Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Sư phạm Phát triển khả năng cảm thụ âm nhạc thông qua một số bài hát dân ca trong chương...

Tài liệu Phát triển khả năng cảm thụ âm nhạc thông qua một số bài hát dân ca trong chương trình âm nhạc thcs trên địa bàn thị xã phú thọ

.PDF
111
1
104

Mô tả:

1 PHẦN I: MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nghệ thuật nói chung và âm nhạc nói riêng luôn là nhu cầu không thể thiếu trong đời sống tinh thần của con người. Cùng với sự phát triển và đổi mới không ngừng về trí tuệ, quan niệm văn hóa, thẩm mĩ của các tầng lớp nhân dân trong thời đại phát triển của khoa học công nghệ thì nhu cầu thưởng thức âm nhạc trong đời sống tinh thần cũng ngày một không ngừng đổi mới, nâng cao. Cùng với đó âm nhạc là loại hình nghệ thuật phản ánh thế giới quan bằng những hình tượng có sức biểu cảm của âm thanh. Hình tượng âm nhạc được diễn tả đặc biệt thông qua các phương tiện: giai điệu, tiết tấu, hòa âm, cường độ, nhịp độ, âm sắc… Âm nhạc có sức mạnh vô cùng to lớn và phong phú trong việc thể hiện một cách sâu sắc thế giới nội tâm con người, những mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên cũng như giữa con người với con người. Âm nhạc nảy sinh trong quá trình lao động của con người và nó hỗ trợ trở lại để con người sản xuất và sáng tạo. Âm nhạc tồn tại trong mọi thời đại, mọi dân tộc, mỗi vùng miền… nó gắn liền chúng ta từ khi chào đời đến khi giã từ cuộc sống. Những khúc hát ru, những bài đồng dao, hát giao duyên, những điệu múa… trong kho tàng âm nhạc dân gian Việt Nam là cội nguồn của nghệ thuật, là cơ sở cho sự sáng tạo của các nhạc sĩ. Âm nhạc là môn học mọi cấp học từ mẫu giáo đến cấp trung học cơ sở. Đặc biệt đối với học sinh trung học cơ sở âm nhạc dân gian có ý nghĩa rất lớn, đó là phương tiện hiệu quả để đưa vào góp phần hình thành nhân cách phát triển toàn diện đối với các em học sinh lứa tuổi trung học cơ sở, hơn thế âm nhạc dâm gian sẽ còn là phương tiện giúp các em phát triển khả năng cảm thụ âm nhạc một cách sâu sắc và toàn diện nhất. Trong bối cảnh của thời kì hội nhập và toàn cầu hóa, khi mà sự giao thoa và tiếp biến các giá trị văn hóa nói chung và văn hóa dân gian nói riêng đã tạo nên những trào lưu mới trong xã hội và cũng gây ra không ít những ảnh 2 hưởng tới sự hình thành và phát triển tâm lý và tính cách của thế hệ trẻ ngày nay. Chính vì vậy, giáo dục âm nhạc truyền thống, trong đó có dạy hát dân ca cho các thế hệ con người Việt Nam đặc biệt là lứa tuổi học sinh những cảm nhận đúng đắn với âm nhạc nói chung, âm nhạc truyền thống nói riêng và để từ đó góp phần hình thành nên nhân cách của con người Việt Nam chân chính trong thời đại mới. Ví dụ: Đi cắt lúa (dân ca H’rê - Tây Nguyên) thể hiện rõ công việc của những người dân lao động và cảm nhận về hình ảnh đẹp của núi rừng Tây Nguyên. Qua các làn điệu dân ca sâu lắng mượt mà, học sinh có thể cảm nhận được vẻ đẹp của quê hương, đất nước, tình cảm giữa con người với con người… từ đó giúp các em sống đẹp hơn, tốt hơn. Bên cạnh đó, việc thấm nhuần các giai điệu dân ca còn giúp học sinh không chỉ biết thưởng thức cái đẹp mà còn biết sáng tạo và có khả năng đem cái đẹp vào đời sống trên mọi phương diện, học tập, lao động, ứng xử… Để môn âm nhạc phát huy hết tác dụng của nó, đặc biệt là các bài hát dân ca, các em học sinh cần phải có khả năng cảm thụ âm nhạc tinh thế và sâu sắc. Cảm thụ âm nhạc vừa là tiền đề vừa là cái đích để các em có thể hoàn thiện tốt bản thân, hướng các em tới những điều tích cực. Muốn vậy, thì phải đòi hỏi ở các em phải cảm nhận được tiết tấu nhịp độ, cảm thụ được tính chất… của tác phẩm. Đặc biệt trong dân ca có những nét đặc trưng riêng về lời ca, giai điệu cũng như tiết tấu… vậy muốn hát đúng hát hay, hát truyền cảm các em học sinh phải: biết nghe, biết nhận biết giai điệu, tiết tấu, lời ca.. từ đó tiến tới các em không chỉ được nghe nhạc mà là nghe thấy, nghe được không chỉ là cảm thụ mà là đồng cảm với nội dung, tình cảm của âm nhạc. Với những lý do trên vì lòng say mê nghiên cứu âm nhạc nói chung và âm nhạc dân gian nói riêng tôi đã chọn đề tài: “Phát triển khả năng cảm thụ Âm nhạc thông qua một số bài hát dân ca trong chương trình Âm nhạc THCS trên địa bàn thị xã Phú Thọ” 3 Do giới hạn của đề tài nên tôi chỉ tập trung đi vào nghiên cứu tại trường THCS Sa Đéc làm đối tượng dẫn chứng cho các vấn đề nghiên cứu của đề tài đặt ra. 2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn - Đề tài góp phần giúp học sinh Trung học cơ sở trên địa bàn thị xã Phú Thọ nói chung, đặc biệt là học sinh Trường