LỜI MỞ ĐẦU
Tài nguyên thiên nhiên là tài sản quý giá do thiên nhiên ban tặng, thuộc sở hữu quốc gia
do Nhà nước thống nhất quản lý, có vai trò quan trọng đối với con người. Trong điều kiện
công nghiệp hoá - hiện đại hoá và quốc tế hoá sâu rộng như hiện nay, nhu cầu sử dụng tài
nguyên cho phát triển kinh tế quốc dân ngày càng trở thành vấn đề cấp thiết đối với mỗi quốc
gia, nhất là các loại tài nguyên quý hiếm, tài nguyên không tái tạo như: dầu khí, than, đá,...
Bên cạnh các công cụ quản lý hành chính như: cấp phép thăm dò, khai thác, chế biến,... thì
thuế tài nguyên là công cụ hữu hiệu để Nhà nước kiểm soát hoạt động khai thác, sử dụng tài
nguyên, tăng thu ngân sách, định hướng sử dụng tài nguyên tiết kiệm, hiệu quả, bảo vệ nguồn
tài nguyên và thân thiện với môi trường.
Tổ chức thu đúng, thu đủ và thu kịp thời thuế tài nguyên đối với các nguồn khai thác tài
nguyên trong lãnh thổ Việt là nhiệm vụ quan trọng của Cơ quan thuế Nhà nước, nhằm góp
phần ổn định nguồn thu cho ngân sách nhà nước, thực hiện chính sách phát triển kinh tế đất
nước, đồng thời tạo lập được một môi trường phát triển trong lành, tránh tình trạng khai thác
bừa bãi, thúc đẩy góp phần đẩy mạnh cuộc sống con người ngày càng phát triển.
Trước bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, việc cắt giảm thuế suất và
thực hiện các chính sách ưu đãi thuế quan là quá trình tất yếu của Việt Nam khi gia nhập
WTO, đồng thời cũng là thách thức đối với cơ quan thuế trong việc hoàn thành chỉ tiêu thu
Ngân sách Nhà nước. Chính vì vậy, nhằm nâng cao hiệu quả quản lý thu thuế, em đã chọn đề
tài:
Phân
tích
tác
động
của
thuế
tài
nguyên.
CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU VỀ THUẾ TÀI NGUYÊN VÀ KHÁI QUÁT VỀ THUẾ TÀI NGUYÊN
CỦA CÁC NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
1.1. Giới thiệu về thuế tài nguyên:
Thuế tài nguyên là thuế được thu đối với các tổ chức, cá nhân có hoạt động khai thác tài nguyên, bao gồm các hoạt động khai thác
khoáng sản kim loại và không kim loại, dầu thô, khí đốt, sản phẩm của rừng tự nhiên, hải sản tự nhiên, nước tự nhiên và các loại tài
nguyên thiên nhiên khác.
Mục đích của thuế tài nguyên là hạn chế các tổn thất tài nguyên trong quá trình khai thác và sử dụng, đồng thời tạo nguồn thu cho
ngân sách Nhà nước và điều hoà quyền lợi của các tầng lớp dân cư về việc sử dụng tài nguyên.
1.2. Khái quát về thuế tài nguyên của các nước trên thế giới
a) Nhận xét chung
Các nước khác nhau tuỳ thuộc vào điều kiện về nguồn tài nguyên và chiến lược khai thác, sử dụng nguồn tài nguyên để quy
định phương thức đánh thuế tài nguyên: có nước thu thuế tài nguyên (Natural resources tax), có nước áp dụng phân chia sản phẩm thu
được (royalty); có nước áp dụng thuế suất % theo doanh thu, có nước áp dụng thuế tuyệt đối tính trên sản lượng khai thác. Vì vậy,
việc lựa chọn kinh nghiệm nước ngoài áp dụng cho Việt Nam là không mang tính thông lệ.
b) Biểu số liệu chi tiết theo nước (phân theo khu vực)
NƯỚC
1. Afganistan
2. Ấn Độ
CƠ SỞ TÍNH
THUẾ SUẤT
GHI CHÚ
THUẾ
Tất cả các tài nguyên trên hoặc Tổng doanh thu Trong khoản từ 5% doanh thu gộp với các
dưới bề mặt, trừ hydrocarbons và
tài nguyên công nghiệp cho tới 10% áp dụng
nước
với các loại đá quý
+ Đá quý: 10%; Apatit: 5% ;
Các loại tài nguyên
Giá bán
Thuế
TNDN:
+ Phosphat: 11%;
35%
+ Asbestos: 726 rupees/tấn;
+ Barytes: 7,5%; Bio xit: 0,35%;
+ Cadmium: 10%;
ĐỐI TƯỢNG CHỊU THUẾ
NƯỚC
3. Sri-lanka
4. Trung Quốc
5. Mông Cổ
CƠ SỞ TÍNH
THUẾ SUẤT
THUẾ
+ Đá : 15% ; Đất sét: 21 rupees/tấn;
+ Chro-mit: 7,5%; Đồng: 3,2%;
+ Kim cương: 10%; Vàng:
0,5%;
+ Đá graphit: 225 rupees/tấn;
+ Quặng sắt: 24 rupees/tấn; + Chì: 5% ;
+ Quặng măng-gan: 3%; Nic-ken: 0,1%
Khoáng sản ở bất cứ dạng lỏng,
Tính trên tổng 0,5% tổng doanh thu
rắn hay khí, nằm trên hay dưới doanh thu
mặt đất, gồm cả muối và than bùn
nhưng không tính hydro-carbons
+ Dầu mỏ 8-30 NDT/tấn
+ Khí đốt thiên nhiên 2-15 NDT/nghìn m3
+ Than 0-3-5 NDT/tấn
+ Các loại quặng thô quặng phi kim khác 05-20 NDT/tấn hoặc m3
+ Quặng thô quặng kim loại đen 2-30
Các loại tài nguyên
NDT/tấn
+ Quặng thô quặng kim loại màu 0-4-30
NDT/tấn
ĐỐI TƯỢNG CHỊU THUẾ
Áp dụng với việc khai thác tất cả
Giá bán ấn định
các loại tài nguyên thiên nhiên
dựa trên giá bán
trừ nước, xăng dầu và gas tự
trong nước và
nhiên
quốc tế
Đá quý, kim loại, khoáng sản
Theo giá bán
+ Muối: Muối rắn 10-60 NDT/tấn; Muối
lỏng 2-10 NDT/tấn
Với việc bán than đá và các tài nguyên phổ
biến: 2.5% giá bán của thành phẩm khai thác
từ quyền khai thác mở được bán, đặt mua
hoặc sử dụng. Với các sản phẩm khác áp
dụng mức thuế suất 5.0 %.
