. Điều này đã được C.Mác khẳng định như sau: “Một cái máy không dùng vào quá trình lao động chỉ là một cái máy vô ích. 8 Ngoài ra, nó còn bị hư hỏng do sức mạnh hủy hoại của sự trao đổi chất của tự nhiên. Sắt thì han rỉ, gỗ thì bị mục. Sợi không dùng để dệt hoặc đan thì chỉ là một số bông bị hỏng”. Theo C.Mác, con người là một “động vật biết chế tạo công cụ”. Do đó, ngoài việc sử dụng những công cụ lao động có sẵn, con người đã làm cho một vật “do tự nhiên cung cấp” trở thành một khí quan hoạt động của con người. Nhờ đó, con người đã tăng thêm sức mạnh của các khí quan vốn có của mình lên gấp bội. Không chỉ tạo ra các công cụ lao động, con người còn luôn biết cải tạo đối tượng lao động. Trong buổi bình minh của lịch sử, lực lượng sản xuất còn thấp kém, con người dựa chủ yếu vào những đối tượng lao động có sẵn trong tự nhiên. Khi nền sản xuất ngày càng phát triển, nhận thức của con người ngày càng tăng lên, công cụ lao động ngày càng được cải tiến, đối tượng lao động chiếm tỉ lệ ngày càng cao và đang có xu thế hơn hẳn những đối tượng sẵn có trong tự nhiên. Điều đó chứng tỏ con người vừa là chủ thể sáng tạo, vừa là chủ thể sử dụng mọi yếu tố của quá trình sản xuất. Điều này đã được C.Mác khẳng định: “Trong tất cả những công cụ sản xuất thì lực lượng sản xuất hùng mạnh nhất là bản thân giai cấp cách mạng”. Kế thừa tư tưởng của C.Mác về vai trò quyết định của người lao động trong các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, V.I. Lênin còn khẳng định sự vượt trội của con người so với các yếu tố khác của quá trình sản xuất: “Trong khi vật chất có thể bị phá hủy hoàn toàn thì các kĩ năng của con người như công nghệ, bí quyết tổ chức và nghị lực làm việc sẽ còn mãi”. Khẳng định trên của các nhà triết học mácxít là đúng đắn vì suy cho cùng, hầu hết các tư liệu sản xuất chủ yếu (trừ những đối tượng sẵn có trong tự nhiên) là sản phẩm lao động của con người, do con người tạo ra và không ngừng đổi mới, cải tiến. Về thực chất, tư liệu sản xuất, đặc biệt là công cụ lao động là sự phản ánh trình độ của con người trong quá trình chinh phục tự nhiên. Trong mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau thường có những giai cấp nhất 9 định đóng vai trò là lực lượng lao động chủ yếu của xã hội, là bộ phận chính cấu thành lực lượng sản xuất. 2.2 Ý nghĩa của quan điểm Mác - Lênin về con người trong lực lượng sản xuất đối với việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta hiện nay Khi bắt đầu công cuộc Đổi mới, Đảng ta đã nhận thức được vai trò to lớn của con người trong phát triển kinh tế - xã hội. Qua mỗi kỳ Đại hội Đảng, nhận thức này ngày càng được bổ sung, hoàn thiện hơn. Ở Đại hội XI, với quan điểm coi “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển”, Đảng ta đã xác định phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong ba khâu đột phá chiến lược cho sự phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian tới: “Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững”. Với chiến lược đó, Đảng và Nhà nước rất quan tâm đến việc xây dựng và phát triển nguồn nhân lực cho đất nước. Trong những năm qua, dân số nước ta không ngừng tăng nhanh khiến cho lực lượng lao động ngày càng dồi dào. Đây được coi là một trong những thế mạnh của đất nước và là yếu tố cơ bản để mở rộng và phát triển sản xuất. Người Việt Nam vốn được đánh giá là những người có tư chất thông minh, cần cù, nhạy bén, sáng tạo. Đây là những đặc điểm nổi trội của nguồn nhân lực nước ta và luôn được thế giới đề cao. Theo Báo cáo phát triển con người của Liên hợp quốc, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam có sự tăng nhanh và liên tục: “Năm 1995, Việt Nam mới chỉ đứng thứ 7/10 ở khu vực Đông Nam Á, 35/50 ở châu Á và 122/175 nước trên thế giới được xếp hạng theo chỉ số HDI thì đến năm 2001 10 đã vượt lên đứng thứ 6/7 ở khu vực Đông Nam Á, 28/36 ở châu Á và 109/130 trên thế giới”. Tính đến ngày 1/4/2009, Việt Nam có 43,8 triệu người trong độ tuổi lao động đang làm việc, chiếm 51,1% dân số. Nước ta có một nguồn lao động trẻ với trên 70% lao động trong độ tuổi từ 15 đến 45. Không chỉ có vậy, chất