THCS Sa Đéc nói riêng phát triển được khả năng cảm thụ âm nhạc thông qua các bài hát dân ca trong chương trình âm nhạc của cấp Trung học cơ sở. - Thông qua đề tài nhằm giúp học sinh Trung học cơ sở có thêm hiểu biết về các làn điệu dân ca Việt Nam và ý nghĩa của các làn điệu đó trong mỗi tiết học Âm nhạc. 3. Mục tiêu nghiên cứu - Nghiên cứu đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi THCS trên địa bàn thị Xã Phú Thọ, từ đó phát huy tốt khả năng cảm thụ âm nhạc thông qua các bài hát dân ca. - Đề tài nghiên cứu nhằm khẳng định giá trị, vị trí và tầm quan trọng của dân ca đối với khả năng cảm thụ âm nhạc cho học sinh Trung học cơ sở. - Giúp góp phần vào việc bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa của dân ca. Phát huy những giá trị truyền thống trong bối cảnh hiện nay, đáp ứng được phần nào nhu cầu về kiến thức âm nhạc dân gian. 4 PHẦN II: NỘI DUNG Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1. Vài nét về dân ca Việt Nam 1.1.1. Khái quát về dân ca Mỗi người chúng ta chắc hẳn ngay từ khi lọt lòng mẹ đến lúc trưởng thành đểu được nghe và hát những bài dân ca. Lúc còn được bế trên tay mẹ, lúc được bà bồng trong lòng, chúng ta đã được nghe những làn điệu êm dịu, nhẹ nhàng trìu mến của những bài hát ru. Khi còn là trẻ con ta thường chơi đùa với những bài đồng dao, đến khi trưởng thành ta được nghe những làn điệu giao duyên, những lời ca tình tứ, duyên dáng và dí dóm của những điệu hát đối đáp nam – nữ. Dân ca cổ vũ ta trong những lúc lao động cực nhọc, hô hào hợp sức cùng nhau trong những công việc nặng… dân ca là những bài hát gắn bó với mỗi giai đoạn của đời người, gắn bó với con người, là tiếng nói của mỗi dân tộc. Vậy dân ca là gì? “Dân ca là những bài hát cổ truyền do nhân dân sáng tác, được nhân dân lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác và được nhân dân ca hát theo phong tục tập quán của từng địa phương, từng dân tộc. Dân ca là một loại hình nghệ thuật dân gian do nhân dân sáng tạo, là tài sản chung của xã hội. Dân ca ra đời từ trước khi có nền âm nhạc chuyên nghiệp. Lúc đó xã hội loài người chưa có chữ viết, cũng như chưa có phương pháp, phương tiện ghi âm. Do đó dân ca tồn tại và phát triển chủ yếu là do sự truyền miệng từ đời này qua đời khác”. [12, tr.45] Dân ca Việt Nam là một thể loại âm nhạc cổ truyền, qua việc truyền khẩu, truyền ngón các bài dân ca, mỗi người diễn xướng có quyền ứng tác tự do, góp phần sáng tạo của mình vào tác phẩm trong quá trình biểu diễn. Do vậy họ gần như là “đồng tác giả” với những người ban đầu sáng tácnên tác phẩm đó do vậy, dân ca thường là những tác phẩm của cộng đồng, do nhân dân sáng tạo. Những bài bản dân ca được lưu truyền trong dân gian thường không khẳng định tên tuổi cho một người mà nó là sự tôn vinh của cả một tập thể, vì thế khi nghiên cứu về dân ca nói chung người ta thường không để ý 5 đến người sáng tác ban đầu là ai. Một bài dân ca kể từ lúc được hình thành thường tồn tại với một bản coi như bản gốc, bản này được gọi là lòng bản,qua quá trình phát triển và sự hào hững đón nhận của nhân dân đã tạo nên sự thay đổi với nhiều bài bản được ứng tấu thêm hay sửa đổi gọi là dị bản. Những bài dân ca được nhiều người yêu thích sẽ được truyền bá đi khắp nơi. Đáp ứng theo nhu cầu của đời sống xã hội cũng như sự phù hợp trong quá trình sử dụng các bài hát dân ca, người ta đã sáng tác thêm những lời ca mới dựa trên các làn điệu đã có tạo nên sự đa dạng và phong phú cho dân ca . Các dịp biểu diễn thường là lễ hội, hát làng nghề ngoài ra thường ngày cũng được hát lên trong lao động để động viên nhau, hay trong tình yêu đôi lứa, trong tình cảm giữa người và người. Tuy nhiên mỗi tỉnh thành, dân ca Việt Nam lại có phát âm, giọng nói và các từ khác nhau nên cũng có thể phân theo tỉnh cho dễ gọi vì nó cũng có tính chung của miền Bắc, miền Trung và miền Nam. Ngày nay, khi khảo sát một bài dân ca được phổ biến ở một vùng nào đó, muốn biết được xuất xứ của chúng, người ta thường dựa vào một vài đặc điểm có trong đó ví dụ như tiếng địa phương, những địa danh. Đây là cách dễ nhận biết nhất để nhận ra xuất xứ của một bài dân ca. Nói chung trong các bài dân ca miền Bắc thường có những từ đệm như: “rằng, thì, chứ...” và các dấu giọng như: sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng được dệt bới những nốt nhạc sao cho việc phát âm được rõ nét. Một số phụ âm được phát âm một cách đặc thù như: “r, d, gi” hay “s và x” phát âm giống nhau, không phân biệt nặng nhẹ. Dân ca miền Trung thì thường có chữ “ ni, nớ, răng, rứa...” dấu sắc được đọc thành dấu hỏi (so với