- Đá quý: 5% -7.5%;
GHI CHÚ
Thuế TNDN:
Trung ương 33%;
Địa phương 3%
NƯỚC
ĐỐI TƯỢNG CHỊU THUẾ
6. Myanma
công nghiệp, đá
CƠ SỞ TÍNH
THUẾ
và giá tham
chiếu quốc tế
(nếu có)
7. Lào
Các loại tài nguyên
Doanh thu
3%-5% doanh thu theo hợp đồng ký khai Thuế
thác doanh nghiệp ký kết với Chính phủ
35%
TNDN:
8. Philippines
Các loại tài nguyên
Doanh thu
5% trên doanh thu khai thác quặng.
Thuế
32%
TNDN:
Thuế
35%
TNDN:
Từ 0,5% đến 5% trên doanh thu khai thác Thuế
quặng
43%
- 3% tổng giá trị với các kim loại cơ bản
được phép khai thác theo quy định tại giấy
phép.
- 5% tổng giá trị đá quý hoặc kim loại quý
theo quy định tại giấy phép.
- 2% tổng giá trị với các khoáng sản khác
Thuế suất có thể là thỏa thuận trong các hiệp
TNDN:
-
Doanh thu
9.Bờ biển Ngà
THUẾ SUẤT
GHI CHÚ
- Vàng, bạc, platin, iridi, palladi, rutherni,
rhodi, tantalu, columbi, niobi, urani, thori và
các kim loại quý khác: 4% -5%;
- Kẽm, đồng, chì , thiếc, Vonfram, nickel,
antimony, alumini, arsen, bismuth, cadi,
chromi, cobalt, mangan and và các kim loại
khác: 3% - 4%:
d) Khoáng sản công nghiệp và đá:1% - 3%.
- Kim loại: 2-4%
- Kim loại quý : 1.5 -3% tuỳ loại
- Đá quý, kim cương: 5%
Không đánh thuế với nguyên vật liệu xây
dựng
10. Nam Phi
Các loại tài nguyên
Doanh thu
11. Zambia
- Các kim loại cơ bản
- Đá quý, kim loại quý
- Khoáng sản khác
Tổng giá trị (giá
bán FOB) tại
điểm xuất khẩu
từ Zambia hoặc
điểm nhận hàng
trong nội địa
Zambia.
NƯỚC
ĐỐI TƯỢNG CHỊU THUẾ
12. Boswana
Vật ở dạng rắn, lỏng hay khí, trừ
xăng dầu và nước tự nhiên thuộc
sở hữu công cộng hay tư nhân
theo mục đích sử dụng quy định
tại Luật sử dụng nước.
13. Cônggô
Tập hợp các yếu tố hình thành
một hóa chất tự nhiên, đơn giản
hay phức tạp, vô cơ hoặc hữu cơ,
thường tổn tại ở dạng chất rắn, và
trong
một
vài trường hợp đặc biệt dưới dạng
chất lỏng hoặc khí.
CƠ SỞ TÍNH
THUẾ SUẤT
THUẾ
định về phát triển.
Dựa trên tổng
giá trị thị trường Đá quý: 10%
của tài nguyên, Kim loại quý: 5%;
được xác định là Các tài nguyên và sản phẩm tài nguyên khác:
giá bán nhận 3%.
được tại mỏ.
Dựa trên doanh
thu
bán
tài
nguyên trừ đi chi
phí vận chuyển,
phân tích …..
Giá bán phải cao
hơn hoặc bằng
với giá có thể
nhận được từ
việc bán thành
phẩm cho bên
thứ 3.
GHI CHÚ
Thuế tài nguyên
được nộp trên một
tài nguyên hoặc
thương phẩm theo
hóa đơn thanh
toán.
- 0.5% áp dụng với sắt hoặc hợp kim sắt.
Các loại chi phí
- 2% phi kim,
được giảm trừ::
- 2.5% áp dụng với kim loại quý,
a) Chi phí thuê
- 4% với đá quý,
nhà xưởng phục
- 1% với tài nguyên công nghiệp, chất rắn, vụ hoạt động khai
hydrocarbons và các chất khác,
thác.