lượng lao động của nước ta trong những năm gần đây cũng không ngừng được nâng lên. Cả nước hiện có 2,6 triệu người có trình độ đại học trở lên, chiếm 4,5 % lực lượng lao động; trong đó có 18.000 thạc sĩ, 16.000 tiến sĩ, trên 6.000 phó giáo sư và giáo sư phân bố cả trên lĩnh vực hành chính sự nghiệp và sản xuất kinh doanh. Điều đó chứng tỏ chất lượng nguồn nhân lực của nước ta không ngừng tăng lên đáng kể, đáp ứng phần nào nhu cầu phát triển đất nước. Tuy nhiên, trước yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, chất lượng nguồn nhân lực của nước ta còn nhiều hạn chế. So với các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước trong khu vực như Trung Quốc, Singapore, Nhật Bản,… chiều cao, cân nặng và thể lực của người lao động nước ta còn thấp. Tỉ lệ lao động đã qua đào tạo chưa cao. Theo thống kê 6 tháng đầu năm 2010, hiện nay cả nước chỉ có 17,2% số người lao động biết sử dụng máy tính. Một thực tế đáng lưu tâm là mặc dù số lượng lao động có trình độ cao như thạc sĩ, tiến sĩ, phó giáo sư và giáo sư ở nước ta không ngừng tăng lên qua các năm nhưng hiện có 70% số thạc sĩ và tiến sĩ không làm khoa học mà chuyển sang làm công tác quản lý, hành chính, sự vụ. Do đó, số bài báo của các nhà khoa học được đăng hàng năm ngày càng ít đi và chất lượng không cao. Hơn 72% sinh viên ra trường không có việc làm ngay hoặc phải làm trái ngành nghề. Điều đó đã dẫn đến tình trạng lãng phí nguồn lao động đã qua đào tạo và tạo nên tình trạng thừa thầy, thiếu thợ đang rất nan giải ở nước ta hiện nay. Trên cơ sở đó, chúng tôi mạnh dạn đưa ra một số giải pháp nhằm từng bước nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nước ta: Thứ nhất, nâng cao chất lượng và hiệu quả của giáo dục, đào tạo 11 Giáo dục và đào tạo được xem là khâu then chốt quyết định chất lượng nguồn nhân lực. Vì vậy, ở Đại hội XI Đảng ta đã khẳng định: “Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam. Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư cho phát triển”. Để giáo dục và đào tạo góp phần quan trọng phát triển nguồn nhân lực, Đại hội XI đề ra quan điểm: “Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế, trong đó đổi mới cơ chế quản lý giáo dục và đào tạo, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt. Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kĩ năng thực hành, khả năng lập nghiệp. Đổi mới cơ chế tài chính giáo dục... Đổi mới mạnh mẽ nội dung, chương trình, phương pháp dạy và học”. Thực hiện đường lối chỉ đạo đó, để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay, cần toàn tâm toàn ý với sự nghiệp giáo dục; đầu tư hợp lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cho giáo dục và đào tạo, cả nhân lực, vật lực và tài lực để đưa ngành giáo dục đào tạo thoát khỏi tình trạng chậm phát triển so với khu vực và thế giới, thực hiện đúng tinh thần “giáo dục, đào tạo là quốc sách hàng đầu”. Thứ hai, nâng cao thể lực cho người lao động, cải thiện giống nòi Thể lực của người lao động phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như di truyền, chất dinh dưỡng, môi trường sống, thể dục thể thao,… Do đó, Đảng và Nhà nước cần có những chính sách nhằm cải thiện thể lực cho người lao động Việt Nam. Trước mắt, cần tập trung cải thiện đời sống vật chất cho người lao động thông qua chế độ tiền lương đúng như tinh thần của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020 mà Đảng và Nhà nước ta xác định: 12 “Nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống của nhân dân. Tạo cơ hội bình đẳng tiếp cận các nguồn lực phát triển và hưởng thụ các dịch vụ cơ bản, các phúc lợi xã hội”. Cùng với việc nâng cao thu nhập cho người lao động, phải “tập trung giải quyết tốt chính sách lao động việc làm và thu nhập”, bởi tạo công ăn việc làm ổn định là điều kiện cần thiết để người lao động vượt khó, nâng cao mức sống, không ngừng hoàn thiện năng lực cá nhân để có thể thích ứng tốt nhất với những cơ hội mới và tình hình phát triển mới. Ngoài ra, cần nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân. Cùng với đó, cần thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội; tiếp tục sửa