giọng người Bắc), dấu hỏi và ngã đều được đọc giống nhau và trầm hơn chữ không dấu. Những bài dân ca miền Nam thì thường có chữ “má (mẹ), bậu (em), đặng (được)...” chữ “ê” đọc thành chữ “ơ”, dấu ngã đọc thành dấu hỏi,... Nhưng nhìn chung thì vẫn là thoát thai từ lòng dân với đậm tính chất mộc mạc giản dị của họ. 1.1.2. Sự đa dạng, phong phú và đặc điểm nghệ thuật của dân ca Việt Nam Việt Nam là một quốc gia đa sắc tộc với nền văn hóa lâu đời, do vậy dân ca Việt Nam bao gồm nhiều vùng miền, nhiều thể loại vô cùng phong 6 phú: dân ca Quan họ Bắc Ninh, hát Ví, hát Dặm (Nghệ An), hát Xoan (Phú Thọ), hát Trống quân ở nhiều làng quê Bắc Bộ, hát Dô (Hà Tây), hò Huế, lý Huế ở Trung Bộ, Nam Bộ có các điệu Lý, điệu Hò… dân ca của các dân tộc miền núi phía Bắc, đồng bào Thái, H’mông, Mường, dân ca các dân tộc Tây nguyên… đều có những nét riêng, mang bản sắc riêng. Những âm điệu tiết tấu, đặc trưng của dân ca phần lớn bắt nguồn từ những câu ca dao thâm thúy khúc chiết, loại thơ vần như lục bát hay những câu đồng dao đơn giản được bổ sung qua nhiều giai đoạn rồi trở nên những thể loại hát dân gian khác nhau của từng địa phương, từng vùng đất nước. 1.1.2.1. Sự đa dạng và phong phú của dân ca Việt Nam Từ bao đời nay dân ca luôn gắn liền với đời sống tinh thần của cộng đồng các dân tộc trên khắp đất nước Việt Nam. Ngoài những làn điệu thuộc các loại dân ca khác nhau còn những loại hát có nhạc đệm theo như: Chầu văn, ca Trù, ca Huế… nhạc tài tử Miền Nam và những hình thức ca kịch độc đáo như Tuồng, Chèo, Cải lương… Hát Chầu văn là hình thức hát nhạc thờ cúng, có tính chất tôn giáo linh thiêng, các thầy cúng chuyên nghiệp đánh đàn nguyệt, có giọng hát điêu luyện phụ theo, thuộc nhiều điệu hát và pha vào là tiếng trống vỗ. Ngoài ra Quan họ Bắc Ninh cũng là một lối hát phong phú và độc đáo về âm nhạc. Dân ca Việt Nam rất phong phú và đa dạng, đi liền với tiếng hát ru, đồng dao, trò chơi trẻ em, rồi đến các điệu hò, điệu lý. Các điệu hát trong khi làm việc, trong những lễ hội tạo điều kiện cho nhiều thế hệ gặp nhau qua các loại hát giao duyên. Mức sáng tác lời mới nhiều hơn các thể loại nhạc cung đình, nhạc bác học, nhạc thính phòng và đưa vào trong văn chương bình dân những đóng góp đáng kể (hát quan họ). Phần nhiều chỉ có tuỳ hứng lời trên một điệu nhạc (hát Trống quân, Cò lả…). Chỉ có hát Quan họ là vừa sáng tác lời lẫn nhạc. Riêng Quan họ theo thống kê mới nhất hiện nay có tới trên 700 làn điệu khác nhau trong truyền thống hát Quan họ. Còn theo TS Nghiên cứu âm nhạc Hà Thị Hoa thì hiện nay có khoảng 250 làn điệu Chèo… 7 Dân ca lại mang màu sắc địa phương rất đặc biệt, tuỳ theo phong tục ngôn ngữ, giọng nói và âm nhạc của từng vùng mà khác đi đôi chút. Từ những bài hát ru được nghe khi còn nằm trong nôi mà các mẹ (bà ,chị) hát ru trẻ ngủ. Loại này được gọi là hát ru (miền Bắc), ru con (miền Trung), hay gọi là hát đưa em, ầu ơ ví dầu (miền Nam). GS. TS Trần Quang Hải nghiên cứu về Dân ca Việt Nam: “Dân ca Việt Nam được trình bày theo trình tự một đời người, nghĩa là bắt đầu bằng các bài hát ru khi em bé bắt đầu chào đời, đến khi đứa bé lớn lên, trưởng thành và chết đi sẽ có những bài hát liên hệ đến từng giai đoạn của một đời người.Ngay từ thuở lọt lòng, dân ca đã dành cho trẻ những bài hát đơn sơ, mộc mạc nhưng du dương, ngọt ngào để đưa trẻ vào giấc ngủ êm đềm. Chuyển sang tuổi ấu thơ các em lại được hát lên những bài dân ca, đồng dao để vui chơi giải trí, luyện cho trẻ quen tiếng nói tiếp cận với thiên nhiên, tìm hiểu những vấn đề xã hội nảy sinh trong đời sống hàng ngày. Khi trưởng thành trai gái lại tụ họp nhau thi hát đố, hát giao duyên và các bài hát vui chơi trong đời sống” [1, tr.01]. Trong mỗi chúng ta ai cũng có một miền quê, quê hương là cánh đồng lúa thơm ngát, lũy tre xanh trải dọc bờ đê, là những hình ảnh thân thương nhất đối với cuộc sống mỗi con người. Hai tiếng quê hương qua những giai điệu ngọt ngào của dân ca như gần gũi hơn, lung linh hơn nhờ những ca từ đầy hình ảnh. Chính vì vậy, khi hiểu được những giai điệu quê hương chúng ta sẽ mang lại niềm tự hào cho chính mình. Cũng từ đó mà có sự hãnh diện trong lòng khi thấy dân tộc mình có một nền âm nhạc dân gian phong phú. 1.1.2.2. Đặc điểm nghệ thuật của dân ca Việt Nam + Đặc điểm về nhịp điệu: Một trong những yếu tố đầu tiên mà con người nhận thức được trong quá trình lao động và đưa nó vào lĩnh vực nghệ thuật âm nhạc, đó là nhịp điệu. Nhiều công trình nghiên cứu về dân ca các dân tộc đều chứng minh rằng: “Nhịp điệu trong dân ca lao động là những yếu tố kích thích và phối hợp động tác một cách nhịp nhàng, nhất là đối với con người thời xa xưa”. [11, tr.61]. 8 Nhịp điệu giữ một vị trí quan trọng có thể ví như bộ khung của một ngôi nhà. Nhịp điệu đơn giản hay phức tạp là phụ thuộc chủ yếu vào ngôn ngữ lời ca và tính chất tình cảm của bài hát. Trong dân ca Việt Nam thường sử dụng nhịp hai: 2/2, 2/4, 2/8, thường thì nhịp 2/4 được sử dụng nhiều hơn. Còn giai điệu, làn điệu, giọng…. nó giữ vai trò trọng yếu trong việc thể hiện các sắc thái tình cảm của con người. Âm điệu cũng được phát triển từ đơn giản đến phức tạp, lúc đầu còn mang tính ngân nga, nhịp tương đối tự do, sau đạt tới trình độ thẩm mỹ cao, hình tượng âm nhạc phong phú, đa dạng làm cho lời phải phụ thuộc chặt chẽ vào sự luyến láy của nhạc. + Đặc điểm về lời ca: Phần lời chính trong các bài hát dân ca thường dùng tất cả các thể thơ có trong dân gian để phổ nhạc và các lời ca phải đảm bảo các yếu tố: có chất nhạc, chất thơ và phải có hình tượng văn học. Phần lời phụ cũng là những đặc điểm nổi bật trong dân ca Việt Nam, nếu đứng riêng nó hòa toàn không có nghĩa, nhưng do sự đòi hỏi luyến láy, phát triển của âm nhạc nó trở nên có nghĩa và không thể thiếu được trong dân ca Việt Nam. Tiếng Việt của chúng ta có thể coi là một biểu hiện của thơ ca và do các dấu thanh. Mỗi từ trong Tiếng Việt khi được pháp âm đã có âm điệu trầm bổng riêng, mang tính nhạc. Trong mỗi câu văn, thơ cũng có nhịp điệu riêng. Trên nền tảng âm điệu, nhạc điệu của thơ dân gian, nhân dân đã xây dựng và phát triển thành những bài dân ca. Hay nói cách khác khi ta bỏ những tiếng đệm, tiếng láy, những âm láy, âm đệm đưa hơi… thì những bài dân ca chỉ là những bài thơ dân gian. Đó là những bài thơ bốn chữ, năm chữ, lục bát, song thất lục bát, bảy chữ, tám chữ, thơ tự do… được những giọng hát dân gian ở các địa phương “phổ nhạc” trở thành những bài hát ru, điệu hò, điệu lý. Nghệ thuật phổ nhạc vào thơ dân gian có thể tóm tắt trên một số phương pháp như sau: Đảo lộn hay điệp lại các từ trong thơ gốc Ví dụ: Câu 6 trong điệu xẩm Huê tình: Đêm rằm gió gác trăng sân 9 Khi vào câu hát sẽ là: Gió gác trăng sân (cái) đêm (hôm) rằm (Nàng ơi) gió gác (cùng là) trăng sân Đưa những từ mới, nhiều dạng và nhiều chức năng khác nhau. Ta có thể phân biệt: Những âm luyến lay (ơ, a, y…), những tiếng đưa hơi đặc trưng cho lối hát Ru, Hò (ầu ơ, hò ơ, à ơi, a ơi…) Những từ đưa đẩy hầu như chỉ có ý nghĩa nhịp điệu (mà thời, mà rằng, ấy mấy, là rằng….) Những từ đặc trưng cho lối hò lao động (dô ta, dô hò, dô huậy, dô khoan, hò khoan…) Những tiếng gọi: ơi nàng ơi, ơi chàng ơi, ơi bậu ơi, cô mình ơi… Những tiếng tượng thanh nhạc khí phụ họa: tình tính tang, tang tính tình (Cò lả), ố tang tình tang (lý tình tang) Dùng ngay từ “lý” trong tiếng đệm: qua lý, qua lới (lới = lý), ta lý, ta lới, ba lý tang tình (Hò ba lý) Phát triển điệu thơ gốc, biện pháp này thật đa dạng trong thực tế, có thể quy ra các hướng như sau: Minh họa ý trong thơ: Ví dụ: Bài hát Lý cây đa – dân ca quan họ Bắc Ninh (Âm nhạc 7) Thơ gốc: Trèo lên quán dốc ngồi gốc cây đa Cho đôi mình gặp xem hội đêm rằm Khi trở thành ca từ trong điệu Lý cây đa: Trèo lên quán dốc ngồi gốc ới a cây đa Rằng tôi lý ới a cây đa rằng tôi lới ới a cây đa. Ai đem a tình tính tang tình rằng Cho đôi mình gặp xem hội cái đêm hôm rằm Rằng tôi lý ới a cây đa rằng tôi lới ới a cây đa. Như vậy ở đây ta thấy, từ 16 từ trong hai câu thơ gốc “Lý cây đa” dân ca Quan họ Bắc Ninh chuyển sang lời ca số từ trong câu thứ nhất là 24 từ gấp 10 3 lần câu gốc, câu thứ hai là 32 từ gấp 4 lần câu gốc. + Đặc điểm về thang âm điệu thức: Ngoài ra, giá trị nghệ thuật của dân ca còn được thể hiện ở thang âm điệu thức. Dân ca đã kế thừa các dạng thang âm cổ truyền, phổ biến nhất là dạng thang 5 âm. Khúc thức: dân ca Việt Nam rất đơn giản, chủ yếu các bài hát được viết ở thể một đoạn. Trong cuốn “Tìm hiểu dân ca Việt Nam, tác giả Phạm Phúc Minh đã ghi chép: “Trong dân ca Việt Nam có rất nhiều kiểu gam - điệu thức, nhưng phổ biến nhất vẫn là điệu thức 5 cung (ngũ cung), trong đó điệu thức 5 cung là phổ biến nhất trong dân ca người Việt. Đặc biệt người Việt ở vùng đồng bằng sông Hồng, điệu thức 5 âm mà ngày xưa kia các cụ gọi là Hồ, Xừ, Xang, Xê, Cống, tương ứng với cách ghi âm sang nhạc 5 dòng là: Đồ, Rê, Fa, Son, La. Nếu lần lượt chuyển đổi vị trí âm gốc trong điệu thức thang 5 âm này, thì chúng ta sẽ có một hệ thống điệu thức với 5 kiểu: Kiểu I: Đồ, Rê, Fa, Son, La. Kiểu II: Rề, Fa, Son, La, Đô. Kiểu III: Fa, Son, La, Đô, Rê. Kiểu IV: Son, La, Đô, Rê, Fa. Kiểu V: La, Đô, Rê, Fa, Son. [11, tr.89,90] Trong các bài hát dân ca người ta thường phối hợp hai hay nhiều điệu thức với nhau để làm cho màu sắc của bài hát được phong phú và đa dạng hơn. Ngày nay, những làn điệu dân ca mà chúng ta được nghe và hát không hoàn toàn giống những làn điệu lúc mới được hình thành. Những bài bản dân ca đầu tiên bao giờ cũng có hình thức thô sơ, đơn giản. Do thẩm mỹ ngày một phát triển, do giao lưu, do tiếp xúc vơi các thể loại âm nhạc khác hoặc dân ca từ nơi khác mang đến và do sức sáng tạo của nhân dân mà do đó dân ca cũng có nhiều sự thay đổi. Những bài hát dân ca ngày càng phát triển nhịp nhàng cân đối hơn, lời ca được trau chuốt hơn, nhiều hình ảnh hơn và phù hợp với 11 tình cảm xúc, cách sống ngày càng phát triển của nhân dân. Tính phát triển, thay đổi không ngừng là một trong những bản chất của dân ca. 1.2. Vai trò của dân ca trong đời sống và vai trò của cảm thụ âm nhạc thông qua các bài hát dân ca trong giáo dục Trung học cơ sở 1.2.1. Vai trò của dân ca trong đời sống Hát dân ca là một sinh hoạt có tập quán lâu đời và phổ biến ở các cư dân trên đất nước ta. Dân ca là những tác phẩm được tập thể nhân dân góp phần sáng tạo và biểu diễn phục vụ những nhu cầu tinh thần của chính mình trong đời sống thường ngày cũng như trong các sinh hoạt cộng đồng. Tác giả của các bài dân ca chủ yếu là những người dân lao động bình dị - thanh niên nam nữ cũng như những người đứng tuổi và các tri thức bình dân. Họ thường ứng tác tại chỗ, đặc biệt là phần lời ca, trong những dịp vui gặp gỡ đông người. Mặc dù không phải là những người hoạt động nghệ thuật chuyên nghiệp song trong nhân dân lao động có rất nhiều người có tài năng và mĩ cảm nghệ thuật cao. Những làn điệu dân ca do họ sáng tạo được cộng đồng tiếp nhận và lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác, từ địa phương này sang địa phương khác. Qua mỗi địa phương, mỗi thế hệ, thậm chí mỗi nghệ nhân chúng được sửa sang, gọt giũa rồi dần trở thành những sáng tạo mang tính tập thể, tính dị bản và không còn ai nhớ được tác giả ban đầu của chúng là ai. Vì vậy ngày nay gần như tuyệt đại bộ phận dân ca của chúng ta đều không có tên tác giả. Âm nhạc dân gian Việt Nam là một kho tàng vô cùng phong phú và độc đáo. Nói đến âm nhạc dân gian tức là nói đến các làn điệu như hò “hò giã gạo, hò mái nhì, hò mái đẩy…”, lý “lý huê, lý nam bộ, lý cái mơn…”, các bài hát như; hát ru, bài chòi, hát xẩm, hát xoan…mà quần chúng nhân dân đã đóng góp và sáng tạo, được sử dụng trong các sinh hoạt ca ngợi tinh thần lao động sản xuất của nhân dân, được truyền miệng lại từ đời này qua đời khác nên được gọi là dân ca. Dân ca là một loại hình nghệ thuật từ bao đời nay đã đi vào đời sống tinh thần, sinh hoạt lao động hàng ngày của nhân dân. Dân ca là tiếng nói tâm tình, 12 là những rung động tâm hồn người Việt Nam từ thế hệ này qua thế hệ khác. Nó trường tồn cùng với con người Việt Nam. Dân ca đã gắn bó với con người Việt Nam từ thủa ấu thơ và góp phần tạo sự phong phú trong tâm hồn người Việt. Trải qua bao đời nay, dân ca vẫn tồn tại và phát triển một cách bền vững trong đời sống nhân dân lao động, phản ánh đậm nét truyền thống văn hóa của dân tộc. Vì vậy, dân ca Việt Nam đã được phát triển và sáng tạo một cách không ngừng. Dân ca là sản phẩm lao động của nhân dân, là tiếng nói tình cảm, được truyền miệng từ đời này qua đời khác, tồn tại và phát triển cho tới ngày nay với một sức sống mãnh liệt. Nó là một minh chứng hùng hồn cho bản sắc văn hóa Việt Nam đó là: ở đâu có người Việt Nam là ở đó có những làn điệu dân ca. Thông qua các ngôn từ, vần điệu chúng ta luôn tìm thấy một cách rõ nét những tình cảm lạc quan yêu đời và lòng chung thủy, kiên định, bất khuất của con người Việt Nam. Trong xu thế toàn cầu hóa hội nhập và mở cửa hiện nay, với nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường. Tất cả các vấn đề giải quyết các nhu cầu của xã hội đều được giải quyết một cách nhanh chóng. Âm nhạc hiện nay cũng đang nằm trong vòng xoáy của thị trường, là một trong những vấn đề mà xã hội cần quan tâm. Một thứ âm nhạc tràn lan nó có nguy cơ làm cho giới trẻ quên đi bản sắc văn hóa dân tộc. Mà bản sắc quý báu đó đã được ông cha ta hun đúc, chắt chiu và gìn giữ cho đến ngày nay. Vì vậy, hơn lúc nào hết việc triển khai, tuyên truyền và phát huy vốn âm nhạc dân gian góp phần quan trọng trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam theo đúng tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã nêu: “Tiếp tục xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc, đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại”. Khi còn nằm trong nôi, các em đã được nghe bà, nghe mẹ, nghe chị hát ru bằng những lời ru ngọt ngào trầm bổng thiết tha. Từ đỉnh núi cao Việt Bắc, 13 Tây Bắc, Tây nguyên cho tới miền đồng bằng mênh mông, trên những dòng sông, kênh, lạch vùng Cần Thơ, Cà Mau đến những hải đảo xa xôi… Tiếng hát ru dịu dàng vỗ về trìu mến đưa các em vào giấc ngủ ngon, nuôi dưỡng cho một tâm hồn Việt Nam từ thơ ấu, trau rồi cho các em một tình yêu quê hương đất nước, yêu dân tộc từ khi sơ sinh. “Ru hời ru hỡi ru hời Công cha như núi ngất trời Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông Núi cao biển rộng mênh mông Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi”. (Trích: Hát ru – dân ca đồng bằng Bắc Bộ) Dân ca giúp các em trau rồi được niềm tin, đạo đức. Không những thế dân ca còn chứa đựng lòng nhân ái sâu sắc. “U…u ….u…u…u Em ơi em hãy ngủ cho ngoan Mẹ đi máng nước về nấu cơm Em ơi em hãy ngủ cho ngoan Cha đã kiếm biết bao nhiêu măng non U…u…u…u..u” (Trích: Ru em- dân ca Gia Lai) Dân ca là tiếng nói của tình yêu, nó phản ánh sự thủy chung son sắt của tình yêu, nỗi nhớ thương da diết của đôi lứa khi phải xa cách. “Thương ai đứng bụi nấp bờ Sáng trông thuyền ngược, tối chờ thuyền xuôi Thuyền ngược anh bỏ sào xuôi Khúc sông bỏ vắng để người sầu riêng”. (Trích: Hò sông Mã- dân ca Thanh Hóa) Dân ca Việt Nam còn phản ánh đời sống văn hóa tinh thần của con người Việt Nam với những nét đẹp, đạo đức và lối sống mà con người Việt Nam luôn trân trọng. 14 “Còn duyên ngồi gốc cây thông Hết duyên ngồi gốc cây hồng hái hoa Có yêu nhau sang chơi cửa chơi nhà Cho thầy mẹ biết để đuốc hoa định ngày…” (Trích: Còn duyên- dân ca Quan họ Bắc Ninh) Hay: “Đôi bên bác mẹ tiên đề Anh sang làm rể, em về làm dâu” (Trích: Bác Mẹ tiên tề - Dân ca QHBN) “Yêu nhau cởi áo cho nhau Về nhà dối mẹ qua cầu gió bay…” (Trích: Qua cầu gió bay – Dân ca QHBN) Nghe hát dân ca chúng có thể biết được những suy tư, khát vọng một cuộc sống bình an. Dân ca phản ánh đời sống tinh thần, tâm linh của người dân lao động với một quan niệm con người và thế giới tự nhiên là một thể thống nhất đó là các vị thần như: thần đất, thần rừng, thần suối, thần sông… luôn mang đến cho họ những điều tốt lành, mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, con người khỏe mạnh… “Ta khấn vái thần Rừng linh thiêng Ta đã lỡ phát rẫy trỉa lúa Khu rừng này chúng tôi thường phát Suối nước kia tôi thường bắt cá Ta vô ý chặt phá nhà thần Ta vô ý đốt cháy bon thần Nay ta cúng tạ lỗi với thần…” (Trích Hát khấn- dân ca M’Nông- sưu tầm và dịch- Điểu Câu) Dân ca gắn bó chặt chẽ với đời sống của nhân dân lao động, qua đó chúng ta cảm nhận một cách dễ dàng những phẩm chất tốt đẹp của dân tộc: tình yêu tổ quốc, yêu thiên nhiên, nghĩa tình chung thủy, tình bạn bè, tình hiếu thuận với ông, bà, cha, mẹ. 15 Ơ! Ta cùng nhau lên rừng Ơ! Ta cùng nhau lên nương Rừng giàu còn đang chờ tay ta Nương xanh đang đón chờ tay ta Mau bước lên! Vui bước lên! Xây dựng tương lai tươi thắm thêm Cho quê hương sáng tươi…. (Trích: Gọi bạn- dân ca Êđê) Hay: Mấy lời mẹ dặn con thơ Chữ tình chữ nghĩa con lo cho tròn Mẹ già cầu chúc cho con Khoan trường đắc cử thành công con về Con đi cách trở sơn khê Áo nâu con giữ tình quê mặn nồng… (Trích: Vè Quảng Nam) Dân ca Việt Nam còn phản ánh đời sống văn hóa tinh thần của người Việt Nam. Đó là đạo đức, là cách ứng xử tế nhị được thể hiện qua dáng vẻ dịu dàng, mộc mạc của người phụ nữ Việt Nam qua bài dân ca “Lý tình tang” – dân ca Miền Trung. Một thương tóc xoã ngang vai Hai thương đi đứng, vẻ người đoan trang Ba thương ăn nói có duyên Bốn thương mở rộng mắt huyền thêm xinh Năm thương dáng điệu thanh Sáu thương nón Huế nửa vành nên thơ Bảy thương những phút mong chờ Tám thương thơ thẩn bên bờ dòng Hương Giang Chín thương Bến Ngự song ngang 16 Mười thương tà áo dịu dàng gió bay…. (Trích: Lý tình tang – dân ca Miền Trung) Vốn âm nhạc dân gian của chúng ta bao gồm nhiều thể loại. Mỗi vùng, mỗi địa phương, mỗi dân tộc đều có những bài dân ca với nhiều hình thức và sắc thái riêng biệt, nhưng nó đều xuất phát từ tình hình thực tế của quần chúng nhân dân lao động. Căn cứ vào nội dung bài bản (rõ nhất là dân ca) tất cả đều mang đến những hình tượng âm nhạc đẹp đẽ, trong sáng, bình dị, mộc mạc, khi sâu sắc, khi tế nhị, làm cho người nghe khó lòng quên được. Có thể nói, dân ca Việt Nam nói riêng, âm nhạc cổ truyền Việt Nam nói chung là một di sản khổng lồ, một tài sản quý giá, một minh chứng cho lịch sử sáng tạo âm nhạc của nhân dân ta. Vì vậy chúng hãy làm tất cả những gì có thể để những tài sản quý báu ấy được trân trọng, giữ gìn và phát triển cho hôm nay và mãi mai sau. 1.2.2. Vai trò của cảm thụ âm nhạc thông qua các bài hát dân ca trong giáo dục Trung học cơ sở Cảm thụ âm nhạc là một trong những vấn đề chủ đạo của giáo dục âm nhạc, đã từ lâu được quan tâm nhiều nước trên thế giới và ở Việt Nam. Bất kỳ một hoạt động biểu diễn hay sáng tạo âm nhạc nào cũng phụ thuộc một phần lớn vào cảm thụ. Cảm thụ âm nhạc là tiền đề của quá trình tiếp nhận, thưởng thức hoạt động và cao hơn là sáng tạo âm nhạc. Xung quanh vấn đề cảm thụ âm nhạc, nhiều nhạc sĩ và các nhà nghiên cứu của âm nhạc đã đưa ra những ý kiến về vai trò của cảm thụ cũng như các yêu tố để giúp mọi người nói chung hay trẻ em nói riêng cảm thụ sâu sắc âm nhạc. Cảm thụ âm nhạc gắn bó chặt chẽ với sự phát triển trí tuệ đòi hỏi học sinh phải quan sát chú ý nhạy bén. Học sinh sẽ phải tập trung nghe nhạc, so sánh các âm thanh tiến hành theo các hướng khác nhau, làm quen với ý nghĩa biểu cảm của các bài hát đó, ghi nhớ những đặc điểm, tính chất của các hình tượng âm nhạc. Đặc biệt trong dân ca có những đặc điểm âm nhạc về nhịp điệu, tiết tấu, lời ca tính chất âm nhạc lại có những đặc điểm riêng khiến học 17 sinh phải tò mò, suy nghĩ tại sao lại có sự khác biệt đó giữa dân ca và nhạc mới. Bởi trong dân ca có nhiều tiết tấu âm nhạc phức tạp, giai điệu nhiều luyến láy, hay lời ca còn kèm theo các hô từ như: a, i, hò…Từ kích ở học sinh một khả năng cảm thụ về âm nhạc qua các bài hát dân ca và giúp hoc sinh có thể hiểu hơn về cuộc sống của những người nông dân Việt Nam ta ngày xưa diễn ra như thế nào? Trong “Tâm lý học sáng tạo văn học” M. arnaudop có bàn về giá trị nghệ thuật âm nhạc, đã nhấn mạnh vai trò cảm thụ với tu cách là một trong những ngọn nguồn thực sự của bất kỳ một sự nhận thức nào ở chúng ta. Cảm thụ và cảm xúc, tư tưởng hình tượng và tư tưởng trừu tượng, biểu tượng và các cảm giác bắp thịt, có thể được tách bạch về mặt lý thuyết là để phân tích, còn trong thực tế, chúng luôn xuất hiện cùng với nhau và xoắn quyện vào với nhau. Trong bối cảnh của thời kì hội nhập và toàn cầu hóa, khi sự giao thoa và tiếp thu các giá trị văn hóa nói chung và văn hóa dân gian nói riêng đã tạo nên những trào lưu mới trong xã hội và cũng tạo nên những ảnh hưởng không ít tới sự hình thành, phát triển những nét tâm lý, tính cách của thế hệ trẻ. Chính vì vậy, giáo dục âm nhạc truyền thống, trong đó có dạy hát dân ca hình thành cho thế hệ trẻ những tình cảm đúng đắn với âm nhạc nói chung với âm nhạc truyền thống nói riêng và để hình thanh nhân cách của con người Việt Nam chân chính. Trong giáo dục thẩm mĩ thì giáo dục âm nhạc là một trong những phương tiện hiệu quả nhất nhằm hình thành ở học sinh quan hệ thẩm mĩ đúng đắn với hiện thực và với nghệ thuật. Giáo dục thẩm mĩ là giáo dục cái đẹp trong suy nghĩ từ đó có được quan niệm cái đẹp đúng đắn của bản thân để học sinh phân biệt được cái thiện, cái ác, cái chính nghĩa, cái phi nghĩa để rồi hướng tới một nếp sống lành mạnh, tích cực, sống theo quy luật của cái đẹp, biết lắng nghe và hưởng thụ cái đẹp trong cuộc sống từ đó khiếu thẩm mĩ ngày càng được tăng lên. Âm nhạc là ngôn ngữ nghệ thuật âm thanh mang đặc trưng của biểu hiện là ngôn ngữ biểu cảm tình cảm. Do đó, âm nhạc cũng là một trong những 18 môn học quan trọng giúp cho học sinh hình thành nhân cách, có lối sống lành mạnh, tư trưởng đạo đức đúng đắn. Các bài hát dân ca có khả năng tác động mạnh mẽ vào tâm tư tình cảm của học sinh, giúp phát triển các phẩm chất tư duy, trí tuệ, những tình cảm đạo đức tốt đẹp và quan trọng hơn hết là hình thành ở học sinh ý thức dân tộc và tình yêu với nền âm nhạc truyền thống. Từ đó học sinh sẽ có ý thức giữ gìn và trân trọng bản sắc văn hóa dân tộc mình. Dạy hát dân ca cho học sinh là nhằm giáo dục cho học sinh những tình cảm tốt đẹp với văn hóa truyền thống. Khi được nghe, học các bài hát dân ca đã dần hình thành trong học sinh tình cảm yêu thích. Đó cũng là con đường ngắn nhất nhằm bồi dưỡng thị hiếu và tình cảm đạo đức đúng đắn cho học sinh. Việc đưa dân ca vào trong nhà trường là thực hiện theo chủ trương Bộ Giáo dục và Đào tạo, đã có chú ý, hưởng dẫn để các trường học triển khai đưa dạy và học dân ca vào nhà trường góp phần vào việc bảo tồn, phát huy giá trị văn hoá của dân ca. Phát huy những giá trị truyền thống trong bối cảnh hiện nay, đáp ứng được phần nào nhu cầu về kiến thức âm nhạc dân gian. Bởi dân ca là tinh hoa văn hoá đặc sắc, là linh hồn của dân tộc, thông qua những điệu hò, tiếng ru, những câu ca, ví dặm đã hình thành nhân cách của mối chúng ta. Trải qua bao biến cố thăng trầm của lịch sử, cùng với sự gìn giữ của dân tộc, dân ca vẫn có sức sống bền chặt trong lòng mỗi người dân Việt Nam. Vì thế dân ca có nhiều ý nghĩa, vai trò giáo dục trong nhà trường. 1.3. Khả năng cảm thụ âm nhạc 1.3.1. Khái niệm âm nhạc “Âm nhạc là nghệ thuật sử dụng âm thanh để tác động đến thính giác” (Mỹ học – Hegen). Âm nhạc là một loại hình nghệ thuật, phản ánh hiện thực khách quan bằng những hình tượng có sức biểu cảm của âm thanh. Cùng với các phương tiện diễn tả âm nhạc như: Giai điệu, tiết tấu, cường độ, âm sắc, cách cấu tạo, hình thức… bản chất thời gian trong âm nhạc làm cho nó có thể truyền đạt và sự vận động của các tình cảm và ý tưởng tất cả những sắc thái tinh tế nhất. (Ngô Thị Nam). 19 Âm nhạc là sự vận động của âm thanh được kiểm soát trong thời gian, âm nhạc là chuỗi liên tục của các âm thanh và những kết hợp âm thanh được tổ chức sao cho gây ấn tượng dễ chịu đến người nghe và có thể hiểu được ảnh hưởng mạnh mẽ của nó đến trí khôn… Những ấn tượng đó có khả năng tác động đến những huyền bí của tâm hồn của chúng ta và các miền tình cảm của chúng ta. Ảnh hưởng này khiến chúng ta sống trong một xứ sở mộng mơ của những ước vọng được lấp đầy hay trong một âm cung mơ mộng. Âm nhạc là một loại hình nghệ thuật kết tinh sự nhạy cảm tinh tế cả tâm hồn và thính giác, thể hiện sự mẫn cảm và tài hoa trong lao động trí tuệ của con người. Âm nhạc là tiếng nói của tình cảm, ở đâu có ngôn ngữ bất lực thì ở đấy bắt đầu có âm nhạc. Âm nhạc có những quy luật riêng, bắt nguồn từ những tính chất đặc biệt của nó. Bản chất thời gian là một trong những tính chất tối quan trọng và đặc biệt của âm nhạc. Với rất nhiều ý kiến của các nhà nghiên cứu, các nhà sư phạm phát biểu về âm nhạc, tựu chung lại có thể hiểu “Âm nhạc là một nghệ thuật lấy âm thanh làm phương tiện biểu hiện để khắc họa cuộc sống và thể hiện tư tưởng, tình cảm của con người”. 1.3.2. Cảm thụ Nói đến cảm thụ là nói đến dạng thông thường nhất của các nội dung cảm tính, nói đến các ấn tượng, do một sự vật nào đó tác động vào các giác quan của chúng ta gây nên: là hình ảnh tâm lý được tạo nên bởi các giác quan bên trong và các rung cảm thông thường, của bất kỳ một cá nhân nào. Người ta chia cảm thụ ra làm hai loại: cảm thụ bất giác và cảm thụ mang tính chất ý trí. Cả hai đều quan trọng đối với một nghệ sĩ thiên bẩm. Cách phân loại này liên quan đến cảm thụ chủ dộng và cảm thụ động. Theo tâm lý học cổ điển, khi một đối tượng được cảm thụ thì nó có thể cảm thụ được như một đối tượng bất biến, cho dù có những thay đổi như: Màu sắc, vị trí, khoảng cách, tùy thuộc vào khả năng liên tục tổng hợp kinh 20 nghiệm quá khứ và những ấn tượng cảm xúc hiện tại. Trẻ em có khả năng tiến hành sự tổng hợp này để thích nghi với thế giới xung quanh. Trong tâm lý học Gestal, sự cảm thụ được hiểu không phải do sự phân tích đối tượng riêng lẻ như những cảm xúc đơn độc mà là bằng một cái nhìn toàn thể những cấu hình được tạo ra từ những quá trình tri giác. Ngày nay, trong tâm lý học cũng có những khuynh hướng nhìn nhận chiều sâu cảm thụ như cái thuộc tính bản năng, còn những hành vi cảm thụ thì có thể được giáo dục. Trong phân loại nếu Geothe đã nói tới khả năng cảm thụ tính sắc bén, nhanh nhạy và chính xác, có thể giữ lại lâu dài trong trí nhớ cũng như ảnh hưởng thuận lời đến sự hồi tưởng của mình thì chúng ta cũng có thể đề cập đến khả năng cảm thụ lý tính, vượt qua mức cảm giác, gắn liền với ý thức. Cảm thụ khác với phân tích và khảo cứu. Cảm thụ đặc biệt cần sự tinh tế, nhạy cảm. Bởi vậy, khi nào tâm hồn con người trở nên trai sạn, tư duy đi theo con đường mòn thì khả năng cảm thụ sẽ kém đi. Không chỉ cần sự nhạy cảm, cảm thụ còn cần cả vốn sống. Khi có vốn thẩm mĩ về đề tài, lĩnh vực nào đó thì sự cảm thụ sẽ trở nên thuận lợi và sâu sắc hơn. Như vậy, cảm thụ sâu sắc hay hời hợt là tùy thuộc vào vốn sống, vốn văn hóa, sự tinh tế, nhạy cảm của tâm hồn mỗi người. Việc khảo cứu phân tích tác phẩm cung cấp những căn cứ cần thiết để cảm thụ đúng. Ví dụ, nhờ sự phân tích của giáo viên, học sinh có thể biết được bài hát “Lý kéo chài - Âm nhạc 8” là bài hát thuộc thể loại dân ca Nam Bộ, nội dung thể hiện tinh thần lao động và niềm lạc quan, yêu đời của người dân đánh cá, đó là cốt lõi để cảm thụ sâu sắc. Cảm thụ bao giờ cũng là những rung động rất riêng, là sự gạn lọc và soi sáng cá nhận với vốn sống, vốn hiểu biết, sự nhập tâm và trình độ tưởng tượng… Vì thế có thể nói cảm thụ là nhận biết cái tế nhị bằng cảm tính tinh vi thông qua việc giác quan tiếp nhận sự khích thích của sự vật bên ngoài.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng