BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỀU DƯỠNG NAM ĐỊNH
TRẦN THỊ THU HUYỀN
THỰC TRẠNG CĂNG THẲNG TÂM LÝ CỦA NGƯỜI CHĂM SÓC
BỆNH NHI ĐIỀU TRỊ HÓA CHẤT TẠI CƠ SỞ 3
BỆNH VIỆN K NĂM 2022
BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
Nam Định - 2022
BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỀU DƯỠNG NAM ĐỊNH
TRẦN THỊ THU HUYỀN
THỰC TRẠNG CĂNG THẲNG TÂM LÝ CỦA NGƯỜI CHĂM SÓC
BỆNH NHI ĐIỀU TRỊ HÓA CHẤT TẠI CƠ SỞ 3
BỆNH VIỆN K NĂM 2022
Chuyên ngành: Điều dưỡng Nhi khoa
BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN:
TS.BS. Vũ Văn Thành
Nam Định - 2022
i
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Trưởng khoa, Điều dưỡng trưởng khoa Nội Nhi bệnh
viện K, Tiến sỹ Vũ Văn Thành, người nhà bệnh nhi đã cùng đồng hành giúp đỡ tôi
hoàn thành chuyên đề!
Tác giả
Trần Thị Thu Huyền
ii
LỜI CAM ĐOAN
Xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Các dữ liệu kết quả nêu
trong chuyên đề là trung thực và chưa từng công bố.
Tác giả
Trần Thị Thu Huyền
iii
MỤC LỤC
Trang
Lời cảm ơn……………………………………………………………………................i
Lời cam đoan…………………………………………………………………………...ii
Mục lục……………………………………………………………………...................iii
Danh mục chữ viết tắt………………………………………………………….………v
Danh mục bảng…………………………………………………………………...……vi
Danh mục biểu đồ sơ đồ……………………………………………………................vii
Đặt vấn đề………………………………………………………………………………1
Mục tiêu chuyên đề……………………………………………………………………..3
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn…………………………………………………..4
1.1 Cơ sở lý luận………………………………………………………………………..4
1.1.1 Khái niệm……………………………………………..……………………..…...4
1.1.2 Tính cộng dồng……………………………………………………………….….4
1.1.3 Nguyên nhân….………………………………………………………………….5
1.1. 4 Tính thời đại….………………………………………………………………….6
1.2 Cơ sở thực tiễn…………………………………….…………………......................6
1.2.1 Nghiên cứu trên thế giới…………………………………………………………6
1.2.2 Nghiên cứu tại Việt Nam……………………………………………………..…7
Chương 2: Mô tả các vấn đề cần giải quyết…………………………………………...24
2.1. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu…………………………………………24
2.2. Kết quả nghiên cứu……………………………………………………………..30
2.2.1 Đặc điểm chung của đối tương nghiên cứu……………………………………..30
2.2.2 Thực trạng căng thẳng tâm lý của người chăm sóc bệnh nhi……………….…..32
Chương 3: Bàn luận…………………………………………………………………...33
3.1 Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu………………………………………33
3.2 Thực trạng căng thẳng tâm lý của người chăm sóc bệnh nhi…………………….34
iv
3.3 Một số yếu tố liên quan đến mức độ căng thẳng tâm lý của người chăm sóc bệnh
nhi……………………………………………………………………………………...36
3.4 Ưu điểm và tồn tại, hạn chế……………………………………………………….36
3.5 Đề xuất giải pháp khắc phục……………………………………………………...38
Kết luận………………………………………………………………………………..40
Tài liệu tham khảo
Phụ lục
v
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BS
Bác sỹ
CS
Chăm sóc
ĐD
Điều dưỡng
NB
Bệnh nhi
NCS
Người chăm sóc
WHO (World Health Organization)
Tổ chức Y tế thế giới
vi
DANH MỤC BẢNG
Trang
Bảng 2.1 Đặc điểm chung của người chăm sóc bệnh nhi ug thư…..………………….33
Bảng 2.2 Đặc điểm chung của bệnh nhi………………………………………………35
Bảng 2.3 Mức độ căng thẳng của người chăm sóc bệnh nhi………………………….36
Bảng 2.4 Một số yếu tố liên quan đến mức độ căng thẳng của NCS bệnh nhi.……….37
vii
DANH MỤC BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ
Trang
Sơ đồ nghiên cứu…………………………………………………………………….33
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh ung thư ngày càng có xu hướng gia tăng trong những thập niên gần đây;
trong đó, có ung thư trẻ em. Mỗi năm, trên thế giới ước tính có khoảng 400.000 trẻ em
và thanh thiếu niên mắc ung thư. Ung thư là một nguyên nhân quan trọng gây ra bệnh
tật ở trẻ em, là nguyên nhân đứng hàng thứ chín gây ra gánh nặng bệnh tật cho trẻ em
trên toàn thế giới [10]. Các bệnh ung thư phổ biến ở trẻ em bao gồm các khối u ác tính
về huyết học như bạch cầu cấp và ung thư hạch, u hệ thống thần kinh trung ương, u
nguyên bào thần kinh, u Wilms. Sự phát triển của khoa học kỹ thuật, sinh học phân tử
và sự tiến bộ trong điều trị giúp bệnh ung thư trẻ em đạt tỷ lệ khỏi ngày càng cao; đặc
biệt, ở các nước phát triển với tỷ lệ sống thêm 5 năm khoảng 80% [10]. Tuy nhiên,
không có đủ dữ liệu đầy đủ về kết quả điều trị ung thư trẻ em ở các nước đang phát
triển và chậm phát triển, tỷ lệ sống 5 năm ước tính chỉ khoảng 30-40%. Nam Á và
Đông Nam Á là những khu vực có gánh nặng ung thư theo năm được điều chỉnh theo
khuyết tật (DALY) cao nhất đối với bệnh ung thư ở trẻ em [10].
Vào tháng 12 năm 2021, WHO và Bệnh viện Nghiên cứu Trẻ em St Jude đã ra
mắt Nền tảng Toàn cầu về Tiếp cận Thuốc Ung thư Trẻ em, nền tảng đầu tiên thuộc
loại hình này, nhằm cung cấp nguồn cung cấp thuốc chữa ung thư ở trẻ em được đảm
bảo chất lượng không bị gián đoạn với sự hỗ trợ từ đầu đến cuối từ việc lựa chọn đến
pha chế thuốc theo tiêu chuẩn chăm sóc tốt nhất có thể [11]. WHO và Cơ quan Nghiên
cứu Ung thư Quốc tế (IARC) phối hợp với Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế
(IAEA) và các tổ chức và đối tác khác của Liên hợp quốc, tăng cường cam kết chính trị
đối với việc kiểm soát ung thư ở trẻ em; hỗ trợ các chính phủ phát triển các trung tâm
ung thư chất lượng cao và các vệ tinh khu vực để đảm bảo chẩn đoán sớm, chính xác
và điều trị hiệu quả; phát triển các tiêu chuẩn và công cụ để hướng dẫn việc lập kế
hoạch và thực hiện các can thiệp để chẩn đoán sớm, điều trị và chăm sóc giảm nhẹ và
sống sót, cải thiện khả năng tiếp cận với các loại thuốc và công nghệ thiết yếu và hỗ trợ
các chính phủ bảo vệ các gia đình có trẻ em mắc bệnh ung thư khỏi bị tổn hại về tài
chính và sự cô lập của xã hội do hậu quả của việc chăm sóc bệnh ung thư [1]. Thư
Sáng kiến Toàn cầu về Ung thư Trẻ em là một phần của hoạt động hưởng ứng nghị
2
quyết của Đại hội đồng Y tế Thế giới về Phòng ngừa và Kiểm soát Ung thư thông qua
Phương pháp Tiếp cận Tích hợp (WHA70.12), tập trung vào việc giảm tỷ lệ tử vong
sớm do các bệnh không lây nhiễm (NCDS Non Communicable Diseases ) và đạt được
bao phủ sức khỏe toàn dân [12].
Một số bệnh nhiễm trùng mạn tính, chẳng hạn như HIV, virus Epstein-Barr và
bệnh sốt rét, là những yếu tố nguy cơ gây ung thư ở trẻ em. Chúng đặc biệt có liên
quan trong LMIC. Các bệnh nhiễm trùng khác có thể làm tăng nguy cơ phát triển ung
thư của trẻ khi trưởng thành; vì vậy, điều quan trọng là phải được chủng ngừa và theo
đuổi các phương pháp khác như phát hiện sớm và điều trị các bệnh nhiễm trùng mạn
tính có thể dẫn đến ung thư. Dữ liệu hiện tại cho thấy khoảng 10% tổng số trẻ em mắc
bệnh ung thư có nguyên nhân do yếu tố di truyền [13]. Nghiên cứu sâu hơn là cần thiết
để xác định các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển ung thư ở trẻ em. Cải thiện kết quả
của bệnh ung thư ở trẻ em. Bởi vì, nói chung không thể ngăn ngừa ung thư ở trẻ em,
chiến lược hiệu quả nhất để giảm gánh nặng ung thư ở trẻ em và cải thiện kết quả là tập
trung vào chẩn đoán chính xác, nhanh chóng; sau đó, là liệu pháp dựa trên bằng chứng
hiệu quả với dịch vụ chăm sóc hỗ trợ phù hợp [13].
Trong nghiên cứu của mình Gulseren L. đã gọi người chăm sóc là những bệnh
nhi thầm lặng và những vấn đề về sức khỏe tâm thần của họ chính là kết quả của những
căng thẳng, áp lực được dồn nén trong suốt quá trình chăm sóc bệnh nhi ung thư [24].
Ở Việt Nam, thành viên trong gia đình là nguồn nhân lực chính trong việc chăm
sóc, hỗ trợ bệnh nhi ung thư không chỉ ở nhà mà cả ở bệnh viện. Tuy nhiên, hiện nay
vẫn chưa có nhiều nghiên cứu đánh giá thực trạng căng thẳng tâm lý của người chăm
sóc bệnh nhi ung thư. Chính vì vậy, chúng tôi thực hiện chuyên đề “Thực trạng căng
thẳng tâm lý của người chăm sóc bệnh nhi điều trị hóa chất tại bệnh viện K năm
2022”, nhằm hai mục tiêu sau:
3
MỤC TIÊU CHUYÊN ĐỀ
1. Mô tả thực trạng căng thẳng tâm lý của người chăm sóc bệnh nhi điều trị hoá
chất tại cơ sở 3 bệnh viện K năm 2022.
2. Đề xuất một số giải pháp làm giảm căng thẳng của người chăm sóc bệnh nhi
điều trị hóa chất tại bệnh viện K.
4
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1.
Cơ sở lý luận
1.1.1 Khái niệm
Ngày nay, phần lớn việc điều trị ung thư được thực hiện ngoại trú - bệnh nhi
không phải nằm viện. Điều này có nghĩa là bệnh nhi ung thư cần có người chăm sóc
hàng ngày tại nhà [14]. Người chăm sóc là người giúp đỡ bệnh nhi nhi ung thư thường
xuyên nhất. Trong hầu hết các trường hợp, người chăm sóc chính là, bố mẹ hoặc cô
chú anh chị em của bệnh nhi. Với bệnh nhi bị ung thư thì người chăm sóc chính là bố,
mẹ. Ngoài các công việc thường ngày như chuẩn bị bữa ăn, dọn dẹp, tắm rửa cho bệnh
nhi nhi, đưa đón đến bệnh viện, người chăm sóc cũng đóng vai trò quan trọng không
kém nhân viên y tế trong quá trình chăm sóc sức khỏe bệnh nhi nhi ung thư [14]. Sự
chăm sóc tốt và đáng tin cậy của người chăm sóc là điều cốt yếu để duy trì sức khỏe
tinh thần và thể chất của bệnh nhi. Họ thường đảm nhận các công việc của bệnh nhi
ung thư đồng thời vẫn đảm nhiệm những công việc khác trong gia đình như chăm sóc
giúp đỡ các thành viên khác. Thời gian biểu dày đặc có thể làm người chăm sóc bệnh
nhi không còn thời gian cho những nhu cầu của riêng của bản thân, có thể cảm thấy
cần từ chối các cơ hội nghề nghiệp, đi làm ít giờ hơn, hoặc thậm chí nghỉ hưu sớm để
đáp ứng yêu cầu chăm sóc cho bệnh nhi [14].
1.1.2 Tính cộng đồng
Việc chăm sóc bệnh nhi ung thư có thể làm bạn cảm thấy rất nặng nề và đau đớn
khi phải chứng kiến người họ yêu thương bị bênh tật dày vò hàng ngày hàng giờ, cũng
có thể cảm thấy bị quá tải hoặc mất tinh thần khi phải cố gắng giải quyết quá nhiều khó
khăn. Những người chăm sóc có thể xuất hiện các triệu chứng thực thể như mệt mỏi và
khó ngủ. Điều này có thể trở thành vấn đề lớn đối với những người chăm sóc không
được nhận sự hỗ trợ cần thiết và những người vì lo cho bệnh nhi mà không tự chăm sóc
cho bản thân; đặc biệt, là những người cố gắng một mình làm mọi việc [15].
- Mặc dù buồn và sốc vì người thân bị ung thư, nhiều người tìm thấy sự hài lòng trong
việc chăm sóc cho bệnh nhi nhi. Bạn sẽ thấy dễ chịu khi biết mình có ích và người bạn
5
yêu thương thật sự cần bạn. Công việc chăm sóc bệnh nhi ung thư cũng có thể mở ra
những cánh cửa để có thêm những người bạn mới, những mối quan hệ mới. Thông qua
các hội, nhóm, bạn có thể gặp gỡ những người có cùng hoàn cảnh và khó khăn như bạn
và gia đình bạn. Việc chăm sóc bệnh nhi cũng kéo các thành viên gia đình lại gần nhau
và giúp mọi người cảm thấy gần gũi hơn với bệnh nhi đang cần được chăm sóc. Đây là
những cảm xúc tích cực giúp bạn thêm nghị lực và sức chịu đựng để tiếp tục thực hiện
vai trò của người chăm sóc trong suốt thời gian bệnh nhi cần [15].
- Cảm thấy công việc chăm sóc bệnh nhi ung thư là quá tải, gánh nặng, thậm chí mắc
kẹt tại thời điểm nào đó là điều khá bình thường. Có thể bạn cảm thấy áp lực từ các
thành viên trong gia đình, bạn bè, từ các bác sỹ, điều dưỡng của bệnh nhi ung thư làm
bạn phải nhận công việc chăm sóc mặc dù bạn có rất ít hoặc không có mong muốn
hoặc khả năng làm việc này. Nếu bạn trở thành một người chăm sóc do mong muốn
của người khác, bạn cần suy nghĩ về cảm xúc của mình trước áp lực công việc. Bạn
nên quyết định những giới hạn của bản thân và cho họ biết càng sớm càng tốt. Trước
khi những yêu cầu của công việc chăm sóc trở thành một vấn đề. Nếu bạn biết sẽ gặp
sự phản đối, bạn có thể nhờ bác sỹ điều trị ung thư giới thiệu cho bạn người mà bạn có
thể nói chuyện về vấn đề tìm người chăm sóc bệnh nhi ung thư [15].
- Thật khó để dự liệu trước được bệnh tật, nhất là bệnh nghiêm trọng như ung thư.
Bỗng nhiên bạn được yêu cầu chăm sóc cho bệnh nhi ung thư, và bệnh nhi cũng cần
bạn giúp đỡ khi quyết định về chăm sóc y tế và lựa chọn điều trị. Tất cả những điều
này đều không dễ dàng. Sẽ có lúc bạn làm rất tốt, nhưng cũng có lúc bạn chỉ muốn từ
bỏ. Đây cũng là điều bình thường.
1.1.3 Nguyên nhân
Có nhiều nguyên nhân gây căng thẳng và sa sút tinh thần của những người chăm
sóc bệnh nhi ung thư. Đối mặt với khủng hoảng do bệnh ung thư ở người mà bạn yêu
thương, tương lai bất định, lo lắng về tài chính, những quyết định khó khăn, và những
thay đổi bất ngờ và không mong muốn trong lối sống chỉ là một vài ví dụ. Và trong khi
mọi sự chú ý đều tập trung vào bệnh nhi, tất cả những điều này cũng sẽ ảnh hưởng tới
thể chất và sức khoẻ tinh thần của người chăm sóc.
6
- Sự căng thẳng về vai trò và lý thuyết nâng cao vai trò, nghiên cứu này đã xem xét tác
động của nhiều vai trò của người chăm sóc, chẳng hạn như được tuyển dụng và chăm
sóc trẻ vị thành niên trong gia đình, đối với việc điều chỉnh tâm lý của họ [15].
- Trong số những người chăm sóc đã hoàn thành Khảo sát Chất lượng Cuộc sống của
Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ dành cho Người chăm sóc, 457 người chăm sóc ở độ tuổi
trung niên (18-64) và cung cấp dữ liệu đầy đủ cho các biến nghiên cứu đã được đưa
vào phân tích. Các chỉ số của các biến kết quả, cụ thể là mức độ điều chỉnh tâm lý của
người chăm sóc, là căng thẳng khi chăm sóc bệnh nhi ung thư, quản lý ý nghĩa của việc
chăm sóc và ảnh hưởng tiêu cực và tích cực [14].
- Các phân tích mô hình tuyến tính tổng quát đa biến cho thấy rằng những người chăm
sóc được tuyển dụng đồng thời chăm sóc trẻ em đã báo cáo mức độ căng thẳng chăm
sóc cao hơn và ảnh hưởng tiêu cực. Ngược lại, những người chăm sóc được tuyển dụng
không phải chăm sóc trẻ em cho biết mức độ quản lý ý nghĩa của kinh nghiệm chăm
sóc cao hơn.
- Các phát hiện cung cấp hỗ trợ một phần cho lý thuyết căng thẳng vai trò, rằng một
người chăm sóc càng thực hiện nhiều vai trò xã hội, thì người chăm sóc càng có nhiều
khả năng bị căng thẳng và ảnh hưởng tiêu cực. Các phát hiện cũng cho thấy rằng khi
cung cấp dịch vụ chăm sóc cho những người sống sót sau ung thư, những người chăm
sóc có thể được hưởng lợi từ việc được tuyển dụng. Những phát hiện này có ý nghĩa
quan trọng đối với việc phát triển các chương trình mục tiêu nhằm giảm bớt sự lo lắng
về tâm lý của những người chăm sóc bệnh nhi ung thư với nhiều vai trò và giúp họ
nhận ra trải nghiệm chăm sóc của họ là có ý nghĩa.
1.1.4 Tính thời đại
Điều tra mức độ phổ biến của mong muốn được hỗ trợ tâm lý chính thức của
người chăm sóc chính của bệnh nhi ung thư và xác định các đặc điểm nhân khẩu học
xã hội và tâm lý của người chăm sóc cũng như các đặc điểm liên quan đến bệnh tật của
bệnh nhi liên quan đến mong muốn này.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Nghiên cứu trên thế giới
7
Đây là một nghiên cứu cắt ngang, đa trung tâm đánh giá mong muốn được hỗ
trợ tâm lý chính thức của những người chăm sóc chính liên tiếp của bệnh nhi ung
thư. Bệnh nhi và người chăm sóc đã hoàn thành Thang điểm Lo lắng và Trầm cảm của
Bệnh viện và báo cáo mong muốn được hỗ trợ tâm lý chính thức [2].
Hai trăm tám mươi hai người chăm sóc bệnh nhi đã được đánh giá. Bốn mươi
phần trăm bệnh nhi bị ung thư vú, Phân tích hồi quy cho thấy mong muốn được hỗ trợ
chính thức của người chăm sóc có liên quan tiêu cực với tuổi của người chăm sóc (Exp
(B) = 0,95; p <0,001 ) và trình độ học vấn (Exp (B) = 0,35; p = 0,032 ) biết họ mong
muốn được hỗ trợ chính thức, và 54% đã trải qua mức độ đau khổ từ trung bình đến
cao. Phân tích hồi quy cho thấy mong muốn được hỗ trợ chính thức của người chăm
sóc có liên quan tiêu cực với tuổi của người chăm sóc (Exp (B) = 0,95; p <0,001 ) và
trình độ học vấn (Exp (B) = 0,35; p = 0,032 ) và cùng chiều với trình độ của người
chăm sóc đau khổ (Exp (B) = 1,08; p <0,001 ) và với mong muốn được hỗ trợ tâm lý
chính thức của bệnh nhi (Exp (B) = 2,54; p = 0,008). Những biến số này chỉ dự đoán
25% người chăm sóc mong muốn được hỗ trợ chính thức [3].
Một trong số năm người chăm sóc mong muốn được hỗ trợ tâm lý chính thức
mặc dù một trong hai người chăm sóc trải qua mức độ đau khổ đáng kể. Mối liên hệ
yếu giữa mong muốn được hỗ trợ chính thức và đau khổ của người chăm sóc nhấn
mạnh sự cần thiết phải thực hiện sàng lọc có hệ thống về cả tình trạng đau khổ của họ
và mong muốn được hỗ trợ tâm lý chính thức trong khoa ung thư [3].
Việc chăm sóc bệnh nhi bị ung thư có thể khó khăn ở nhiều cấp độ. Cách người
chăm sóc thích nghi với thách thức này có thể bị ảnh hưởng bởi định hướng cá nhân
của họ đối với mối quan hệ và động cơ của họ trong việc cung cấp dịch vụ chăm sóc.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã kiểm tra dự đoán về hạnh phúc của người chăm
sóc từ các phẩm chất mối quan hệ được quy định bởi lý thuyết gắn bó và từ các động
cơ được quy định bởi lý thuyết tự quyết định. Thiết kế: Dữ liệu cắt ngang được báo cáo
ở đây là từ Khảo sát Chất lượng Cuộc sống của Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ dành cho
Người chăm sóc [3]. Các biện pháp kết quả chính: Ba biện pháp được đưa vào làm chỉ
số điều chỉnh tâm lý của người chăm sóc: tìm kiếm lợi ích trong trải nghiệm chăm sóc
8
bệnh nhi ung thư, sự hài lòng trong cuộc sống và các triệu chứng trầm cảm. Kết quả:
Trong mô hình phương trình cấu trúc, giữa cả bố (n = 154) và mẹ (n = 160) người
chăm sóc, sự an toàn gắn bó (được đánh giá đối với người phối ngẫu) liên quan tích
cực đến động cơ tự chủ và tìm kiếm lợi ích trong việc chăm sóc; lo lắng gắn bó liên
quan đến động cơ hướng nội để chăm sóc và trầm cảm hơn. Ở những người bố (nhưng
không phải người mẹ), động cơ tự chủ cũng liên quan đến ít trầm cảm hơn và động cơ
hướng nội liên quan đến ít hài lòng hơn trong cuộc sống và nhiều trầm cảm hơn. Trong
số những người mẹ (nhưng không phải người bố), động cơ tự chủ liên quan đến việc
tìm kiếm lợi ích lớn hơn.
Kết luận: Sự khác nhau về định hướng gắn bó và lý do cung cấp dịch vụ chăm
sóc là những yếu tố quan trọng trong việc hiểu được sức khỏe tâm lý của người chăm
sóc bệnh nhi ung thư.
Các ý kiến hoặc quan điểm thể hiện trong phần bổ sung này là của các tác giả và
không nhất thiết phản ánh ý kiến hoặc khuyến nghị của các biên tập viên tạp chí, Hiệp
hội Ung thư Hoa Kỳ, John Wiley & Sons, Inc., hoặc Trung tâm Nghiên cứu Ung thư
Quốc gia Istituto Tumori “Giovanni Paolo II ”Bari [9].
Ước tính số người sống sót sau ung thư trên toàn thế giới trong vòng 5 năm sau
khi được chẩn đoán là khoảng 28,8 triệu. Người chăm sóc không chính thức, chẳng hạn
như bố mẹ, thành viên gia đình thân thiết hoặc bạn bè, cung cấp hỗ trợ cần thiết cho
bệnh nhi ung thư trong suốt quá trình điều trị. Trong quá trình chẩn đoán và giai đoạn
đầu của bệnh, những cá nhân này có thể giúp đỡ thiết thực bằng cách đồng hành cùng
bệnh nhi trong các bước chẩn đoán và cũng hỗ trợ tâm lý để đối phó với sự không chắc
chắn và sợ hãi. Trong giai đoạn nặng của bệnh, người chăm sóc có thể hỗ trợ và tự
chăm sóc cũng như hỗ trợ về mặt tinh thần [4].
Gánh nặng của bệnh nhi ung thư có thể là đáng kể ở tất cả các nền văn hóa. Một
số người cho rằng trải nghiệm chăm sóc không bị ảnh hưởng bởi các khía cạnh như
chủng tộc và dân tộc, nhưng những người khác đã quan sát thấy sự khác biệt về chủng
tộc giữa loại hình và mức độ tham gia vào nhiệm vụ chăm sóc.
9
Mục tiêu của cuộc thảo luận hiện tại là cung cấp cho độc giả một sơ lược về tài
liệu của người chăm sóc bệnh ung thư, ở cả Hoa Kỳ và Châu Âu, và đưa ra một số so
sánh. Trọng tâm chỉ là những người chăm sóc bệnh nhi ung thư người lớn, bởi vì việc
chăm sóc trẻ em hoặc thanh thiếu niên gây ra những căng thẳng đặc biệt cho gia đình.
Chúng tôi đã thực hiện tìm kiếm tài liệu không có hệ thống bằng cách sử dụng cơ sở dữ
liệu PubMed và Web of Knowledge sử dụng các cụm từ tìm kiếm sau: người chăm sóc,
người chăm sóc, người quan trọng khác, người thân, bố mẹ, họ hàng, ung thư và ung
thư học. Chúng tôi cũng đã xem xét các nghiên cứu điển hình từ các bài đánh giá do
các nhà nghiên cứu Hoa Kỳ hoặc Châu Âu biên soạn. Sự đa dạng của nội dung trong 2
nền văn học phản ánh những khác biệt còn tồn tại đã được xác định [26].
* Xác định người chăm sóc của bệnh nhi ung thư
Trước tiên, sẽ hữu ích khi xem xét cách các tài liệu nghiên cứu đã định nghĩa
“người chăm sóc”. Thật không may, không có định nghĩa phổ quát (và, đôi khi, không
có định nghĩa nào được cung cấp); do đó, có sự khác biệt giữa các nghiên cứu. Chúng
tôi đã hỏi những câu hỏi sau: Một cá nhân có phải là người chăm sóc dựa trên việc
cung cấp hỗ trợ tâm lý hoặc hỗ trợ hành vi, chẳng hạn như chuẩn bị một bữa ăn không?
Mức độ hỗ trợ tính theo giờ mỗi ngày hoặc chi phí kinh tế phát sinh có liên quan hơn
đến việc xác định ai là người chăm sóc hay không? Có ai sống chung với bệnh nhi ung
thư được coi là người chăm sóc không? Ví dụ: Khảo sát chất lượng cuộc sống quốc gia
của Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ (ACS) dành cho người chăm sóc (NQOL-CG), đã kết
hợp các yếu tố như vậy và xác định người chăm sóc là một cá nhân “giống như gia
đình”, được bệnh nhi đề cử và 1 cá nhân cung cấp. Tương tự, chúng tôi quan sát thấy
một số tài liệu báo cáo chỉ sử dụng “người chăm sóc” hoặc “người chăm sóc chính”
làm cụm từ tìm kiếm, trong khi những người khác sử dụng các cụm từ rộng hơn như
“gia đình”, “quan trọng khác” hoặc “người thân thích”. Tuy nhiên, điều quan trọng cần
lưu ý là các nghiên cứu và đánh giá khác nhau chỉ có thể được so sánh hoặc tích hợp
nếu chúng có một định nghĩa chung về người chăm sóc hoặc ít nhất là nếu các định
nghĩa được nêu rõ ràng [12].
* Chăm sóc bệnh nhi ung thư ở Hoa Kỳ
10
Liên minh Quốc gia về Chăm sóc (NAC) ước tính rằng 4 triệu người đang chăm
sóc cho một bệnh nhi ung thư trưởng thành; ước tính này chiếm khoảng 8% tổng số
người chăm sóc ở Hoa Kỳ [11]. Trên thực tế, ước tính 8% vượt quá số người chăm sóc
(6%) đối với kẻ giết người số 1 của người Mỹ: Bệnh tim. Dữ liệu cho thấy rằng, đối
với những bệnh nhi bị ung thư, thời gian chăm sóc chủ yếu là trong năm đầu tiên hoặc
2 năm sau. chẩn đoán (hiện tại, 1,6 triệu cá nhân được chẩn đoán hàng năm) hoặc khi
một cá nhân suy giảm và chết vì ung thư (hiện tại, 600.000 người Mỹ chết hàng năm).
Để so sánh, có ít nghiên cứu về những người chăm sóc tại các thời điểm khác trong
quỹ đạo ung thư, nhưng dữ liệu có sẵn cho thấy tỷ lệ chăm sóc thấp (ví dụ: 16% ở 5
năm sau chẩn đoán15) khi những người sống sót không mắc bệnh. Điều này cho thấy
có sự phân bổ theo phương thức chăm sóc (tức là chăm sóc khi chẩn đoán / điều trị,
chăm sóc lúc cuối đời) trên quỹ đạo ung thư. Xem xét số lượng bệnh nhi tại cả hai thời
điểm, khoảng 2,2 triệu người có thể được chăm sóc tại một thời điểm bất kỳ. Tổng
quan về nghiên cứu và dữ liệu về người chăm sóc của Hoa Kỳ có ý nghĩa đối với cả
các nhà hoạch định chính sách và các nhà nghiên cứu [16]. Đầu tiên, xem xét số lượng
người chăm sóc (ước tính khoảng 1,2 triệu người), thời gian và công sức của họ đã tiêu
tốn, và chi phí tài chính cá nhân của họ (bao gồm cả lương bị mất), các nhà hoạch định
chính sách có thể xem xét những chi phí “ẩn” này đối với Hoa Kỳ. Nếu không có
hướng dẫn và kỹ năng thích hợp, người chăm sóc cũng có thể trở thành gánh nặng cho
hệ thống chăm sóc sức khỏe và phúc lợi công cộng. Cụ thể, nhu cầu cấp bách về hỗ trợ
và giáo dục của người chăm sóc trở thành một phần trong kế hoạch xuất viện của bệnh
nhi, giống như những gì được thực hiện đối với những người chăm sóc bệnh nhi đột
quỵ hoặc tim [16].
Một chiến lược lấy mẫu khác đã được NAC phối hợp với Hiệp hội Người về
hưu của Hoa Kỳ sử dụng. Dữ liệu được thu thập từ bất kỳ ai đang chăm sóc (không chỉ
người chăm sóc bệnh nhi ung thư). Mặc dù vậy, mẫu kết quả vẫn tương tự như mẫu thu
được trong ACS NQOL-CG, mặc dù có phần già hơn (≥65 tuổi). Những người chăm
sóc chính (bố/mẹ) thường là người chăm sóc duy nhất, nhưng phần lớn (68%) cũng cho
biết họ nhận được sự giúp đỡ từ những người chăm sóc không được trả lương bổ sung,
11
mặc dù không phải là con cái của họ, như có thể được giả định. Do đó, rất ít nghiên
cứu lấy mẫu những người chăm sóc không cùng vợ, chẳng hạn như con gái hoặc con
trai hoặc con của những người chăm sóc lớn tuổi hơn [15]. Theo hiểu biết của chúng
tôi, không có nghiên cứu nào lấy mẫu người thân hoặc bạn thân khác. Trong tương lai,
việc tuyển dụng người chăm sóc thông qua lấy mẫu cộng đồng (thay vì đề cử bệnh nhi)
sẽ đạt được mẫu người chăm sóc đại diện hơn và sẽ khả thi khi xem xét hàng triệu
người chăm sóc ung thư ở Hoa Kỳ.
* Nhu cầu và gánh nặng chưa được đáp ứng của người chăm sóc
Nhiệm vụ của người chăm sóc có nhiều mặt và thay đổi theo quỹ đạo của bệnh
tật để phù hợp với nhu cầu y tế và tình cảm của bệnh nhi. Các biện pháp đã được phát
triển để đánh giá kết quả chất lượng cuộc sống và nhu cầu hỗ trợ. Khi xem xét các biện
pháp được sử dụng trong các tài liệu rộng hơn, Wen và Gustafson lưu ý rằng các biện
pháp hiện có rất khác nhau trong các lĩnh vực được đánh giá và liệu chúng có cơ sở về
mặt khái niệm hay không [16]. Tất nhiên, việc cung cấp các nguồn lực phù hợp cho
người chăm sóc phụ thuộc vào việc đánh giá chính xác nhu cầu. Mặc dù có sự thống
nhất chung giữa các nhà nghiên cứu về các loại nhu cầu rộng lớn (ví dụ như thông tin),
nhưng có ít sự thống nhất về các yếu tố bên trong các loại. Ví dụ, những người chăm
sóc tham gia NQOL-CG đã ước tính tần suất cung cấp 4 hình thức hỗ trợ: tình cảm,
công cụ (ví dụ: thông tin, nhận dịch vụ y tế), hữu hình (ví dụ như công việc gia đình)
và y tế (ví dụ như quản lý thuốc). Bệnh nhi đã được chẩn đoán trong thời gian trung
bình là 25 tháng. Vào thời điểm đó, khoảng một nửa số người chăm sóc cho biết họ
đưa ra tất cả các hình thức hỗ trợ và phổ biến nhất là hỗ trợ về mặt tinh thần [21].
Gánh nặng hàng ngày để lại cho người chăm sóc những nhu cầu riêng về sự hỗ
trợ và giúp đỡ mà nếu không được đáp ứng sẽ dẫn đến chất lượng cuộc sống kém hơn
và mức độ đau khổ cao hơn. Thậm chí 2 năm sau khi bệnh nhi được chẩn đoán, ít nhất
33% người chăm sóc có thể cần hỗ trợ trong việc đối phó với những lo lắng của chính
họ nỗi đau khổ về tinh thần của bệnh nhi cũng như của chính họ, trao đổi với bệnh nhi
về những mối quan tâm, những thay đổi trong lối sống và cách nhận được nhu cầu
- Xem thêm -