đổi, hoàn thiện hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, trợ giúp và cứu trợ xã hội đa dạng, linh hoạt, có khả năng bảo vệ, giúp đỡ mọi thành viên trong xã hội, nhất là các nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương vượt qua khó khăn hoặc các rủi ro trong đời sống. Ngoài ra, cần đẩy mạnh phong trào toàn dân rèn luyện sức khỏe, nâng cao sự dẻo dai và sức chịu đựng, từ đó cải thiện thể lực cho nguồn nhân lực. Đây là biện pháp ít tốn kém nhưng có tác dụng rất lớn đến việc cải thiện thể lực cho lực lượng lao động. Thứ ba, xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực, khai thác và sử dụng hợp lý nguồn nhân lực Một thực trạng bất hợp lý ở nước ta hiện nay là trong khi chất lượng lao động yếu kém, phần nhiều không qua đào tạo cơ bản nhưng hàng năm có hàng ngàn, hàng vạn sinh viên đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp ra trường không có việc làm. Điều đó đã gây nên tình trạng lãng phí nguồn nhân lực có trình độ. Vì vậy, nhà nước cần nghiên cứu và đánh giá đầy đủ, chính xác về thực trạng nguồn nhân lực để có những chính sách sử dụng nguồn lực con người một cách hợp lý. Nhà nước cần xây dựng chiến lược nguồn nhân lực gắn với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế; xác định thật rõ xây dựng nguồn nhân lực là trách nhiệm của 13 các nhà hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách, trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Ngày 19/4/2011, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 579/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011 - 2020 trong đó nêu rõ, mỗi bộ, ngành và địa phương phải xây dựng quy hoạch phát triển nhân lực đồng bộ với chiến lược, kế hoạch phát triển chung của mình. Vấn đề hiện nay là cần hiện thực hóa Chiến lược bằng các biện pháp, hành động cụ thể. Nhà nước cần căn cứ vào yêu cầu phát triển của các ngành và các vùng lãnh thổ để tổ chức, bố trí lại lực lượng lao động một cách hợp lý trên phạm vi cả nước theo hướng đổi mới công nghệ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo ra những ngành kinh tế mũi nhọn. Huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn lực trong nước và quốc tế cho đầu tư phát triển, nhất là những vùng, ngành, lĩnh vực có khả năng thu hút nhiều lao động như: các vùng kinh tế động lực, trọng điểm ở ba miền, khu vực dân doanh, trước hết là các doanh nghiệp vừa và nhỏ; kinh tế trang trại, hợp tác xã, làng nghề, xã nghề tiểu thủ công nghiệp,…; khu vực dịch vụ, nhất là dịch vụ thu hút nhiều lao động kết hợp khai thác tiềm năng, thế mạnh của đất nước và con người Việt Nam. Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế và lao động nông thôn theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa để tạo thêm nhiều việc làm tại chỗ, góp phần giảm bớt áp lực về lao động ra các thành phố làm việc. Nhà nước cần hoàn thiện và phát triển thị trường lao động, góp phần vào việc hình thành đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nâng cao chất lượnglao động cả về trình độ học vấn và trình độ chuyên môn kĩ thuật, kĩ năng tay nghề; giáo dục - đào tạo theo định hướng gắn cung với cầu lao động, đồng thời nâng cao hiểu biết về pháp luật, ý thức kỷ luật, tác phong công nghiệp và nâng cao thể lực đảm bảo cung cấp đội ngũ lao động có chất lượng cả về thể lực lẫn trí lực, đáp ứng yêu cầu của xã hội. Đây là một quá trình lâu dài với nhiều cơ chế, chính sách thích hợp, đòi hỏi có sự tham gia của tất cả các cấp, các ngành và phải thực hiện ngay từ bậc phổ thông. 