.
BỘ Y TẾ
ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BÁO CÁO TỔNG KẾT
Đề tài khoa học và công nghệ cấp trường
TÁC NHÂN VI KHUẨN
GÂY VIÊM PHỔI MẮC PHẢI CỘNG ĐỒNG
Ở BỆNH NHÂN NHẬP VIỆN ĐIỀU TRỊ
Mã số đề tài :
Đồng chủ nhiệm đề tài
- ThS. BS Lý Khánh Vân
- PGS.TS Lê Tiến Dũng
Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2018
.
.
MỤC LỤC
Thông tin kết quả nghiên cứu
Đặt vấn đề và mục tiêu nghiên cứu
Chương 1 : Tổng quan tài liệu
1.1. Một số khái niệm về viêm phổi
1.2. Các tác nhân vi khuẩn gây bệnh viêm phổi mắc phải cộng đồng
1.2.1. Các vi khuẩn thường gặp
1.2.2. Các vi khuẩn không điển hình
1.3. Các công trình nghiên cứu có liên quan
1.3.1. Các công trình nghiên cứu trong nước
1.3.2. Các công trình nghiên cứu nước ngoài
Chương 2 : Đối tương và phương pháp nghiên cứu
2.1. Thiết kế nghiên cứu
2.2. Đối tượng nghiên cứu
2.3. Cỡ mẫu
2.4. Tiêu chuẩn chọn mẫu
2.5. Tiêu chuẩn loại trừ
2.6. Phương pháp chọn mẫu
2.7. Xử lý số liệu
2.8. Kiểm soát sai lệch
2.9. Vấn đề y đức
Chương 3 : Kết quả
3.1. Tác nhân vi khuẩn gây bệnh chính và tác nhân vi khuẩn phối
hợp phát hiện được bằng kỹ thuật multiplex real-time PCR
3.2. Tác nhân vi khuẩn ở bệnh nhân đơn thuần viêm phổi cộng
đồng phát hiện kỹ thuật multiplex real-time PCR
3.3. Tác nhân vi khuẩn ở bệnh nhân COPD viêm phổi cộng đồng
phát hiện được bằng kỹ thuật multiplex real-time PCR
3.4. Tác nhân vi khuẩn ở bệnh nhân viêm phổi mắc phải cộng đồng
phát hiện được bằng kỹ thuật nuôi cấy truyền thống
3.5. Sự phù hợp tác nhân vi khuẩn giữa phương pháp nuôi cấy
truyền thống và kỹ thuật multiplex real-time PCR
Chương 4 : Bàn luận
4.1. Tỷ lệ tác nhân vi khuẩn gây bệnh
4.2. Tỷ lệ vi khuẩn phối hợp
4.3. Sự phù hợp vi khuẩn giữa phương pháp nuôi cấy truyền thống
và kỹ thuật multiplex real time PCR
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Phụ lục 1 : Đánh giá độ tin cậy mẫu đàm theo thang điểm Barlett
Phụ lục 2 : Quy trình nuôi cấy phân lập vi khuẩn gây bệnh
Phụ lục 3 : Quy trình kỹ thuật multiplex real time PCR
.
TRANG
1
3
6
6
7
7
10
12
12
15
17
17
17
17
18
18
18
19
19
19
20
21
23
25
26
29
29
31
31
33
.
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1 : Số và tỷ lệ tác nhân vi khuẩn gây bệnh chính và phối hợp
Bảng 2 : Số và tỷ lệ tác nhân vi khuẩn ở bệnh nhân đơn thuần viêm phổi mắc phải
cộng đồng
Bảng 3 : Số và tỷ lệ tác nhân vi khuẩn ở bệnh nhân COPD bị viêm phổi mắc phải
cộng đồng
Bảng 4 : Số và tỷ lệ tác nhân vi khuẩn phát hiện bằng phương pháp nuôi
cấy truyền thống
Bảng 5 : Số và tỷ lệ tác nhân vi khuẩn phù hợp giữa phương pháp nuôi cấy truyền
thống và kỹ thuật multiplex real-time PCR.
.
.
THÔNG TIN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
ĐỀ TÀI KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CẤP TRƯỜNG
1. Thông tin chung
- Tên đề tài: Tác nhân vi khuẩn gây viêm phổi mắc phải cộng đồng ở bệnh
nhân nhập viện điều trị.
- Mã số:
- Đồng chủ nhiệm đề tài: Ths.BS. Lý Khánh Vân
PGS.TS. Lê Tiến Dũng
- Điện thoại: 0918.874.488
- Email:
[email protected]
- Đơn vị quản lý về chuyên môn: BM.Sinh lý – Sinh lý bệnh – Miễn dịch
Khoa y, Đại học y dược TP.HCM.
- Thời gian thực hiện: Tháng 05/2016 – 12/2017
2. Mục tiêu
- Xác định tỷ lệ tác nhân vi khuẩn gây bệnh viêm phổi mắc phải cộng đồng ở
người lớn nhập viện.
- Xác định tỷ lệ phối hợp giữa các tác nhân vi khuẩn gây bệnh viêm phổi mắc
phải cộng đồng.
- Xác định tỷ lệ phù hợp tác nhân vi khuẩn giữa phương pháp nuôi cấy truyền
thống với kỹ thuật multiplex real time PCR.
3. Nội dung
Sử dụng kỹ thuật multiplex real time PCR là một kỹ thuật hiện đại, có độ tin cậy
cao để phát hiện vi khuẩn gây bệnh song song với phương pháp nuôi cấy truyền thống.
Mẫu bệnh phẩm đàm hoặc bệnh phẩm có chứa đàm được khảo sát đại thể và
vi thể qua nhuộm Gram để đánh giá mức độ tin cậy dựa vào thang điểm Barlett. Chọn
.
.
mẫu bệnh phẩm có mức độ rất tin cậy (> 3 điểm) để thực hiện nuôi cấy theo phương
pháp truyền thống đồng thời tiến hành kỹ thuật multiplex real time PCR.
Kết quả phát hiện vi khuẩn gây bệnh chính và vi khuẩn phối hợp dựa vào số
lượng vi khuẩn đếm được nhờ kỹ thuật multiplex real time PCR.
Các số liệu thu thập được xử lý bằng phần mềm thống kê y học và phép kiểm
chỉ bình phương. Kết quả được mô tả bằng số lượng và tỷ lệ %.
4. Kết quả đạt được (Khoa học, đào tạo, kinh tế, xã hội, ứng dụng)
- Tỷ lệ dương tính ở kỹ thuật multiplex real time PCR là 67,5% và ở kỹ thuật
nuôi cấy truyền thống là 44,3% (không kể nhóm S. viridans). Sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê.
- Vi khuẩn phát hiện bằng kỹ thuật multiplex real time PCR có tỷ lệ cao nhất
là S.pneumoniae (34,3%), kế đến là K.pneumoniae (11,4%), A.baumannii (10,7%)
trong khi bằng kỹ thuật nuôi cấy truyền thống thì vi khuẩn có tỷ lệ cao nhất là
K.pneumoniae (12,2%), kế đến là P.aeruginosa (9,6%), A.baumannii (7,7%) và
không có trường hợp nào phát hiện S.pneumoniae.
- Chỉ có 23,7% vi khuẩn phát hiện bằng phương pháp nuôi cấy truyền thống
là phù hợp với vi khuẩn phat hiện bằng kỹ thuật multiplex real time PCR trong đó
E.coli có tỷ lệ phù hợp cao nhất là 57,1%. Các vi khuẩn khác có tỷ lệ phù hợp dưới 50%.
5.Hiệu quả kinh tế - xã hội do đề tài mang lại
Kết quả xác định đúng tác nhân vi khuẩn gây bệnh thường gặp trong viêm phổi
mắc phải cộng đồng nhập viện điều trị có thể:
- Giúp các bác sĩ lâm sàng định hướng sử dụng kháng sinh ban đầu một cách
hợp lý nhầm nâng cao hiệu quả điều trị, nhất là trong trường hợp nhiễm vi khuẩn
không điển hình hoặc đồng nhiễm (đa nhiễm).
- Tác động bệnh viện trong việc trang bị và sử dụng kỹ thuật multiplex real
time PCR để chẩn đoán tác nhân gây bệnh viêm phổi mắc phải cộng đồng nói riêng
và các bệnh nhiễm khuẩn nói chung.
.
.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Viêm phổi mắc phải cộng đồng là tình trạng viêm phổi xảy ra ở ngoài bệnh viện hoặc
trong 48 giờ đầu sau khi nhập viện [34].
Viêm phổi mắc phải cộng đồng là một bệnh phổ biến xảy ra ở mọi lứa tuổi và là bệnh
lý rất thường gặp, chiếm tỷ lệ 12% trong các bệnh hô hấp nói chung ở Việt Nam [4].
Tác nhân gây bệnh viêm phổi mắc phải cộng đồng thường được phát hiện là các vi khuẩn,
vi rút và vi nấm, trong đó tác nhân vi khuẩn là chủ yếu.
Ở Việt Nam, theo thống kê của Bộ Y tế năm 2014, viêm phổi mà hầu hết là viêm phổi
mắc phải cộng đồng là một bệnh lý có tỷ lệ tử vong hàng đầu với tỷ lệ 1,32 trên
100.000 dân, tương đương với tỷ lệ tử vong do chấn thương sọ não [4]. Một trong các
nguyên nhân gây tử vong cao là do kết quả xét nghiệm vi khuẩn bằng kỹ thuật nuôi
cấy truyền thống bị hạn chế trong việc phát hiện tác nhân gây bệnh. Như chúng ta
đều biết, bệnh phẩm chủ yếu để phát hiện các tác nhân vi khuẩn gây bệnh viêm phổi
mắc phải cộng đồng chính là các mẫu đàm hay các bệnh phẩm có chứa đàm lấy được
từ bệnh nhân. Tuy nhiên xét nghiệm đàm bằng kỹ thuật nuôi cấy để phát hiện các vi
khuẩn gây bệnh có rất nhiều thách thức cần phải vượt qua, vì đây là một loại bệnh
phẩm thường bị tạp nhiễm do phải qua đường hầu họng. Do đó, việc nuôi cấy để phát
hiện đúng vi khuẩn gây bệnh chứ không phải là vi khuẩn tạp nhiễm là một thử thách
rất lớn. Hơn nữa do đa số bệnh nhân đã sử dụng kháng sinh trước đó nên các vi khuẩn
gây bệnh dù vẫn còn sống trong các dịch lót biểu mô của phế nang nhưng trong mẫu
đàm khảo sát thì các vi khuẩn này đã chết. Ngoài ra còn có nguyên nhân chủ quan
của phòng xét nghiệm cũng làm cho khả năng phát hiện vi khuẩn gây bệnh qua nuôi
cấy giảm đi. Đó là : (i) phòng xét nghiệm vi sinh không có được các môi trường nuôi
cấy thích hợp để phân lập được các vi khuẩn gây bệnh chủ yếu thường gặp nhưng lại
khó nuôi cấy; (ii) mẫu bệnh phẩm không được cấy ngay để tăng cơ hội nuôi cấy phát
hiện được các vi khuẩn gây bệnh; (iii) thiếu kinh nghiệm trong việc chọn khuẩn lạc
mọc trên mặt thạch để phân lập đúng vi khuẩn gây bệnh và (iv) cũng có thể không
đánh giá được độ tin cậy của mẫu đàm để loại bỏ các mẫu bệnh phẩm không phải là
.
.
đàm mà chỉ là nhầy nhớt vùng hầu họng. Ngoài ra kỹ thuật nuôi cấy truyền thống
cũng không đếm được số lượng vi khuẩn để xác định vi khuẩn gây bệnh chính và
phối hợp.
Hiện nay, bằng kỹ thuật sinh học phân tử tiên tiến, nhiều công trình nghiên cứu trên
thế giới đã công bố phổ tác nhân vi khuẩn thật sự gây nhiễm khuẩn hô hấp dưới. Theo
công bố của các công trình nghiên cứu trên thế giới, phổ tác nhân vi khuẩn gây viêm
phổi mắc phải cộng đồng đứng đầu là Streptococcus pneumoniae , kế đến là
Haemophilus influenza, Klebsiella pneumoniae, Pseudomonas aeruginosa; các vi
khuẩn đường ruột và các vi khuẩn không điển hình như Mycoplasma pneumoniae,
Chlamydia pneumoniae cũng được phát hiện mặc dù tỷ lệ có thấp hơn [28]. Trái lại ở
nước ta, các công trình nghiên cứu tác nhân vi khuẩn gây viêm phổi mắc phải cộng
đồng nhập viện điều trị thì vi khuẩn đứng đầu (không kể nhóm Streptococcus viridans
là vi khuẩn thường trú) là Pseudomonas spp, Klebsiella spp trong khi các vi khuẩn
Streptococcus pneumoniae, H. influenza chiếm tỷ lệ rất thấp[5], [6], [7], [8]. Đó là do các
công trình nghiên cứu ở nước ta sử dụng kỹ thuật nuôi cấy truyền thống để phân lập
vi khuẩn gây bệnh trong khi ở các công trình nghiên cứu trên thế giới sử dụng kỹ
thuật sinh học phân tử PCR để phát hiện tác nhân vi khuẩn gây bệnh. Kỹ thuật
multiplex real time PCR là một kỹ thuật hiện đại, có độ nhạy rất cao và độ đặc hiệu
không khác gì kỹ thuật nuôi cấy phân lập vi khuẩn [12], [22], [24], [28], [33]. Khi không xác
định được tác nhân vi khuẩn thật sự gây bệnh sẽ dẫn đến sử dụng kháng sinh không
hợp lý, gây lãng phí và có thể đưa đến sự xuất hiện dòng vi khuẩn kháng thuốc [15].
Ở nước ta cho đến nay chưa có công trình nghiên cứu nào chính thức công bố đầy đủ
tác nhân vi khuẩn thật sự gây viêm phổi mắc phải cộng đồng ở người lớn, chỉ có một
số công trình riêng lẻ thực hiện tại một bệnh viện với thời gian nghiên cứu ngắn, mẫu
nghiên cứu hạn chế. Chính vì vậy, để phát hiện tác nhân vi khuẩn thật sự gây viêm
nhiễm hô hấp dưới ở người lớn viêm phổi mắc phải cộng đồng nhập viện điều trị,
chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài “ Tác nhân vi khuẩn gây viêm phổi mắc phải cộng
đồng ở bệnh nhân nhập viện điều trị “ với phương pháp phát hiện tác nhân vi khuẩn
.
.
thật sự gây bệnh bằng kỹ thuật multiplex real-time PCR song song với kỹ thuật nuôi
cấy truyền thống.
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
(1)
Xác định tỷ lệ tác nhân vi khuẩn gây bệnh viêm phổi mắc phải cộng đồng ở
người lớn nhập viện.
(2)
Xác định tỷ lệ phối hợp giữa các tác nhân vi khuẩn gây bệnh viêm phổi mắc
phải cộng đồng.
(3)
Xác định tỷ lệ phù hợp tác nhân vi khuẩn giữa phương pháp nuôi cấy truyền
thống với kỹ thuật multiplex real time PCR.
.
.
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1.
Một số khái niệm về viêm phổi
1.1.1. Viêm phổi
Viêm phổi hay viêm hô hấp dưới là tình trạng viêm nhiễm xảy ra ở toàn bộ cấu
trúc gồm phế nang, ống và túi phế nang, tiểu phế quản tận cùng và tổ chức mô kẽ.
Tác nhân gây viêm phổi có thể là vi khuẩn, vi rút, ký sinh trùng, nấm nhưng không
phải là trực khuẩn lao [1].
Viêm phổi là bệnh lý rất thường gặp, theo thống kê, bệnh viêm phổi chiếm 12%
các bệnh viêm hô hấp nói chung ở Việt Nam [4].
1.1.2.
Viêm phổi mắc phải cộng đồng
Viêm phổi mắc phải cộng đồng là tình trạng viêm phổi mắc phải xảy ra ở cộng
đồng dân cư ngoài bệnh viện, khác với viêm phổi bệnh viện là viêm phổi xảy ra
do nhiễm các tác nhân vi khuẩn trong bệnh viện ( nhiễm khuẩn bệnh viện)
Viêm phổi mắc phải cộng đồng cũng xảy ra khá phổ biến nhưng không dễ dàng
báo cáo chính xác tác nhân vi khuẩn gây bệnh; phần lớn các thông tin về tần suất
mắc bệnh đều dựa trên những thống kê ước đoán thô. Theo thống kê của Bộ y tế
năm 2014, viêm phổi mắc phải cộng đồng là một bệnh lý có tỷ lệ tử vong hàng đầu
với tỷ lệ 1,32% trên 100.000 dân, tương đương với tử vong do chấn thương sọ não [4].
Ở nước ta hàng năm có khoảng 4/5 triệu trường hợp viêm phổi mắc phải cộng
đồng, phần lớn được theo dõi điều trị ngoại trú nhưng có khoảng 20% phải nhập
viện điều trị với phân nửa số điều trị nội trú có biểu hiện nặng, đặc biệt tỷ lệ nhiễm
khuẩn và tình trạng bệnh nặng ngày càng tăng cao ở người già và trẻ nhỏ [10], [18].
.
.
1.2.
Các tác nhân vi khuẩn gây bệnh viêm phổi mắc phải cộng đồng
1.2.1. Các vi khuẩn thường gặp
1.2.1.1. Vi khuẩn Escherichia coli (E. coli) [3], 25]
E. coli là loại vi khuẩn thường trú ở người và vật, nhất là ở ruột già. Ngoài ra
chúng ta còn có thể gặp vi khuẩn này ở ngoài thiên nhiên như trong đất, nước,
không khí.
Về khả năng gây bệnh, E. coli thường gây bệnh tiêu chảy, viêm đường tiết niệu,
viêm đường mật, nhiễm khuẩn huyết, viêm phổi, viêm màng não, nhiễm khuẩn
vết thương, vết mổ.
Dựa vào tính chất gây bệnh, trực khuẩn E. coli được phân thành các loại :
-
EPEC ( Entero-pathogenic E.coli )
-
ETEC ( Entero-toxigenic E. coli)
-
EIEC ( Entero-invasive E. coli)
-
EAEC ( Entero-adherent E. coli)
-
EHEC ( Entero-hemorrhagic E. coli)
1.2.1.2. Klebsiella pneumoniae ( K. pneumoniae ) [3], 25]
K. pneumoniae thuộc họ vi khuẩn đường ruột, do Edwin Klebs người Đức tìm ra.
Về khả năng gây bệnh, K. pneumoniae có thể gây nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính,
nhiễm khuẩn tiết niệu, nhiễm khuẩn huyết. Đây cũng là vi khuẩn thường gây
nhiễm khuẩn bệnh viện, nhất là ở bệnh nhân nằm viện lâu dài, đặc biệt là gây
nhiễm khuẩn đường hô hấp ở bệnh nhân thở máy, ở bệnh nhân suy giảm miễn
dịch, bệnh nhân lớn tuổi và ở trẻ nhỏ.
1.2.1.3. Pseudomonas aeruginosa ( P. aeruginosa ) [3], 25]
P. aeruginosa là trực khuẩn Gram âm, hiếu khí tuyệt đối, thường sống trong
thiên nhiên, trong đất, trong nước, nhất là nơi ẩm ướt, kể cả trong bệnh viện. Ở
người, vi khuẩn sống ở vùng da ẩm, một số sống cộng sinh ở đường tiêu hóa
của người ( P. aeruginosa được phân lập với tỷ lệ khoảng 1/10 trong phân người
bình thường ).
.
.
Tính chất đặc trưng của P. aeruginosa là sinh sắc tố và chất thơm, làm cho môi
trường và khuẩn lạc có sắc tố màu xanh và thơm mùi nho. Có 2 loại sắc tố
chính : sắc tố pyocyanin và sắc tố pyoverdin. Sắc tố pyocyanin có màu xanh
lá cây, tan trong nước và chloroform. Do pyocyanin khuếch tán tốt trong môi
trường nuôi cấy nên làm cho môi trường và khuẩn lạc có màu xanh, dễ nhận
diện bằng mắt thường.Chính sắc tố pyocyanin cũng làm cho mủ có màu xanh
( tiếng Hy Lạp pseudo có nghĩa là giả, monas là đơn vị, aeruginosa là gỉ đồng
có màu xanh ). Còn sắc tố pyoverdin là sắc tố huỳnh quang, sẽ phát ra màu xanh
khi chiếu tia cực tím có bước sóng 400 µm nên còn được gọi là flourescein. Sắc
tố pyoverdin không bền, dễ mất khi nuôi cấy P. aeruginosa ở môi trường không
chuẩn, có nhiều chất sắt.
Về khả năng gây bệnh, P. aeruginosa chỉ gây bệnh trong điều kiện có cơ hội
thuận tiện như nhiễm khuẩn ngoài da, nhiễm khuẩn huyết, viêm phổi, viêm
đường tiết niệu, viêm đường ruột gây tiêu chảy ở trẻ em… Hậu quả nhiễm trực
khuẩn P. aeruginosa ngày càng trở nên trầm trọng do vi khuẩn kháng với kháng
sinh ngày càng mạnh.
1.2.1.4. Acinetobacter baumannii (A. baumannii) [3], 25]
Acinetobacter baumannii là những vi khuẩn không lên men đường. Trong
những năm gần đây, vi khuẩn A. baumannii là một trong những vi khuẩn hàng
đầu gây nhiễm khuẩn ở người tại nước ta.
A. baumannii là vi khuẩn được tìm thấy trong đất, nước và môi trường thiên
nhiên. A. baumannii dễ dàng được phân lập từ da, họng và nhiều dịch tiết ở
người khỏe mạnh. A.baumannii đóng vai trò quan trọng trong nhiễm khuẩn cơ
hội và nhiễm khuẩn bệnh viện.
Về khả năng gây bệnh, mặc dù A. baumannii hiện diện khắp nơi, đặc biệt những
nơi ẩm ướt như đất, nước, môi trường bệnh viện và có thể tìm thấy trên da, ở
màng nhầy, chất tiết, ở ruột nhưng lại là tác nhân gây nhiễm khuẩn bệnh viện
với bệnh cảnh lâm sàng nặng như viêm màng não, viêm nội tâm mạc, viêm phổi,
nhiễm khuẩn huyết với khuynh hướng ngày một tăng.
.
.
1.2.1.5. Haemophilus influenzae ( H. influenzae ) [3], 25]
H. influenzae do Richard Pfeiffer phân lập đầu tiên từ một bệnh nhân chết trong
vụ dịch cảm cúm năm 1892 nên còn được gọi là trực khuẩn Pfeiffer . Từ đó trở
đi trong khoảng thời gian dài, người ta nghĩ H. influenzae chính là căn nguyên
gây ra bệnh cúm ( influenza ). Mãi đến năm 1933, khi phát hiện ra vi rút cúm là căn
nguyên chính của bệnh cúm thì vai trò của H. influenzae mới được sáng tỏ : chúng chỉ
là mầm bệnh của viêm họng cấp và nhiễm khuẩn thứ phát “ăn theo” bệnh cúm khi
tế bào niêm mạc đường hô hấp bị tổn thương do vi rút cúm gây ra.
Về khả năng gây bệnh, H. influenzae có thể gây bệnh họng, viêm thanh quản,
viêm phế quản, viêm xoang, đặc biệt là viêm phổi, viêm màng não mủ do Hib
gây ra, nhất là ở trẻ nhỏ suy dinh dưỡng và người suy giảm miễn dịch.
1.2.1.6. Moraxella catarrhalis ( M. catarrhalis ) [3], 25]
M.catarrhalis lần đầu tiên được mô tả năm 1896, với tên gọi là Micrococcus
catarrhalis, sau đổi thành Neisserria catarrhalis. Đến năm 1984 mới có tên
chính thức là Moraxella catarrhalis, thuộc giống Moraxella, họ Moraxellaceae.
Về khả năng gây bệnh, M. catarrhalis là nguyên nhân gây nhiễm khuẩn ở trẻ
em, nhất là trẻ em suy dinh dưỡng với các bệnh như viêm xoang, viêm tai giữa,
viêm phế quản, viêm phổi, viêm màng não. Ở người lớn,
M. catarrhalis
có thể gây bệnh viêm họng, viêm phế quản, viêm phổi, đặc biệt là ở bệnh nhân
COPD và người già. M. catarrhalis cũng có thể gây viêm nội tâm mạc, viêm
màng não và là tác nhân quan trọng trong nhiễm khuẩn bệnh viện.
1.2.1.7.
Staphylococcus aureus ( S. aureus ) [3], 25]
S. aureus là một trong những vi khuẩn gây bệnh được phát hiện sớm nhất.
Robert Knock đã tìm ra S. aureus từ mủ mụn nhọt vào năm 1878.
Về khả năng gây bệnh, S. aureus thường ký sinh ở mũi họng và ở da. Tuy nhiên
S. aureus là vi khuẩn gây bệnh thường gặp nhất và gây ra nhiều bệnh khác nhau,
như nhiễm khuẩn da gây mụn nhọt, gây viêm phổi, viêm màng não, viêm thận,
viêm cơ tim, nhiễm khuẩn huyết. Ngoài ra, S. aureus còn gây nhiễm độc thức ăn,
hội chứng choáng nhiễm độc, hội chứng da phồng rộp ( Scalded skin syndrome )
.
.
1.2.1.8. Streptococcus pneumoniae ( S. pneumoniae ) [3], 25]
S. pneumoniae còn được gọi là Diplococcus pneumoniae được Louis Pasteur
phân lập được từ mủ áp-xe năm 1880. Năm 1883, Talamon phá t
hiện được S. pneumoniae trong đàm, trong máu và trong viêm ph ổi
gan hóa ở bệnh nhân nên trong thời gian dài S. pneumoniae còn được gọi
là Pneumococci. Còn thuật ngữ Diplococcus pneumoniae được sử dụng từ năm
1926 do đặc tính xếp đôi hình mũi giáo khi quan sát mẫu đàm nhuộm Gram
dưới kính hiển vi.
Về khả năng gây bệnh. S. pneumoniae không có nội, ngoại độc tố, chủ yếu gây
bệnh là do nang. Nang của S. pneumoniae có tác dụng bão hòa hiện tượng
opsonin hóa làm vô hiệu tác dụng của IgG và bổ thể, từ đó khả năng thực bào
vi khuẩn của cơ thể bị giảm.
S. pneumoniae gây bệnh thường gặp nhất là viêm hô hấp, đặc biệt là viêm phổi.
Ngoài ra, S. pneumoniae có thể gây viêm họng, viêm tai giữa, viêm xoang, viêm
màng não, viêm màng tim, viêm thận trong đó viêm màng não thường hay gặp
ở trẻ em.
1.2.2.
Các vi khuẩn không điển hình
Các vi khuẩn không điển hình thường gặp trong viêm phổi là Mycoplasma
pneumoniae, Chlamydia pneumoniae, Legionella pneumophila.
1.2.2.1.
Chlamydia pneumoniae (C. pneumoniae) [3], 25]
Về khả năng gây bệnh, Chlamydia pneumoniae gây bệnh viêm phổi với bệnh
cảnh lâm sàng từ nhẹ đến nặng nhưng không có dấu hiệu và triệu chứng đặc
trưng giúp phân biệt với bệnh viêm phổi do các tác nhân khác. Tuy nhiên một
số nghiên cứu cho thấy một bệnh cảnh viêm phổi không điển hình xảy ra ở
người trẻ trong cộng đồng có đến 5-20% trường hợp là do Chlamydia
pneumoniae gây ra. Ngoài khả năng gây bệnh viêm phổi, Chlamydia
pneumoniae còn có thể gây viêm hầu họng, viêm tai giữa đơn thuần hay đi kèm
với viêm phổi.
.
.
Hiện nay, để chẩn đoán Chlamydia pneumoniae, các nhà y học thường sử dụng
kỹ thuật real time PCR hoặc kỹ thuật giải trình tự.
1.2.2.2. Mycoplasma pneumoniae (M. pneumoniae) [3], 25]
Mycoplasma pneumoniae thuộc giống Mycoplasma gồm ít nhất 15 loài được
phân lập từ người trong đó có Mycoplasma pneumoniae. Mycoplasma được xếp
vào nhóm Mollicutes là những vi khuẩn không có vách tế bào[25], được phân lập
từ người, động vật và thực vật.
Về bệnh cảnh lâm sàng, sau thời gian ủ bệnh 1-2 tuần, bệnh khởi phát âm ỉ với
các triệu chứng sốt, nhức đầu, mệt mỏi, đau họng và ho từ ít đến nhiều, có đàm,
đôi khi có lẫn máu kèm tức ngực. Ở giai đoạn đầu, việc thăm khám và hình ảnh
trên X quang phổi không có gì đặc biệt so với bệnh viêm phổi do các vi khuẩn
khác. Trong quá trình diễn tiến của bệnh, bệnh lý viêm phổi mô kẽ, hoại tử
quanh các phế quản và viêm tiểu phế quản xảy ra kèm theo thiếu máu tán huyết
và các hồng ban đa dạng xuất hiện trên cơ thể. Các biến chứng có thể gặp là
viêm não màng não, viêm đa dây thần kinh, viêm cơ tim, viêm màng tim, viêm
khớp và viêm tụy[30].
1.2.2.3. Legionella pneumophila (L. pneumophila) [3], 25]
Từ ngày 21 đến ngày 28 tháng 7 năm 1976, một hội nghị của tổ chức “Lê dương
Mỹ” họp ở khách sạn Straiford, bang Philadelphia, Hoa Kỳ với hơn 4000 người
tham dự. Trong thời gian hội nghị và ăn ở tại khách sạn, có hơn 200 người bị
viêm phổi cấp tính nặng trong đó có 34 người bị tử vong. Năm tháng sau, Mc.
Dale và cộng sự phân lập được từ tổ chức mô phổi của người chết một loại trực
khuẩn Gram âm mới mà trước đây chưa ai biết. Tháng 11 năm 1978 tại Hội nghị
quốc tế về bệnh “Lê dương” họp ở Atlanta, Hoa Kỳ, trực khuẩn gây bệnh này
được đặt tên là Legionella pneumophila[25],[30].
Về khả năng gây bệnh, vi khuẩn Legionella pneumophila xâm nhập cơ thể qua
đường hô hấp do hít phải bụi hay hơi nước bị nhiễm khuẩn. Việc lây nhiễm
thường xảy ra ở những người bị suy giảm miễn dịch hoặc bị suy kiệt khi hít phải
.
.
không khí, bụi bị nhiễm Legionella pneumophila hoặc hít các khí dung phát ra
từ các máy điều hòa bị nhiễm khuẩn hoặc từ đầu các vòi sen.
Biểu hiện lâm sàng nổi bật là viêm phổi nặng, cấp tính với triệu chứng sốt cao
đột ngột, ớn lạnh, ho, mệt mỏi, tím tái. Bệnh nhân có thể có triệu chứng đau
bụng, tiêu chảy, rối loạn tri giác, li bì, mê sảng kèm theo dấu hiệu tổn thương
một số cơ quan khác. X quang phổi cho thấy hình ảnh loang lổ, đông đặc đa
thùy. Xét nghiệm máu có thể thấy tăng bạch cầu, hạ natri hoặc bất thường chức
năng gan hoặc có dấu hiệu suy thận.
Hiện nay để chẩn đoán xác định vi khuẩn Legionella pneumophila, người ta
dùng kỹ thuật real time PCR được thực hiện ở một số phòng xét nghiệm tại bệnh
viện có trang bị các kỹ thuật sinh học phân tử.
1.3.
Các công trình nghiên cứu có liên quan
1.3.1. Các công trình nghiên cứu viêm phổi mắc phải cộng đồng trong nước
Theo tác giả Nguyễn Văn Thành có 50% viêm phổi mắc phải cộng đồng thì tác
nhân vi khuẩn được phát hiện là Streptoccci spp (bao gồm nhóm S. viridans) chiếm
tỷ lệ cao nhất (47,7%) kế đến là S. aureus (15,6%) và P. aeruginosa (10%)
[20]
.
Nghiên cứu của tác giả Đặng Văn Ninh trên 146 bệnh nhân viêm phổi mắc phải
cộng đồng tại bệnh viện Chợ Rẫy năm 2005, kết quả ghi nhận có 86 trường hợp
xác định được vi khuẩn gây bệnh, chiếm tỷ lệ 58,9% (86/146), trong đó vi khuẩn
Gram âm có tỷ lệ 58,1% (50/86), vi khuẩn Gram dương có tỷ lệ 41,9% (36/86).
Trong số các vi khuẩn phát hiện được thì nhóm S. viridans chiếm tỷ lệ 23,3%, S.
aureus và H. influenzae cùng tỷ lệ 8,1%, M. catarrhalis 5,8%, K. pneumoniae và
Acinetobacter spp cùng tỷ lệ 4,7%, P. aeruginosa chỉ chiếm 2,3%
[18]
. Kết quả
nghiên cứu của Đinh Ngọc Sỹ và cộng sự trên bệnh nhân viêm phổi mắc phải cộng
đồng điều trị ở bệnh viện Bạch Mai Hà Nội năm 2000-2004 cho thấy vi khuẩn S.
pneumoniae và H. influenzae chiếm tỷ lệ rất thấp với 6% và 2% [19]. Sau đó năm
2005, cũng tại bệnh viện Bạch Mai, tác giả Ngô Quý Châu và cộng sự nghiên cứu
tác nhân gây bệnh viêm phổi mắc phải cộng đồng ghi nhận kết quả vi khuẩn chiếm
.
.
ưu thế là K. pneumoniae với tỷ lệ 42,1%, kế đến là P. aeruginosa với tỷ lệ 13,2%,
H. influenzae là 10,5% và S. pneumoniae là 10,5% [5].
Theo kết quả nghiên cứu của Trần Văn Ngọc, Phạm Hùng Vân và cộng sự, tác
nhân vi khuẩn gây viêm phổi mắc phải cộng đồng ở 146 bệnh nhân điều trị tại bệnh
viện Chợ Rẫy năm 2005-2006 ghi nhận tỷ lệ phát hiện vi khuẩn gây bệnh là 58,9%
(86/146) trong đó vi khuẩn Gram âm chiếm tỷ lệ 33% (28/86) với đa số là
H. influenzae 25% (7/28), M. catarrhalis 17% (5/28), P. aeruginosa và K.
pneumoniae chỉ chiếm cùng tỷ lệ 7% (2/28)
[16]
. Trước đó vào năm 2004, tác
giả Trần Văn Ngọc và Phạm Hùng Vân trong nghiên cứu tác nhân vi khuẩn gây
viêm phổi mắc phải cộng đồng cùng ghi nhận vi khuẩn Gram âm ngà y càn g
có vai trò quan tr ọng và tần suất gâ y bệnh ngà y càng tăng
[17]
.
Tương tự theo kết quả nghiên cứu của Lê Tiến Dũng về tác nhân gây viêm phổi
mắc phải cộng đồng trên bệnh nhân nhập viện điều trị tại bệnh viện Nguyễn Tri
Phương năm 2005, 2006 và 2008 cho thấy vi khuẩn Gram âm chiếm đa số với tỷ
lệ từ 69-94,6% trong đó thường gặp nhất là P. aeruginosa 27-36,5%, kế đến là
Klebsiella spp (10-29%), H. influenzae 6,7% và vi khuẩn Gram dương thư ờng
gặp nhất là S. pneumoniae chiếm t ỷ lệ 3,2-20,5%
[7],[9]
. Cũng nghiên
cứu về tác nhân vi khuẩn trong bệnh viêm phổi mắc phải cộng đồng ở bệnh nhân
điều trị tại bệnh viện Nguyễn Tri Phương năm 2007, tác giả Võ Đức Chiến ghi
nhận vi khuẩn Gram âm chiếm tỷ lệ cao hơn vi khuẩn Gram dương (68,6% so với
31,4%) trong đó vi khuẩn Gram âm thường gặp nhất là P.aeruginosa 34,4%,
Klebsiella spp 10%, Moraxiella catarrhalis, Acinetobacter baumannii và E. coli
cùng có tỷ lệ 5%. Còn với vi khuẩn Gram dương thì S. pneumoniae chiếm tỷ lệ
10% và S.aureus có tỷ lệ 6,2% [6].Kết quả nghiên cứu của Trần Anh Đào năm 2011
tại bệnh viện Nhân dân Gia Định về đặc tính lâm sàng và cận lâm sàng ở 172 bệnh
nhân bị viêm phổi mắc phải cộng đồng cho thấy tỷ lệ phát hiện vi khuẩn là 28,5%
(49/172). Tuy nhiên, trong số 172 mẫu đàm thì chỉ có 101 mẫu đàm đạt chuẩn tin
cậy, tỷ lệ đạt chuẩn là 58,7% (101/172). Nếu chỉ tính trên mẫu đàm đạt chuẩn thì
tỷ lệ phát hiện vi khuẩn gây bệnh (tỷ lệ dương tính) là 48,1% (49/101) trong đó vi
.
.
khuẩn Gram âm chiếm đa số 93,9% (46/49) với P. aeruginosa 30,6%,
Acinetobacter spp 16,3%, Klebsiella spp 14,3% và
H. influenzae 6,1%. Vi khuẩn
Gram dương chỉ chiếm tỷ lệ 6,1% (3/49) trong đó S. pneumoniae có tỷ lệ 4,1% và
S. aureus 2%. Ngoài ra tác giả cũng ghi nhận vi khuẩn P. aeruginosa thường gặp
ở bệnh nhân viêm phổi mắc phải cộng đồng có kèm theo COPD, dãn phế quản
hoặc lao phổi cũ cũng như ở nhóm bệnh nhân ≥ 60 tuổi so với nhóm bệnh nhân
< 60 tuổi (38,9% so với 14,3% với p < 0,01% ) [10].
Kết quả nghiên cứu của Trần Hạnh trên bệnh nhân viêm phổi mắc phải cộng đồng
tại bệnh viện Nguyễn Tri Phương năm 2009 cũng cho thấy vi khuẩn Gram âm
chiếm đa số với tỷ lệ 78%, thường gặp nhất là P. aeuginosa 16%. H. influenzae
15%, Acinetobacter spp 10,5%, Klebsiella spp 10,5% và M. catarrhalis 10%
[11]
.
Tương tự theo kết quả nghiên cứu của Huỳnh Thị Loan về tác nhân vi sinh gây
viêm phổi mắc phải cộng đồng ở bệnh nhân điều trị tại bệnh viện Bệnh Nhiệt đới
TP.HCM thì vi khuẩn Gram âm chiếm đa số với tỷ lệ 86,2% (25/29 trường hợp
phát hiện vi khuẩn gây bệnh), trong đó K. pneumoniae chiếm tỷ lệ 31,1% (9 trường hợp),
H. influenzae 13,8% ( 4 trường hợp ), P. aeruginosa 13,8% (4 trường hợp )
và E. coli 6,9% ( 2 trường hợp ). Vi khuẩn Gram dương chỉ chiếm 13,8%
(4/29) trong đó S. pneumoniae và S. aureus cùng có tỷ lệ là 6,9%. Không
có trường hợp nào phát hiện vi khuẩn không điển hình
[14]
. Còn kết quả
nghiên cứu trên bệnh nhân COPD bị viêm phổi mắc phải cộng đồng nhập
viện điều trị tại bệnh viện Lao và bệnh phổi Phạm Ngọc Thạch năm 2015
của tác giả Nguyễn Sử Minh Tuyết và cộng sự thì vi khuẩn gây bệnh chiếm
đa số là H. influenzae với tỷ lệ 30,3%, kế đến là P. aeruginosa,
Acinetobacter spp và Enterobacter spp cùng có tỷ lệ là 12,1%
[21]
.
Tóm lại, kết quả công trình nghiên cứu của các tác giả trong nước về tác nhân vi
sinh gây viêm phổi mắc phải cộng đồng nhập viện điều trị chỉ ghi nhận tác nhân
vi khuẩn gây bệnh với tỷ lệ dương tính khoảng 45-55. Vi khuẩn Gram âm chiếm
tỷ lệ cao hơn vi khuẩn Gram dương và có khuynh hướng ngày càng tăng, trong đó
chiếm đa số là P .aeruginosa và A. baumannii ( đặc biệt là ở bệnh nhân COPD,
.
.
dãn phế quản, bệnh trầm trọng và tuổi cao ≥ 60 tuổi). Vi khuẩn S. pneumoniae
( không kể nhóm S. viridans ) và H. influenzae chiếm tỷ lệ khá thấp. Hầu hết các
nghiên cứu trong nước không phát hiện được vi khuẩn không điển hình và đồng
nhiễm (đa tác nhân).
1.3.2. Các công trình nghiên cứu viêm phổi mắc phải cộng đồng ở nước ngoài
Theo kết quả nghiên cứu Ruiz M. và cộng sự thì tỷ lệ tác nhân vi sinh trong viêm
phổi mắc phải cộng đồng được phát hiện 46% trong đó có đến 23% nhiễm đa tác
nhân. Trong số các tác nhân vi khuẩn gây viêm phổi mắc phải cộng đồng phải nhập
viện điều trị thì S .pneumoniae chiếm đa số với tỷ lệ 29%, H. influenzae 11%,
L . pneumophila 8%, C. pneumoniae 7%. Vi khuẩn đường ruột chỉ chiếm 6%,
P. aeruginosa 5%[35] . Kết quả nghiên cứu cho thấy có một số trường hợp có nhiễm
khuẩn phối hợp ( đa nhiễm ). Ở bệnh nhân viêm phổi mắc phải cộng đồng trong
tình trạng trầm trọng thì có nguy cơ nhiễm P. aeruginosa với tỷ lệ cao. Tác giả
cũng ghi nhận các vi khuẩn không điển hình như M. pneumoniae, C. pneumoniae
trước đây chưa được biết nhiều, nay ngày không ngừng gia tăng trong nhiễm khuẩn
hô hấp dưới. Hơn nữa các vi khuẩn không điển hình như C. pneumoniae có thể
gây nhiễm khuẩn phối hợp với các vi khuẩn khác và làm cho tình trạng nhiễm
khuẩn do S. pneumoniae càng thêm trầm trọng [35]. Kết quả nghiên cứu của tác giả
Arancibia F. và của tác giả Liam CK. đều ghi nhận, ngoài tác nhân chính gây viêm
phổi mắc phải cộng đồng là S. pneumoniae, vi khuẩn Gram âm ngày càng có vai
trò quan trọng và tần suất gây bệnh ngày càng tăng
[26],[32]
. Tương tự, kết quả
nghiên cứu của tác giả Kobashi Y. ở Nhật Bản và kết quả công rrình nghiên cứu
của tác giả Wattanathum A. và cộng sự ở Đông Nam Á trên bệnh nhân viêm phổi
mắc phải cộng đồng nhập viện điều trị cùng ghi nhận tác nhân vi khuẩn Gram âm
xảy ra ngày càng phổ biến, nhất là ở bệnh nhân từ 65 tuổi trở lên [36].
Các công trình nghiên cứu tác nhân vi khuẩn gây viêm phổi mắc phải cộng đồng
của tác giả Carlos M.L. [27] của Nair Girish B. [34], của Garcia Vidal C. [29] của Lauderdale
Tsai-Ling và cộng sự [31] đều ghi nhận vi khuẩn S. pneumoniae chiếm đa số, kế đến
là H. influenzae, M. pneumoniae, C. pneumoniae, sau cùng là các vi khuẩn Gram
.
.
âm thuộc nhóm Enterobacteriaceae và P. aeruginosa. Tác giả Lauderdalee T. và
cộng sự cũng ghi nhận, trong các tác nhân vi khuẩn gây bệnh viêm phổi mắc phải
cộng đồng thì S. pneumoniae là tác nhân gây bệnh chính với tỷ lệ 23,8%, kế đến
là M. pneumoniae 14,3%, C. pneumoniae 7,1%, K. pneumoniae 4,8% và
H. influenzae 4,8% [31]. Hầu hết các tác giả nước ngoài kể trên đều cho rằng nhờ các
kỹ thuật tiên tiến mà các tác nhân gây nhiễm khuẩn đường hô hấp dưới ngày càng
được phát hiện càng nhiều, tuy nhiên S. pneumoniae vẫn là vi khuẩn thường gặp nhất.
Tóm lại, kết quả công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài về tác nhân vi
khuẩn gây viêm phổi mắc phải cộng đồng nhập viện điều trị đều ghi nhận
S. pneumoniae là tác nhân chính, chiếm tỷ lệ cao trong các tác nhân vi khuẩn thật
sự gây bệnh, kế đến là H. influenzae và K. pneumoniae. Các vi khuẩn Gram âm có
tỷ lệ thấp hơn nhưng có khuynh hướng ngày càng tăng, nhất là ở bệnh nhân ≥ 60 tuổi,
đặc biệt là tác nhân P. aeruginosa thường xảy ra ở bệnh nhân viêm phổi mắc phải cộng
đồng có kèm COPD, dãn phế quản, bệnh nặng trầm trọng. Đa tác nhân ( phối hợp
vi khuẩn ) cũng được ghi nhận với tỷ lệ 23% các trường hợp. Kết quả của các công
trình nước ngoài cũng cho thấy tỷ lệ phát hiện vi khuẩn ( tỷ lệ dương tính ) bằng
kỹ thuật real time PCR cao hơn nhiều so với phương pháp nuôi cấy phân lập vi
khuẩn, đồng thời phát hiện được các vi khuẩn không điển hình như
M. pneumoniae, C. pneumoniae và L. pneumophila mà kỹ thuật nuôi cấy không
phát hiện được.
.
.
CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1.
Thiết kế nghiên cứu
- Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang
- Thời gian nghiên cứu : tháng 6/2016 đến 6/2017
- Địa điểm nghiên cứu : Công ty Nam Khoa Biotek
2.2.
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là các bệnh nhân bị viêm phổi mắc phải cộng đồng điều trị
tại khoa Hô hấp các bệnh viện Cần Thơ, bệnh viện Chợ Rẫy, bệnh viện Lao và
bệnh phổi Phạm Ngọc Thạch, bệnh viện Nhân dân Gia Định và bệnh viện Nguyễn
Tri Phương. Các bệnh viện được chọn là các bệnh viện có phòng xét nghiệm vi
sinh đủ khả năng và đạt quy trình chuẩn để nuôi cấy phân lập vi khuẩn từ các bệnh
phẩm đàm hay bệnh phẩm chứa đàm.
2.3.
Cỡ mẫu
Đây là nghiên cứu mô tả cắt ngang khảo sát tỷ lệ các tác nhân vi khuẩn gây bệnh
viêm phổi mắc phải cộng đồng nên công thức tính cỡ mẫu tối thiểu áp dụng cho
trường hợp ước tính một tỷ lệ như sau
n
Z (21 / 2) p(1 p)
d2
Với
Z là trị số tra từ bảng phân phối chuẩn, Z(1-α/2) = 1,96
p là tỷ lệ phát hiện tác nhân vi khuẩn gây bệnh viêm phổi mắc phải cộng đồng ở
người lớn nhập viện. Căn cứ vào kết quả nghiên cứu của Lý Khánh Vân và Phạm
ùng Vân về tác nhân gây bệnh viêm phổi mắc phải cộng đồng với tỷ lệ vi khuẩn là
69% [24] chọn p = 69% = 0,69
d là sai số, với mong muốn độ chính xác (độ tin cậy) là 94%, chọn sai số 6% = 0,06.
.