- 0% áp dụng với vật liệu xây dựng.
b) Chi phí chung
cho việc bảo trì
các thiết bị khai
thác.
c) Tiền lương,
tiền công, tiền
thưởng, trợ cấp
cho người lao
động tại khu khai
thác mỏ.
d) Lãi suất vốn
vay từ bên thứ ba
e) Chi phí vận
chuyển, bảo hiểm
NƯỚC
ĐỐI TƯỢNG CHỊU THUẾ
CƠ SỞ TÍNH
THUẾ SUẤT
THUẾ
GHI CHÚ
môi giới, hoa
hồng.
f) Lợi nhuận chia
cho các cổ đông
của doanh nghiệp.
g) Lương của Hội
đồng quản trị
công
ty
liên
doanh.
14. Chi lê
Các loại tài nguyên
Giá bán
15.
êla
Các loại tài nguyên
Giá bán
Vê-nê-zu-
16. Pê ru
Các loại tài nguyên
17. Agentina
Các loại tài nguyên
Doanh thu
18. Bolivia
Các loại tài nguyên
Doanh thu
19. Brazil
Các loại tài nguyên
Doanh thu
Thuế
50%
TNDN:
Thuế
30%
TNDN:
Thuế
30%
TNDN:
Thuế
40%
TNDN:
Thuế
25%
TNDN:
- Vàng: 3%
Thuế
- Khoáng sản khác: Bio-xít, măng gan là 3%; 33%
+ Quặng sắt, hoá chất, than và các khoáng
TNDN:
Các mức thuế suất khác nhau đối với các
loại khoáng sản nhưng đều dưới 5% trên giá
bán quặng khai thác.
- Vàng:
1%
- Khoáng sản kim loại khác: 3%
-Khoáng sản kim loại: 2 USD/hecta/năm;
-Khoáng sản không kim loại:
1
USD/hecta/năm.
- Một số tỉnh thu với mức thuế suất dưới 3%
trên doanh thu bán sản phẩm khai thác trừ đi
các chi phí sàng tuyển, phân loại quặng.
- Một số tỉnh không thu.
Dưới 9% trên doanh thu khai thác.
CƠ SỞ TÍNH
THUẾ SUẤT
GHI CHÚ
THUẾ
chất khác là 2%;
+ Các loại đá quý là 0,2%;
20. Colombia
Các tài nguyên dưới bất kỳ hình Giá tại cửa mỏ
Trong khoản từ 1% đến 12% tuỳ từng loại
thức nào và địa điểm nào khai
tài nguyên và nhóm tài nguyên khác nhau
thác dưới đất hoặc trong lòng đất,
trừ dầu khí
2,25%/ doanh thu khai thác quặng.
21. Mỹ (Bang
Doanh thu
Thuế
TNDN:
Colorado)
35%
Thuế
TNDN:
22. Canada
Không thu
29,12%
23. Fuji
- Kim loại quý
Giá trị để tính - Với quặng bôxit và quặng sắt: 3%giá trị
- Đá quý
thuế tài nguyên quặng.
- Khoáng sản dưới đất
là giá tài nguyên - Các loại khác: 5% giá trị
- Khoáng sản phóng xạ
thế giới.
Với các khoảng sản xuất khẩu, thuế tài
- Than đá
nguyên phải nộp khi giao hàng trên tàu,
- Khoáng sản kim loại
thuyền hoặc máy bay.
Các khoáng sản được sử dụng trong nước,
thuế tài nguyên được tính dựa trên giá tài
nguyên thế giới.
24. Salomon
"Khoáng sản" có nghĩa là bất kỳ
Dựa
trên Thuế suất thuế tài nguyên do Bộ Tài chính
chất được tìm thấy trong tự nhiên nguyên lý giá trị quy
định.
hay trên trái đất hình thành tùy thị trường của
thuộc vào quá trình tự nhiên, địa tài nguyên tại
chất, nhưng không bao gồm xăng nơi khai thác
dầu
25. Kazactan
Các kim loại, hợp kim, đá quý, Tổng giá bán: Kim loại
phi kim, nguyên vật liệu (cụ thể được tính toán - 3,5% với Kim loại và hợp kim
NƯỚC
ĐỐI TƯỢNG CHỊU THUẾ
NƯỚC
ĐỐI TƯỢNG CHỊU THUẾ
tại phần thuế suất)
28. Hungary
THUẾ SUẤT
- Sắt và hợp kim sắt, đá alumi, đá
quý, ngọc, bùn, kim loại hiếm,
than bùn chữa bệnh, kim loại
quý, gas.
- Phi kim loại, muối, nước
khoáng
- 4,5% với Kim loại quý hiếm
- 4% với kim loại quý như: bạc, vàng, platin
và platinoit
- 3,5% Kim loại bào mòn: scandi, germani,
rubiđi, xezi, catmi, indi, talli, selen, telua,
hafini, reni, osimi
- 3% với các nguyên tố phóng xạ: rađi, thori,
urani
Phí kim: Than chứa bitu, Đá tan,.. từ 1.5%2.5%
Nguyên vật liệu
- 7% với Đá quý:
- 2% với đá trang sức: ngọc bích, lazurit,..
- 1,5% với Đá kỹ thuật: Kim cương, ..
Tổng giá bán
Vàng: 10%; Than đá: 2%; Copper và zinc:
3%
2% áp dụng với sắt và hợp kim sắt, đá alumi,
đá quý, ngọc, bùn, kim loại hiếm, than bùn
chữa bệnh, kim loại quý, gas.
% quota của
- 6% ápdụng với phi kim loại
giá trị sản phẩm
- 6% áp dụng cho đá, trừ các loại đá trang trí
có quota 10%; - 8% với muối
- Khoáng sản nguyên liệu là các
nguyên liệu có ích cho hoạt động
khoa học và kỹ thuật.
- Tài nguyên khoáng sản: được
xác định theo các tính toán về địa
Cơ sở tính
thuế là giá trị
của
nguyên
khoáng
sản
nguyên liệu
26. Ba Lan
27. Romani
CƠ SỞ TÍNH
THUẾ
dựa vào giá trị
của tài nguyên
thương
phẩm;
giá bán trung
bình trong từng
thời kỳ hoặc giá
trao đổi kim
loại.
- 12% của giá trị thu được từ số lượng
khoáng sản nguyên liệu, khai thác trên cơ sở
cấp phép chính thức
- 5% của giá trị thu được từ số lượng khoáng
sản khai thác nguyên vật liệu trên cơ sở cấp
GHI CHÚ
NƯỚC
CƠ SỞ TÍNH
THUẾ SUẤT
GHI CHÚ
THUẾ
chất, công nghệ khai thác và nền
giấy phép chính thức,
công nghiệp khai khoáng.
- 0% với khai thác sâu mỏ khoáng sản rắn.
- 2% của giá trị thu được từ số lượng khoáng
sản khai thác nguyên vật liệu trên cơ sở
chính thức cấp giấy phép.
- 2% với khai thác năng lượng dưới đất
Không nộp thuế tài nguyên với: Hoạt động
khai thác sử dụng công nghệ cao, thân thiện
với môi trường.
ĐỐI TƯỢNG CHỊU THUẾ
CHƯƠNG II:
LUẬT THUẾ TÀI NGUYÊN VÀ TÁC ĐỘNG THUẾ TÀI NGUYÊN Ở VIỆT NAM
2.1. Khái niệm và đặc điểm của Thuế tài nguyên
Ở Việt Nam, Thuế tài nguyên là khoản thu của Ngân sách nhà nước nhằm điều tiết một phần
giá trị Tài nguyên thiên nhiên khai thác đối với tổ chức, cá nhân khai thác Tài nguyên hợp
pháp trên lãnh thổ, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam tạo nguồn thu Ngân sách
nhà nước, đảm bảo quản lý, sử dụng hiệu quả các nguồn Tài nguyên của Nhà nước. Con
người tác động vào tài nguyên với nhiều hình thức:khai thác, xử lý và sử dụng nhưng thuế tài
nguyên chỉ điều tiết vào hành vi khai thác, Thuế tài nguyên không đìều tiết vào tất cả các
hành vi tác động vào tài nguyên mà chỉ điều tiết vào hành vi khai thác tài nguyên. Nghĩa là
hành vi tác động làm biến đổi bản chất “tự nhiên” của tài nguyên. Vì vậy, tại điều 1 Pháp
lệnh thuế tài nguyên quy định: Mọi tổ chức, cá nhân khai thác tài nguyên thiên nhiên trong
phạm vi đất liền, hải đảo, nội thủy, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đều là đối tượng phải nộp thuế tài nguyên, trừ đối
tượng không thuộc diện nộp thuế.
Đặc điểm của thuế tài nguyên:
+ Thứ nhất, đối tượng chịu thuế tài nguyên là các loại tài nguyên thiên nhiên. Nếu tài nguyên
đó được hình thành có sự can thiệp của con người thì nó không còn là đối tượng chịu thuế tài
nguyên nữa.
+ Thứ hai, tài nguyên thiên nhiên là đối tượng chịu thuế phải tồn tại trên lãnh thổ Việt Nam,
thuộc chủ quyền Việt Nam theo luật pháp Việt Nam và luật pháp quốc tế.
+ Thứ ba, như đã phân tích, thuế tài nguyên không đánh vào tất cả các hành vi tác động vào
tài nguyên mà chỉ điều tiết vào hành vi của các tổ chức, cá nhân khai thác tài nguyên thiên
nhiên hợp pháp theo quy định của pháp luật.
+Thứ tư, mục tiêu cơ bản của thuế tài nguyên là nhằm điều tiết một phần thu nhập của tổ
chức, cá nhân có hành vi khai thác tài nguyên vào ngân sách nhà nước trên cơ sở đó quản lý
hoạt động khai thác tài nguyên thiên nhiên của quốc gia.
Thuế tài nguyên là loại thuế thu vào hành vi khai thác tài nguyên thiên nhiên của tổ chức, cá
nhân. Hành vi khai thác tài nguyên thiên nhiên là sự kiện pháp lý làm phát sinh thuế tài
nguyên (không phải hành vi sử dụng tài nguyên thiên nhiên).
Việc thu thuế tài nguyên hiện nay dựa trên cơ sở pháp lý là Pháp lệnh Thuế tài nguyên năm
1998 và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung Điều 6, Pháp lệnh Thuế tài nguyên năm 2008. Pháp lệnh
Thuế tài nguyên năm 1998 sẽ hết hiệu lực thi hành vào ngày 01/07/2010 khi Luật Thuế tài
nguyên có hiệu lực. Theo Điều 2 Luật Thuế tài nguyên, phần lớn đối tượng chịu thuế tài
nguyên là tài nguyên khoáng sản, như: khoáng sản kim loại, khoáng sản không kim loại, dầu
thô, khí than, khí thiên nhiên, nước nóng thiên nhiên và nước khoáng.
Khi Luật Thuế tài nguyên có hiệu lực thì các tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản có nghĩa
vụ nộp thuế tài nguyên phải quan tâm đến những vấn đề sau:
+ Thứ nhất, quy định về thuế suất. Có thể nói, thuế suất được xem như là “linh hồn” của một
sắc thuế. Việc xác định mức thuế suất như thế nào sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến số tiền nộp
thuế của các chủ thể khai thác tài nguyên thiên nhiên nói chung cũng như các chủ thể khai
thác khoáng sản nói riêng. Biểu thuế suất này được quy định trong Pháp lệnh Thuế tài
nguyên năm 1998 và Pháp lệnh số 07/2008/PL- UBTVQH12 sửa đổi, bổ sung Điều 6 Pháp
lệnh Thuế tài nguyên năm 1998. Trước sự biến động của nền kinh tế, Pháp lệnh sửa đổi, bổ
sung Điều 6 Pháp lệnh thuế tài nguyên năm 1998 đã điều chỉnh khung thuế suất thuế tài
nguyên nhằm góp phần điều tiết kịp thời lợi nhuận của doanh nghiệp khai thác khoáng sản
khi giá cả biến động. Có thể nói, trên thực tế, việc áp dụng mức thuế suất trong một biên độ
rộng theo quy định của Pháp lệnh năm 2008 là điều không đơn giản vì sự chênh lệch quá cao
giữa biểu thuế suất. Sự chênh lệch này sẽ làm khó cho cơ quan tính thuế khi nào thì áp dụng
mức thuế suất sàn và khi nào áp dụng mức thuế suất trần. Nhằm tăng tính hiệu quả và hợp lý
cho việc thu thuế tài nguyên, biểu thuế suất trong Luật Thuế tài nguyên đã được thu hẹp lại
biên độ bằng việc tăng mức sàn và hạ mức trần. Việc điều chỉnh này hướng tới hầu hết tài
nguyên thuộc nhóm khoáng sản kim loại và một số tài nguyên quý hiếm khác. Chúng đều có
mức thuế suất sàn tăng vì đây là những tài nguyên không thể tái tạo, có giá trị lớn. Việc xác
định biểu thuế suất này vẫn nhằm đảm bảo nguồn thu ngân sách nhà nước, đồng thời góp
phần nâng cao ý thức bảo vệ tài nguyên quốc gia từ phía các chủ thể tiến hành khai thác.
+ Thứ hai, giá tính thuế. Giá tính thuế tài nguyên được quy định rõ hơn trong Luật Thuế tài
nguyên năm 2009 theo hướng “là giá bán đơn vị sản phẩm tài nguyên của tổ chức, cá nhân
khai thác chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng” (Khoản 1 Điều 6) chứ không chung chung như
quy định tại Điều 5 Pháp lệnh Thuế tài nguyên năm 1998 là “tại nơi khai thác”. Quy định “tại
nơi khai thác” theo Pháp lệnh năm 1998 là tại tỉnh, huyện hay xã là vấn đề gây nhiều tranh
cãi trong quá trình thực hiện. Đối với trường hợp tài nguyên khai thác chưa có giá bán thì
Khoản 2 Điều 6 Luật Thuế tài nguyên đưa ra nguyên tắc xác định giá bán cụ thể như sau: (i)
giá bán thực tế trên thị trường khu vực của đơn vị sản phẩm tài nguyên cùng loại nhưng
không thấp hơn giá tính thuế do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quy định. Chúng tôi cho rằng, quy
định này nhằm giúp khống chế mức giá sàn của loại tài nguyên không được thấp hơn đơn giá
do Nhà nước quy định nhằm tránh trường hợp kê khai giá quá thấp để trốn thuế. (ii) đối với
tài nguyên khai thác chứa nhiều chất khác nhau thì giá tính thuế xác định theo giá bán đơn vị
của từng chất và hàm lượng của từng chất trong tài nguyên khai thác nhưng không thấp hơn
giá tính thuế do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định. Tuy nhiên, theo chúng tôi, trên thực tế,
việc xác định hàm lượng riêng của từng chất trong tài nguyên rất phức tạp và đòi hỏi phải
thông qua quy trình kỹ thuật và phải có chi phí để xác định. Trong khi đó, cơ sở vật chất,
điều kiện kỹ thuật cũng như nguồn nhân lực của cơ quan quản lý nhà nước là cơ quan thuế và
cơ quan tài nguyên - môi trường để thực hiện việc phân tích, xác đ ịnh hàm lượng chưa đảm
bảo thì e rằng, tính khả thi của quy định này sẽ không cao.
2.2. Phân tích tác động của Thuế tài nguyên
2.2.1. Thuế Tài nguyên góp phần bảo vệ môi trường và tăng nguồn thu cho Ngân sách
Nhà nước.
Theo thống kê của Tổng cục Thuế, số thu thuế tài nguyên các năm 2005- 2008 bình quân mỗi
năm trên 23.200 tỷ đồng, chiếm khoảng 15% tổng thu ngân sách Nhà nước từ sản xuất kinh
doanh trong nước. Năm 2011, chỉ tính riêng việc thu thuế từ dầu thô ước đạt 100 nghìn tỷ
đồng, bằng 144,3% so với dự toán. Trước đây, thuế Tài nguyên được thực hiện theo Pháp
lệnh thuế Tài nguyên (năm 1998) và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung Điều 6 Pháp lệnh thuế Tài
nguyên (năm 2008). Riêng đối với dầu mỏ, khí thiên nhiên được thực hiện theo quy định của
Luật Dầu khí. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện chính sách thuế tài nguyên, một số quy
định tại các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan như Luật Dầu khí, Luật Đầu tư và thực
tế triển khai thực hiện, Pháp lệnh thuế Tài nguyên đã bộc lộ những bất cập cần phải sửa đổi,
bổ sung. Do đó, tại Kỳ họp thứ 6 Quốc hội XII đã thông qua Luật Thuế Tài nguyên, có hiệu
lực thi hành từ ngày 1-7-2010. Nhằm tăng tính hiệu quả và hợp lý cho việc thu thuế Tài
nguyên, biểu thuế suất trong Luật thuế Tài nguyên đã được thu hẹp lại biên độ bằng việc tăng
mức sàn và hạ mức trần. Việc điều chỉnh này hướng tới hầu hết tài nguyên thuộc nhóm
khoáng sản kim loại và một số tài nguyên quý hiếm khác.
Đối tượng chịu thuế này đều có mức thuế suất sàn tăng vì đây là những tài nguyên không thể
tái tạo, có giá trị lớn. Việc xác định biểu thuế suất này vẫn nhằm đảm bảo nguồn thu ngân
sách Nhà nước, đồng thời góp phần nâng cao ý thức bảo vệ tài nguyên quốc gia từ phía các
chủ thể tiến hành khai thác. Việc áp dụng thuế và phí trong bảo vệ môi trường là những hình
thức thể hiện của nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền”. Thuế và phí đều là những
nguồn thu phải nộp vào ngân sách Nhà nước. Theo đó, đối tượng chịu thuế so với qui định
trước đây đã loại “động vật của rừng tự nhiên” ra khỏi đối tượng chịu thuế. Bổ sung thêm
“khí than” vào đối tượng chịu thuế. Riêng sản phẩm của rừng tự nhiên thuộc đối tượng chịu
thuế tài nguyên không bao gồm hồi, quế, sa nhân, thảo quả do người nộp thuế (NNT) trồng
tại khu vực rừng tự nhiên được giao khoanh nuôi và bảo vệ. Đồng thời, Thuế Tài nguyên đã
nâng mức thuế tối thiểu của khung thuế suất đối với các loại tài nguyên thuộc nhóm kim loại
và một số loại tài nguyên quý hiếm khác; bỏ thuế suất 0% và qui định tài nguyên không tái
tạo phải áp dụng mức thuế suất cao; mở rộng đối tượng chịu thuế và đối tượng nộp thuế...
2.2.2. Thuế tài nguyên góp phần ổn định sản xuất và chống lạm phát
Tài nguyên thiên nhiên đóng vai trò quan trọng đối với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước. Trong điều kiện các nguồn lực để phát triển kinh tế còn chưa đủ mạnh thì tài
nguyên là một trong những nguồn lực quan trọng nhất để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đất
nước (theo số liệu Quyết toán thu ngân sách năm 2007 thì: Số thu từ dầu khí chiếm 24% tổng
số thu ngân sách = 78.634 tỷ đồng/327.911 tỷ đồng. Số thu thuế tài nguyên là 23.992 tỷ đồng
(chiếm 7.32% tổng số thu ngân sách = 23.992/327.911 tỷ đồng; chiếm 13,11% tổng thu nội
địa = 23.992/182.993 tỷ đồng).
Trong thời gian vừa qua, sự phát triển của ngành công nghiệp khai thác, chế biến tài nguyên
đã cung cấp nguồn nguyên liệu đầu vào đáng kể cho các ngành sản xuất khác, hạn chế sự phụ
thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu, góp phần ổn định sản xuất trong nước, tạo công ăn
việc làm, tăng thu nhập cho lao động, nâng cao đời sống nhân dân.
Với các ngành sản xuất: than, điện, phân bón, xi măng, giấy.. là các ngành quan trọng của
nền kinh tế (cung cấp phần lớn sản phẩm đầu vào cho nền sản xuất trong nước). Than là
nguyên liệu đầu vào cho các ngành sản xuất: Điện, phân bón, xi măng, giấy,... Điện là đầu
vào cho các ngành sản xuất, sinh hoạt và dịch vụ. Phân bón là đầu vào của ngành sản xuất
nông nghiệp. Xi măng là sản phẩm đầu vào cho ngành xây dựng.
Sự ổn định về giá cả, về sản lượng cung cấp của ngành sản xuất than sẽ dẫn đến sự ổn định
giá điện, giá phân bón, giá xi măng,... dẫn đến ổn định giá các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu
như lương thực, thực phẩm và nhiều mặt hàng quan trọng khác. Thuế tài nguyên là yếu tố
cấu thành trong giá bán sản phẩm. Do đó, sự ổn định thuế tài nguyên cũng góp phần ổn định
giá, chống lạm phát.
2.2.3. Nâng cao nhận thức về vai trò của tài nguyên đối với sự phát triển kinh tế đất
nước
Nước ta đang trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, trong khi các nguồn
lực để phát triển kinh tế còn thiếu và yếu, thì tài nguyên là nguồn lực đóng vai trò quan trọng
cho quá trình phát triển kinh tế đất nước.
Trong thời gian vừa qua, do sự khó khăn về mặt kinh tế, nền khoa học kỹ thuật chưa phát
triển, dẫn đến sự hạn chế nhất định về công tác thăm dò, khai thác, đánh giá trữ lượng tài
nguyên hiện có của đất nước. Thêm vào đó, các địa phương chưa có sự quan tâm đúng mức
về vai trò của nguồn lực tài nguyên. Cùng với sự tiến bộ về khoa học kỹ thuật, sự hội nhập
quốc tế, nhu cầu khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên phục vụ phát triển kinh tế ngày
càng tăng. Tài nguyên được khai thác và sử dụng ngày càng nhiều, đặc biệt là tài nguyên
không tái tạo; giá tài nguyên có xu hướng tăng nhanh. Hoạt động kinh doanh khai thác tài
nguyên thu được lợi nhuận lớn, trong khi công tác quản lý tài nguyên chưa được thực hiện
một cách triệt để, hoạt động khai thác tài nguyên diễn ra tràn lan, khai thác không phép, khai
thác vượt phép, xuất khẩu nguyên liệu thô diễn ra phổ biến,… dẫn đến thất thoát tài nguyên,
thất thu ngân sách, gây mất ổn định xã hội và ô nhiễm môi trường.
Luật thuế tài nguyên là một trong những công cụ quan trọng trong việc quản lý tài nguyên.
Cùng với quy định thuế tài nguyên (trừ dầu khí) để lại ngân sách địa phương 100%, việc quy
định giao cho UBND các tỉnh thành phố trực thuộc trung ương quy định giá tính thuế đối với
một số tài nguyên đã tạo điều kiện để cơ quan quản lý địa phương tăng cường công tác quản
lý đối với hoạt động khai thác tài nguyên, hạn chế khai thác không phép, gây lãng phí tài
nguyên và ô nhiễm môi trường nơi khai thác.
Việc nâng cao nhận thức về vai trò của tài nguyên sẽ khuyến khích các địa phương lựa chọn
phương thức đầu tư khai thác, chế biến tài nguyên hợp lý và lựa chọn đường lối phát triển
kinh tế xã hội thích hợp với điều kiện địa phương mình. Tăng cường công tác quản lý và cấp
phép khai thác, kinh doanh tài nguyên khoáng sản, lựa chọn nhà đầu tư đủ điều kiện, tiềm lực
để khai thác, chế biến tài nguyên; có chính sách khuyến khích đầu tư chế biến sâu nâng cao
giá trị tài nguyên. Từ đó, tài nguyên ngày càng được quản lý chặt chẽ hơn, sử dụng tiết kiệm,
hiệu quả, bảo vệ nguồn tài nguyên, bảo vệ môi trường.
2.3. Những khó khăn và thuận lợi trong việc thu thuế
2.3.1. Những thuận lợi
Tăng cường quản lý nhà nước đối với tài nguyên, bảo vệ, khai thác, sử dụng hợp lý, tiết
kiệm và có hiệu quả; bảo vệ môi trường.
Kế thừa, luật hoá các quy định của pháp luật hiện hành về thuế liên quan đến tài nguyên
còn phù hợp. Khắc phục những mặt hạn chế, chưa đầy đủ của chính sách thuế tài nguyên
hiện hành.
Thể chế hoá chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về tiếp tục cải cách, xây dựng
hệ thống thuế đồng bộ, phù hợp với các quy định của Hiến pháp, tính thống nhất và đồng bộ
với các văn bản pháp luật khác có liên quan.
Góp phần đảm bảo ổn định nguồn thu ngân sách nhà nước.
2.3.2. Những khó khăn
Trong quá trình thực hiện chính sách thuế, việc tính thuế tài nguyên đang có nhiều bất cập và
vướng mắc:
Công tác điều tra đánh giá nguồn tài nguyên khoáng sản của quốc gia cũng như những
điểm mỏ do địa phương quản lý không được coi trọng. Và theo đó công tác quy hoạch phát
triển ngành khai khoáng của địa phương hoàn toàn bị bỏ qua. Các điểm mỏ hàng ngày bị xé
nhỏ, cấp phép tràn lan cho các doanh nghiệp không có kinh nghiệm kỹ thuật công nghệ,
không có tiềm lực tài chính, không có đánh giá địa chất đầy đủ để có thể quyết định đầu tư
chế biến sâu ra các sản phẩm có giá trị thương mại cao hơn sản phẩm thô. Từ đó hạn chế
nguồn thu thuế
Sự chênh lệch quá cao giữa biểu thuế suất quy định so với thực tế cũng gây không ít khó
khăn cho cơ quan tính thuế. Chẳng hạn, quy định khoáng sản không kim loại có khung biểu
thuế suất (từ 3 - 15%). Với biên độ khá lớn này, khi nào tính thuế suất 3% và khi nào tính
15%
Chưa đưa các loại tài nguyên như không khí, vùng biển, vùng trời, kho số, tần số, các
nguồn năng lượng (gió, ánh sáng mặt trời)… vào đối tượng chịu thuế tài nguyên.
Việc xác định giá tính thuế theo quy định tại điều 7 của dự thảo luật cũng rất phức tạp và
chưa bao quát hết những trường hợp sẽ xảy ra trong thực tế. Chẳng hạn, khoản 3 điều 7 “giá
tính thuế đối với một số trường hợp cụ thể” còn quá sơ sài. Trường hợp số lượng tài nguyên
được khai thác nhưng được sử dụng với nhiều mục đích khác nhau (làm nguyên liệu cho quá
trình sản xuất tiếp; tiêu thụ trên thị trường nội địa, xuất khẩu, nhập kho dự trữ...) hoặc bán ở
nhiều địa điểm khác nhau chưa được quy định và cũng rất khó có thể quy định một cách rõ
ràng, minh bạch. Vì vậy, việc quy định giá tính thuế là “giá bán đơn vị sản phẩm tài nguyên”
như quy định của dự thảo là không rõ ràng, dẫn đến khó hiểu, khó áp dụng vào thực tiễn
Khi tính thuế tài nguyên sẽ căn cứ vào “Sản lượng tài nguyên thực tế khai thác”, nhưng,
quy định tính thuế theo “sản phẩm sản xuất trong kỳ” và “định mức sử dụng tài nguyên trên
một đơn vị sản phẩm” đối với loại tài nguyên chưa bán ngay mà còn phải qua gia công để
tiếp tục sản xuất ra sản phẩm là không khả thi vì tài nguyên đó sản xuất ra rất nhiều sản
phẩm, theo nhiều công đoạn sản xuất sẽ tính theo sản phẩm nào.
Hàm lượng, chất lượng tài nguyên khai thác lên cùng tạp chất không đồng đều nên việc xác
định khối lượng tài nguyên, giá tính thuế trên tài nguyên là khó khăn. Khó đảm bảo thống
nhất giá tài nguyên trên toàn quốc.
Sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý cấp phép khai thác tài nguyên và cơ quan thuế chưa
chặt chẽ, hệ thống thông tin về trữ lượng, chủng loại tài nguyên tại địa phương chưa đầy đủ
dẫn đến khó khăn trong việc thu thuế tài nguyên.
CHƯƠNG III: KIẾN NGHỊ
- Hoàn thiện luật quản lý thuế theo hướng qui định rõ chế độ tự chịu trách nhiệm khai
báo và nộp thuế của từng đối tượng nộp thuế; đối tượng được ủy quyền, bảo lãnh nộp thay
thuế.
- Xây dựng quy chế kiểm soát nội bộ: xây dựng và công khai các qui trình nghiệp vụ cụ
thể trong từng khâu nghiệp vụ, có chế độ trách nhiệm cho từng đối tượng, chế độ báo cáo cấp
trên và chế độ kiểm tra định kỳ.
- Chính sách miễn thuế phải được quy định một cách cụ thể, chi tiết và xem xét đến tính
công bằng cho các Doanh nghiệp. Chế độ ấn hạn thuế rõ ràng theo tiêu chí và thời gian cụ
thể, trách chung chung rất khó trong công tác xử lý như hiện nay.
- Đối với công tác giá, tính thuế: Chi cục phải phân công cán bộ giá chuyên trách,
không kiêm nhiệm. Cán bộ làm công tác giá, thuế phải được phân công dựa trên kiến thức
chuyên môn được đào tạo (tốt nghiệp các trường kinh tế, tài chính, kế toán, thương mại,
ngoại thương). Ưu tiên bố trí những cán bộ đã làm công tác thuế, giá lâu năm, dày dặn kinh
nghiệm thực tế.
- Công tác đào tạo: Song song với việc hoàn thiện mô hình tổ chức, tiếp tục thực hiện
công tác đào tạo nâng cao trình độ, năng lực của cán bộ làm công tác thuế, giá tại các Chi cục
trực thuộc đặc biệt là cán bộ làm công tác kiểm tra.
- Xây dựng chế độ khen thưởng: khen thưởng định kỳ, đột xuất đối với những trường
hợp có thành tích trong công tác phát hiện gian lận, truy thu thuế cho Nhà nước và các Chi
Thuế Tài nguyên cần được hoàn thiện theo hướng đơn giản hóa cơ cấu thuế suất để nâng cao
khả năng kiểm soát, chống gian lận thương mại, theo đó cần giảm bớt số lượng các mức thuế
suất, loại bỏ việc áp dụng nhiều mức thuế suất đánh vào các sản phẩm cùng loại. Đồng thời
cần xác lập rõ hệ thống phân loại các mức thuế suất. hoàn chỉnh các qui trình, qui chế thực
hiện các biện pháp chế tài để đảm bảo thực thi nghiêm túc Luật thuế Tài nguyên... không để
nợ thuế quá hạn hàng quí, năm.
- Để phát triển công nghiệp khai khoáng và sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên khoáng
sản trên địa bàn các tỉnh phải bắt đầu từ các dự án khai thác mỏ, cần theo đúng Luật Khoáng
sản và theo cam kết của các doanh nghiệp, nếu dự án không triển khai theo đúng tiến độ thì
sẽ bị thu hồi. Các dự án hết hạn đều không cho gia hạn.
KẾT LUẬN
Trên đây là toàn bộ nội dung của đề tài tiểu luận Phân tích tác động của Thuế tài
nguyên. Từ chương 1 là giới thiệu về thuế tài nguyên và khái quát về một số luật thuế tài
nguyên ở các quốc gia trên thế giới, đến chương 2 là khái quát về Luật Thuế Tài nguyên của
Việt Nam, số 45/2009/QH12 do Quốc Hội ban hành có hiệu lực thi hành ngày 1/7/2010. Qua
đó, phân tích tác động của luật thuế tài nguyên tới các mặt đời sống kinh tế - xã hội, những
điểm thuận lợi, khó khăn khi thi hành luật thuế tài nguyên. Cuối cùng, đưa ra những kiến
nghị chỉ mang tính định hướng, gợi mở về luật thuế tài nguyên . Do thời gian có hạn và kiến
thức còn nhiều hạn chế, nên đề tài tiểu luận không thể tránh khỏi những thiết sót, những vấn
đề chưa phân tích thỏa đáng , rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của Thầy.
- Xem thêm -