14 Đảng và Nhà nước cần có chính sách rõ ràng, minh bạch, đúng đắn đối với việc sử dụng, trọng dụng nhân tài, nhất là trọng dụng các nhà khoa học và chuyên gia thật sự có tài năng. Phải có sự phân biệt rành mạch giữa tài thật và tài giả, giữa những người cơ hội và những người chân chính trong các cơ quan công quyền. Thứ tư, luôn quan tâm đúng mức đến nhu cầu và lợi ích của người lao động. Lao động sản xuất vốn là một hoạt động nhằm thỏa mãn những nhu cầu của con người. Khi nhu cầu của con người được thỏa mãn sẽ nảy sinh vấn đề lợi ích. Có thể nói, lợi ích là phương tiện để thỏa mãn nhu cầu của con người trong những điều kiện lịch sử - xã hội cụ thể. Để không ngừng nâng cao tính tích cực của người lao động nhằm phát triển nhanh lực lượng sản xuất, chúng ta cần phải thường xuyên quan tâm đến lợi ích của người lao động. Cần phải tác kết hợp một cách đồng bộ, thống nhất các lợi ích như lợi ích kinh tế, lợi ích chính trị - tinh thần; lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể; lợi ích trước mắt, lợi ích lâu dài;… Có như vậy, chúng ta mới có thể tác động vào tính tích cực, tinh thần hăng hái tham gia lao động sản xuất, cống hiến xã hội của người lao động. Đó là cách vừa sử dụng con người một cách hiệu quả, vừa tạo điều kiện để phát triển con người. Trong bối cảnh xã hội hiện nay, trong những lợi ích trên, lợi ích kinh tế và lợi ích cá nhân cần được ưu tiên vì nó là động lực trực tiếp và mạnh nhất tác động đến người lao động. Những giải pháp trên có thể chưa thật sự đầy đủ nhưng thiết nghĩ sẽ góp phần đáng kể trong việc phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta đáp ứng quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức. Quan điểm của Đảng về phát triển nguồn nhân lực là một quan điểm đúng đắn, không chỉ kế thừa về mặt lí luận quan điểm của các nhà triết học mácxít về con người, về người lao động mà còn là kết quả của quá trình tổng kết thực tiễn, đúc rút kinh nghiệm và nắm bắt xu thế phát triển của thời đại. 15 Kết luận: Trong các yếu tố của lực lượng sản xuất thì con người luôn ở vị trí trung tâm của sự phát triển và giữ vai trò quyết định. Người lao động đã được Lênin khẳng định là “lực lượng sản xuất hàng đầu của nhân loại” 4. Trong các yếu tố tham gia vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, yếu tố con người được coi là yếu tố cơ bản. Để tăng trưởng kinh tế cần 5 yếu tố chủ yếu là vốn, khoa học và công nghệ, con người, cơ cấu kinh tế, thể chế chính trị và quản lý nhà nước thì con người là yếu tố quyết định. PHẦN KẾT LUẬN Trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định con người và nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển đất nước. Đảng ta đã khẳng định:“con người là vốn quý nhất, chăm lo hạnh phúc con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta, coi việc nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá”. Nâng cao chất lượng dân số và phát triển nhân lực là một trong những trọng điểm của chiến lược phát triển đất nước, là chính sách xã hội cơ bản, là hướng ưu tiên hàng đầu trong toàn bộ chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng, Nhà nước trong bối cảnh hội nhập toàn cầu hoá ngày càng sâu rộng. Từ đó phải nâng cao dân trí cũng như chuẩn bị tốt nguồn nhân lực có đủ trí tuệ và nghị lực, tay nghề và công nghệ, ý thức và tâm hồn thấm đượm sâu bản sắc dân tôc, khoa học và ý chí, thực hiện sự chuyển mình từ một xã hội nông nghiệp thành xã hội công nghiệp theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Với kiến thức học được và sự cố gắng của bản thân em đã hoàn thành bài tiểu luận, song do còn có những hạn chế trong nhận thức, trình độ và thời gian nên tiểu luận không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Kính mong nhận được lời nhận xét và đánh giá của Thầy để tiểu luận của em thật sự có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn, đồng thời rút kinh nghiệm cho các bài luận sau. 16 Em xin chân thành cám ơn! TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị Quốc gia , Hà Nội. 2. Vũ Minh Hảo, Hoàng Xuân Hòa (2004), “Dân số và chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam trong quá trình phát triển kinh tế”, Tạp chí Cộng sản, số 709. 3. C.Mác - Ph.Ăngghen (1982), Tư bản, Phê phán khoa kinh tế - chính trị”, Tuyển tập, Nxb. Sự thật, Hà Nội. 4. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 5. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva. 6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H 2011. 7. Xem: Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 BCH Trung ương Đảng khóa VII, tại Wedsite Đảng Cộng sản. 8.Xem: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H 2011.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan