Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khoa học xã hội Triết học Phân tích cơ sở hình thành tư tưởng hồ chí minh...

Tài liệu Phân tích cơ sở hình thành tư tưởng hồ chí minh

.PDF
47
1
65

Mô tả:

lOMoARcPSD|15978022 Đề tài chính- Nhóm 5 - Tthcm Tư tưởng Hồ Chí Minh (Trường Đại học Thương mại) StuDocu is not sponsored or endorsed by any college or university Downloaded by Quang Quang ([email protected]) lOMoARcPSD|15978022 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI KHOA MARKETING BÀI BÁO CÁO THẢO LUẬN HỌC PHẦN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH ĐỀ TÀI: PHÂN TÍCH CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH Giảng viên giảng dạy: Ths.Ngô Thị Minh Nguyệt Nhóm sinh viên thực hiện: 05 Mã lớp học phần: 2217HCMI0111 1 Downloaded by Quang Quang ([email protected]) lOMoARcPSD|15978022 NĂM HỌC 2021 – 2022 Bảng phân công nhiệm vụ của các thành viên ST T 41 Họ và tên MSV Lớp HC Nhiệm vụ Hoàng Thị Huyền 20D22009 0 K56T2 Đề tài phụ 42 Lưu Đỗ Khánh Huyền 20D33016 0 K56T3 Cơ sở thực tiễn 43 Phạm Khánh Huyền 20D13016 4 K56E3 Nhân tố chủ quan Hồ Chí Minh 44 Đinh Quang Khanh 20D30010 9 K56LQ 2 45 Nguyễn Nhân Khánh 20D22002 3 K56T1 Lời mở đầu + lời kết thúc + lời cảm ơn + tổng quát về tư tưởng HCM Cơ sở lý luận 46 Nguyễn Văn Khánh 20D30003 0 K56LQ 1 Word 47 Nguyễn Trung Kiên 20D30010 8 K56LQ 2 Powerpoint 48 Lò Thị Kim 20D30002 9 K56LQ 1 Cơ sở lý luận + thuyết trình 49 Vũ Thị Phương Lam 20D30003 1 K56LQ 1 Đề tài phụ 50 Phạm Hoàng Lâm 20D30003 2 K56LQ 1 Nhân tố chủ quan Hồ Chí Minh + thuyết trình 2 Downloaded by Quang Quang ([email protected]) Nhận xét lOMoARcPSD|15978022 LỜI MỞ ĐẦU Đất nước Việt Nam của chúng ta ngày nay, con người đang được sống dưới mái nhà bình yên, được độc lập tự do nhưng trước đó, nước ta đã phải trải qua bao nhiêu năm chiến tranh. Vậy từ đâu mà chúng ta có được hòa bình như ngày nay? Đó chính là nhờ công lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người là vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, trong thời gian chỉ đạo cuộc kháng chiến, Người không chỉ khai thông bế tắc trong đường lối giải phóng dân tộc, mà Người còn giải quyết đúng đắn, sáng tạo và lãnh đạo thực hiện thắng lợi các vấn đề trọng yếu của cách mạng nước ta. Đặc biệt là tư tưởng của Bác, đường lối cách mạng độc lập gắn liền với chủ nghĩa xã hội, đã tạo nên sức mạnh và phát huy một cách hiệu quả, đem lại thắng lợi rực rỡ cho cuộc cách mạng của nước ta. Dưới ánh sáng của Tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng và dân đã hoàn thành sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ, đưa đất nước đến thời kỳ phát triển mới. Tuy nhiên, sự phát triển đó vẫn chưa xứng với tiềm năng mà nước ta có thể đạt được. Do đó, Đảng và toàn dân vẫn cần phải hàng ngày nghiên cứu và quán triệt, vận dụng đúng đắn và sáng tạo những Tư tưởng mà Bác đã để lại, luôn kiên định mục tiêu chủ nghĩa xã hội, nắm vững quy luật độc lập dân tộc gắn liền dựng nước và giữ nước, thực hiện chính sách đối ngoại hòa bình, tự chủ, góp phần xây dựng thế giới công bằng và bình đẳng. Và để có thể vận dụng một cách đúng đắn Tư tưởng Hồ Chí Minh vào công cuộc này, chúng ta cần phải tìm hiểu cơ sở hình thành Tư tưởng Hồ Chí Minh. 3 Downloaded by Quang Quang ([email protected]) lOMoARcPSD|15978022 MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................................... 3 A.Tổng quan về Tư tưởng Hồ Chí Minh........................................................................5 I. Khái niệm Tư tưởng Hồ Chí Minh.............................................................................5 II. Đối tượng nghiên cứu của môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh.....................................5 III. Phương pháp nghiên cứu.........................................................................................5 1. Cơ sở phương pháp luận của việc nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh..................5 2. Một số phương pháp cụ thể...................................................................................6 B. Nội dung.......................................................................................................................6 I. Cơ sở thực tiễn...........................................................................................................6 1. Thực tiễn Việt Nam cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX............................................6 2. Thực tiễn thế giới cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX...............................................8 II. Cơ sở lý luận.............................................................................................................9 1. Giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.................................................9 2. Tinh hoa văn hóa nhân loại..................................................................................12 3. Chủ nghĩa Mác - Lênin........................................................................................15 III. Nhân tố chủ quan Hồ Chí Minh.............................................................................21 1. Phẩm chất Hồ Chí Minh......................................................................................21 2. Tài năng hoạt động, tổng kết thực tiễn phát triển lý luận.....................................32 C. Kết luận...................................................................................................................... 39 LỜI KẾT......................................................................................................................... 40 LỜI CẢM ƠN................................................................................................................. 41 CÁC TÀI LIỆU ĐÃ THAM KHẢO, SỬ DỤNG.........................................................42 4 Downloaded by Quang Quang ([email protected]) lOMoARcPSD|15978022 A.Tổng quan về Tư tưởng Hồ Chí Minh I. Khái niệm Tư tưởng Hồ Chí Minh Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi. II. Đối tượng nghiên cứu của môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh Đối tượng nghiên cứu của môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm 2 đối tượng: - Hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam thể hiện trong toàn bộ di sản của Hồ Chí Minh. Đó là những vấn đề lý luận và thực tiễn được rút ra từ cuộc đời hoạt động phong phú cả ở trong nước và trên thế giới của Bác phấn đấu cho sự nghiệp giải phóng. - Quá trình hệ thống quan điểm của Hồ Chí Minh vận động trong thực tiễn. Đây là quá trình “hiện thực hóa” hệ thống quan điểm của Bác trong quá trình phát triển của dân tộc Việt Nam. Trong quá trình này, cách mạng Việt Nam luôn luôn là sự vận dụng sáng tạo và phát triển hệ thống quan điểm của Hồ Chí Minh trong những điều kiện mới. III. Phương pháp nghiên cứu 1. Cơ sở phương pháp luận của việc nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh Thống nhất tính Đảng và tính khoa học: Nghiên cứu phải đứng trên lập trường, quan điểm, phương pháp luận chủ nghĩa Mác - Lênin và quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam đồng thời bảo đảm tính khách quan khi phân tích, lý giải và đánh giá tư tưởng Hồ Chí Minh. Thống nhất lý luận và thực tiễn: Hồ Chí Minh coi trọng lý luận và thực tiễn thống nhất chặt chẽ với nhau: Bác nhấn mạnh vai trò của lý luận, chỉ rõ con người sẽ mắc phải căn bệnh “lý luận suông” nếu không áp dụng vào thực tế và Bác không tuyệt đối hóa mặt nào giữa lý luận và thực tiễn. Quan điểm lịch sử cụ thể: Nghiên cứu phải xem xét các quan điểm của Người đã xuất hiện trong lịch sử như thế nào, trải qua giai đoạn phát triển chủ yếu nào và hiện nay trở thành như thế nào; Nắm vững quan điểm này, chúng ta sẽ nhận thức được bản chất tư 5 Downloaded by Quang Quang ([email protected]) lOMoARcPSD|15978022 tưởng Hồ Chí Minh mang đậm dấu ấn của quá trình phát triển lịch sử, quá trình phát triển sáng tạo, đổi mới. Quan điểm toàn diện và hệ thống: Phải luôn luôn quán triệt mối liên hệ qua lại của các yếu tố, các bộ phận khác nhau trong sự gắn kết tất yếu của hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh xung quanh hạt nhân cốt lõi là tư tưởng độc lập, tự do, dân chủ, và chủ nghĩa xã hội; Phương pháp luận này chỉ dẫn cho những người nghiên cứu môn học tư tưởng Hồ Chí Minh giải quyết một cách biện chứng, đúng đắn các mối quan hệ trong tiến trình cách mạng Việt Nam mà tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện. Quan điểm kế thừa và phát triển: Nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh đòi hỏi không chỉ biết kế thừa, vận dụng mà phải biết sáng tạo tư tưởng của Người trong điều kiện lịch sử mới. Phương pháp luận Hồ Chí Minh cho thấy, con người phải luôn luôn thích nghi với mọi hoàn cảnh. Muốn thích nghi, phải luôn luôn tự đổi mới để phát triển. 2. Một số phương pháp cụ thể Phương pháp logic, phương pháp lịch sử và sự kết hợp phương pháp logic với phương pháp lịch sử. Phương pháp phân tích văn bản kết hợp với nghiên cứu hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh. Phương pháp chuyên ngành, liên ngành. B. Nội dung I. Cơ sở thực tiễn 1. Thực tiễn Việt Nam cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX Trước khi bị Pháp xâm lược, Việt Nam là 1 nước phong kiến với nền nông nghiệp lạc hậu. Điều đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho thực dân Pháp tiến hành xâm lược vào năm 1858. Dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, triều đình nhà Nguyễn lần lượt ký kết các hiệp ước đầu hàng, từng bước trở thành tay sai của thực dân Pháp. Từ năm 1858 đến cuối thế kỷ XIX, các phong trào đấu tranh yêu nước chống Pháp xâm lược liên tục nổ ra. Ở miền Nam, có các cuộc khởi nghĩa của Trương Định, Nguyễn Trung Trực. Ở miền Trung, có các cuộc khởi nghĩa của Trần Tấn, Đặng Như Mai, của Phan Đình Phùng. Ở miền Bắc, có các cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Thiện Thuật, Phạm Bành và Đinh Công Tráng, Nguyễn Quang Bích, Hoàng Hoa Thám, v.v...Các cuộc khởi nghĩa, trong đó có những phong trào "Cần Vương" tức giúp vua cứu nước, tuy đều rất anh dũng, nhưng cuối cùng đều thất bại. Điều đó chứng tỏ nhân dân ta rất yêu nước, song 6 Downloaded by Quang Quang ([email protected]) lOMoARcPSD|15978022 giai cấp phong kiến và hệ tư tưởng của nó đã suy tàn, bất lực trước nhiệm vụ bảo vệ độc lập dân tộc. Sau khi đã hoàn thành căn bản việc bình định Việt Nam về mặt quân sự, thực dân Pháp bắt tay vào khai thác thuộc địa Việt Nam một cách mạnh mẽ và từng bước biến nước ta từ một nước phong kiến thành nước thuộc địa và phong kiến dẫn tới có sự biến đổi về cơ cấu giai cấp, tầng lớp trong xã hội: Thực dân Pháp vẫn duy trì nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu với khoảng 95% dân số là nông dân; giai cấp địa chủ được bổ sung, củng cố, tăng cường thêm các điền chủ người Pháp và nước ngoài. Bên cạnh tầng lớp thợ thủ công, tiểu thương, trong xã hội Việt Nam xuất hiện những giai tầng mới - giai cấp công nhân, giai cấp tư sản và tầng lớp tiểu tư sản ở thành thị. Từ đó, bên cạnh mâu thuẫn cơ bản trong xã hội phong kiến là nông dân với địa chủ phong kiến, xuất hiện các mâu thuẫn mới. Mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân Việt Nam với giai cấp tư sản. Mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với chủ nghĩa đế quốc Pháp. Cùng với những biến đổi trên, đến đầu thế kỷ XX, trước ảnh hưởng của các cuộc vận động cải cách, của cách mạng dân chủ tư sản ở Trung Quốc và tấm gương Duy Tân Nhật Bản, ở nước ta xuất hiện các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản với sự dẫn dắt của các sĩ phu yêu nước có tinh thần cải cách. Phong trào Đông Du do Phan Bội Châu khởi xướng (1905-1909); Phong trào Duy Tân do Phan Châu Trinh phát động (1906-1908); Phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục do Lương Văn Can, Nguyễn Quyền và một số nhân sĩ khác phát động (3/1907 – 11/ 1907); Phong trào chống đi phu, chống sưu thuế ở Trung Kỳ năm 1908. Các Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản cũng đều thất bại. Nguyên nhân sâu xa là giai cấp tư sản Việt Nam còn non yếu. Nguyên nhân trực tiếp là các tổ chức và người lãnh đạo của các phong trào đó chưa có đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn. Tinh thần yêu nước vẫn sục sôi trong lòng nhân dân. Tuy nhiên, các phong trào yêu nước chống Pháp trên đều thất bại. Nguyên nhân sâu xa là do thiếu đường lối chính trị đúng đắn, khoa học và sự lãnh đạo của một giai cấp tiên tiến. Cách mạng Việt nam đứng trước cuộc khủng hoảng trầm trọng về đường lối cứu nước. Xuất hiện câu hỏi từ thực tiễn đặt ra là: Cứu nước bằng con đường nào để có thể đi đến thắng lợi? Trong bối cảnh đó, sự ra đời giai cấp mới là giai cấp công nhân và phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân Việt Nam đã làm cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam xuất hiện dấu hiệu mới của một thời đại mới sắp ra đời. Cuối thế kỷ XIX, ở 7 Downloaded by Quang Quang ([email protected]) lOMoARcPSD|15978022 Việt Nam đã có công nhân, nhưng lúc đó mới chỉ là một lực lượng ít ỏi, không ổn định. Đầu thế kỷ XX, công nhân phát triển hơn và trở thành một giai cấp ngay trước Chiến tranh thế giới thứ nhất 1914-1918. Do đặc điểm về nguồn gốc xuất thân và hình thức lao động, lại sống trong bối cảnh của xã hội thực dân nửa phong kiến nên giai cấp công nhân Việt Nam chịu ba tầng áp bức bóc lột: thực dân, tư bản, phong kiến. Họ sớm vùng dậy đấu tranh chống lại giới chủ. Từ hình thức đấu tranh thô sơ như đốt lán trại, bỏ trốn tập thể, họ đã nhanh chóng tiến tới đình công, bãi công. Hồ Chí Minh từng nói: “Chỉ có giai cấp công nhân là dũng cảm nhất, cách mạng nhất, luôn luôn gan góc đương đầu với bọn đế quốc thực dân". Bởi vậy phong trào công nhân và các phong trào yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX là điều kiện thuận lợi để chủ nghĩa Mác-Lênin xâm nhập, truyền bá vào đất nước ta. Chính Hồ Chí Minh là một người đã dày công truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, chuẩn bị về lý luận chính trị, tư tưởng và tổ chức, sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối cách mạng Việt Nam, đánh dấu bước hình thành cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam. Sau đó, chính thực tiễn Đảng lãnh đạo cách mạng Tháng Tám thành công, lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi; lãnh đạo vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là nhân tố góp phần bổ sung, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trên tất cả các phương diện. 2. Thực tiễn thế giới cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX Vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản trên thế giới đã phát triển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Một số nước đế quốc Anh, Pháp, Mỹ, Tây Ban Nha, Ý, Đức, Nga, Nhật Bản, Bỉ, Bồ Đào Nha, Hà Lan, v.v… đã chi phối toàn bộ tình hình thế giới. Phần lớn các nước châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ Latinh đã trở thành thuộc địa và phụ thuộc của các nước đế quốc. Tình hình đó đã làm sâu sắc thêm mâu thuẫn vốn có trong lòng chủ nghĩa tư bản là mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản với giai cấp vô sản ở các nước tư bản; mâu thuẫn giữa các nước đế quốc với nhau; mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc với chủ nghĩa đế quốc. Sang đầu thế kỷ XX, những mâu thuẫn này ngày càng phát triển gay gắt. Giành độc lập cho các dân tộc thuộc địa không chỉ là đòi hỏi của riêng họ, mà còn là mong muốn 8 Downloaded by Quang Quang ([email protected]) lOMoARcPSD|15978022 chung của giai cấp vô sản quốc tế; tình hình đó đã thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới phát triển. Cách mạng Tháng Mười Nga thành công là thắng lợi đầu tiên của chủ nghĩa MácLênin ở một nước lớn rộng một phần sáu thế giới. Cách mạng Tháng Mười Nga đã đánh đổ giai cấp tư sản và giai cấp địa chủ phong kiến, lập nên một xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa. Cách mạng Tháng Mười Nga mở ra một thời đại mới trong lịch sử loài người – thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Ngày 2-3-1919, Quốc tế Cộng sản ra đời ở Mátxcơva trở thành Bộ tham mưu, lãnh đạo phong trào cách mạng thế giới. Dưới sự lãnh đạo của Lênin, Quốc tế Cộng sản đẩy mạnh việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và kinh nghiệm Cách mạng Tháng Mười Nga ra khắp thế giới, thúc đẩy sự ra đời và hoạt động ngày càng mạnh mẽ của các Đảng Cộng sản ở nhiều nước, tác động mạnh mẽ đến phong trào đấu tranh cách mạng ở các nước thuộc địa nói chung, với cách mạng Việt Nam nói riêng. Cách mạng Tháng Mười thắng lợi, sự ra đời của nhà nước Xô Viết, Quốc tế Cộng sản và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô cùng với sự phát triển mạnh mẽ phong trào cộng sản, công nhân và phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới ảnh hưởng sâu sắc tới Hồ Chí Minh trên hành trình đi ra thế giới tìm mục tiêu và con đường cứu nước. II. Cơ sở lý luận 1. Giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam Tư tưởng Hồ Chí Minh có cội nguồn từ những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Khi tôn vinh Người là danh nhân văn hóa kiệt xuất và Anh hùng giải phóng dân tộc, tổ chức UNESCO đã ghi nhận: Nhà văn hóa kiệt xuất Hồ Chí Minh là kết tinh của truyền thống văn hóa ngàn năm của dân tộc Việt Nam và những tư tưởng của Người là hiện thân của những khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc của mình và tiêu biểu cho việc thúc đẩy hiểu biết lẫn nhau.  Chủ nghĩa yêu nước: Trước hết, yêu nước là thuộc tính chung của người Việt Nam. Là một nước nông nghiệp, ngay từ thuở ấu thơ mỗi người dân Việt Nam đã được tiếp xúc với những món ăn thấm đẫm vùng, miền, nghe những lời ru mang nặng tình cảm yêu thương con người và ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước; lớn lên trong cuộc sống cộng đồng, thường xuyên được giáo dục để gắn bó bền chặt, đùm bọc, chở che, giúp đỡ lẫn nhau trước thiên 9 Downloaded by Quang Quang ([email protected]) lOMoARcPSD|15978022 tai, địch họa. Đó chính là yếu tố làm nảy sinh tình cảm đặc biệt đối với quê hương, đất nước trong mỗi người con đất Việt, Người chỉ rõ: “Trừ một bọn rất ít đại Việt gian, đồng bào ta ai cũng có lòng yêu nước”. Trải qua mấy nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, truyền thống yêu nước của dân tộc không ngừng được bồi đắp và phát huy. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước, đó là truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”. Ở Việt Nam, chủ nghĩa yêu nước được thể hiện rất rõ nét từ thời vua Hùng dựng nước cho đến nay với nhiều biểu hiện khác nhau, ở đây tiếp cận dưới góc độ đánh giặc giữ nước thì từ thời Bà Trưng lãnh đạo nhân dân chống hàng vạn quân Nam Hán, tới bà Triệu khi chống quân Ngô đã tuyên bố “Tôi chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá tràng kình ở biển Đông, lấy lại giang sơn, dựng nền độc lập, cởi ách nô lệ, chứ đâu chịu khom lưng làm tì thiếp cho người!”; Trần Bình Trọng khi bị rơi vào tay quân Nguyên - Mông đã khẳng khái trả lời: “Ta thà làm quỷ nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc”, lịch sử thời kỳ nào cũng sáng ngời những tấm gương kiên trung, bất khuất của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Chủ nghĩa yêu nước đã trở thành dòng chủ lưu trong đời sống của người Việt Nam, là giá trị đạo đức cao quý nhất trong bảng thang giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, trở thành “tiêu điểm của các tiêu điểm, giá trị của các giá trị” và là nguồn sức mạnh vô địch để dân tộc ta vượt qua khó khăn, chiến thắng mọi kẻ thù.  Tinh thần đoàn kết nhân ái, khoan dung. "Dân tộc ta là một dân tộc giàu lòng bác ái". Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói như vậy, và chính Người là biểu tượng, là tinh hoa của khoan dung, nhân ái Việt Nam. Sự gắn bó xóm làng, tình làng nghĩa nước, với tình yêu quê hương bắt đầu từ một nền văn minh nông nghiệp hình thành sớm, gắn với làng xóm, mái đình, cây đa, bến nước là cốt lõi văn hóa dân tộc đã trở thành triết lý “trung với nước, hiếu với dân” – cốt cách của con người Việt Nam. Tinh thần cộng đồng, đoàn kết, ý thức dân chủ. Ở Việt Nam, tính cộng đồng và tinh thần đoàn kết là một đặc trưng gốc rễ của làng xã Việt Nam, nó được hình thành từ rất sớm trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, gắn liền với tiến trình đấu tranh 10 Downloaded by Quang Quang ([email protected]) lOMoARcPSD|15978022 của dân tộc, là nét văn hóa đặc trưng của người Việt được bảo tồn từ đời này sang đời khác đã được ông cha ta lưu truyền để dạy bảo con cháu qua ca dao, tục ngữ hay các câu chuyện ngụ ngôn như câu chuyện “Bó đũa”.Trên thực tế, nếu có nhiều cánh tay, nhiều khối óc góp lại cùng làm thì công việc sẽ mau chóng hoàn thành dù cho nó có khó khăn đến đâu.  Truyền thống lao động cần cù và sáng tạo: Cần cù vốn là bản chất tốt đẹp của người lao động; là một trong những truyền thống nổi bật của dân tộc Việt Nam, có sắc thái riêng. Sinh ra trên một địa bàn đất đai nhỏ hẹp, sản xuất nông nghiệp khó khăn, thiên nhiên khắc nghiệt lại luôn bị ngoại xâm Để dọa nên nhân dân Việt Nam sớm có bản năng và ý thức cần cù, kiên nhẫn, chăm chỉ lao động, giản dị và tiết kiệm trong cuộc sống. Việt Nam là quốc gia có khí hậu khá khắc nghiệt, không chỉ nắng lắm mưa nhiều mà còn phải hứng chịu rất nhiều thiên tai như hạn hán, bão lụt, vì vậy để chống chọi với thiên nhiên, để duy trì và ổn định cuộc sống chúng ta phải cần cù. Trong lịch sử dân tộc Việt Nam chúng ta đã dành tới hơn nửa thời gian để tiến hành chiến tranh vệ quốc, mặc dù kết quả cuối cùng chúng ta giành thắng lợi nhưng hậu quả sau mỗi cuộc chiến là sự hoang tàn đổ nát vì vậy để khắc phục hậu quả, ổn định đời sống con người Việt Nam đã rèn cho mình đức tính cần cù. Trong quá trình lao động, nhân dân ta có tinh thần sáng tạo rất cao; luôn sáng tạo kỹ thuật canh tác, dẫn nước, trị thủy; sớm biết nghệ thuật luyện đồng; có nhiều nghề thủ công cổ truyền, nghệ thuật kiến trúc tinh xảo, các công trình đê sông Hồng, kiến trúc Văn Miếu Quốc Tử Giám, chùa Tây Phương… là thành quả lao động cần cù, trí tuệ thông minh sáng tạo và ý thức tự lực tự cường của con người Việt Nam.  Niềm tự hào dân tộc: Với những trang dài lịch sử Việt Nam đã giúp cho những người dân mang trong mình một niềm tự hào một cách mà ít dân tộc nào có được. Ý thức dân tộc, tinh thần độc lập tự chủ, quyết không cam chịu mất nước, không chịu làm nô lệ của nhân dân ta được hun đúc và rèn luyện trong lò lửa các cuộc kháng chiến oai hùng của dân tộc. Nhờ đó mà nhiều lần mất nước, dân tộc ta đều giành lại được, cũng như nhiều lần vượt qua được âm mưu đồng hóa thâm độc của kẻ thù. Những trang sử đánh giặc giữ nước của dân tộc ta đậm khí phách anh hùng. Trong điều kiện đất đai không rộng, người không đông, lại phải luôn đứng trước các đội quân 11 Downloaded by Quang Quang ([email protected]) lOMoARcPSD|15978022 xâm lược lớn mạnh hơn mình gấp nhiều lần, dân tộc ta đã có sự nỗ lực phu thường, và có mưu trí sáng tạo rất cao. Biết dựa vào sức mạnh của toàn dân đánh giặc chứ không phải chỉ có quân đội. Nghệ thuật đánh giặc hết sức độc đáo là lấy ít đánh nhiều, lấy yếu thắng mạnh, kết hợp khéo léo quân sự với ngoại giao… tài thao lược ngoại giao của ông cha ta đã hạn chế mọi cái mạnh, khoét sâu mọi chỗ yếu của địch để chiến thắng. Tự hào dân tộc, tự tôn nền văn hiến quốc gia, trọng trí tuệ và quy tụ người hiền đã trở thành di sản tinh thần quý báu, bệ đỡ tinh thần chính trị và đồng thời là yếu tố chi phối tính chất và hoạt động của các thiết chế chính trị Việt Nam truyền thống phải được coi là một tiền đề hết sức quan trọng cần phải được lường tính khi xây dựng Hệ thống chính trị ở nước ta trong bối cảnh hiện nay. 2. Tinh hoa văn hóa nhân loại  Tinh hoa văn hóa Phương Đông: Về Nho Giáo, Sinh ra trong gia đình có truyền thống Nho học, Hồ Chí Minh có một quá trình tiếp biến Nho giáo rất căn bản và có hệ thống: Từ tiếp thu di sản Nho học từ người cha, đến học tập các thầy đồ nổi tiếng một thời như Hoàng Phan Quỳnh, Vương Thúc Quý, Trần Nhân, v.v..; từ việc học tập qua trao đổi với các nhà nho thế hệ cha chú như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, đến quá trình tự học lâu dài, bền bỉ; từ tiếp thu di sản Nho học đến tiếp biến Nho học, tổng hoà giá trị của Nho học với tinh hoa lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng dân chủ phương Tây; từ sáng tạo tư tưởng dựa trên di sản Nho học đến hiện thực hóa tư tưởng ấy trong thực tiễn cách mạng; từ sự khai thác mang tính cá nhân, đến đúc rút các quan điểm mang tính định hướng cho việc khai thác di sản tư tưởng Nho giáo. Một số dẫn chứng như trên cho thấy, Nho giáo được nhận diện trong quan niệm của Hồ Chí Minh: Là Nho giáo thời Tiên Tần, hay là học thuyết Khổng Mạnh; là một hệ thống tư tưởng, chứ không phải là một tôn giáo; cốt lõi của Nho giáo là học thuyết về đạo đức, học thuyết về xử lý các mối quan hệ đạo đức cơ bản của xã hội; Nho giáo ra đời trong những điều kiện lịch sử cụ thể, chịu sự chi phối của bối cảnh ra đời, có nhiều ưu điểm, song cũng có cả những hạn chế, và trong đó, nếu nhìn vào cốt lõi của nó (học thuyết về tu dưỡng đạo đức cá nhân), thì ưu điểm là nổi bật, cần kế thừa và phát huy. Những nhà tư tưởng sáng lập ra Nho giáo, ở thời đại của họ, đều xứng đáng là những vĩ nhân, những nhà lý luận cách mạng; Nho giáo đã từng bị các triều đại phong kiến lợi dụng. Hồ Chí Minh đã kế thừa, sử dụng nhiều phạm trù, mệnh đề, có giá trị và sức sống 12 Downloaded by Quang Quang ([email protected]) lOMoARcPSD|15978022 của Nho giáo, đồng thời đã bổ sung, phát triển những nội dung mới, phù hợp với thời đại. Bên cạnh đó, bác cũng đã tiếp thu và thực hành một số nguyên tắc tư duy của Nho giáo, Bác đã tiếp thu và thực hành triết lý sống của các bậc đại Nho với các nguyên tắc tư nhân, nhập thế, tự nhiệm, dĩ thân vi giáo, v.v… Đồng thời, Người cũng phê phán những yếu tố duy tâm, lạc hậu, phản động như tư tưởng đảng cấp, khinh lao động chân tay, nói chung là khinh thường thực nghiệp, danh lợi của đạo Nho. Người nhận rõ được vai trò của người phụ nữ Việt Nam cũng bình đẳng với các bậc nam nhân và Người đã trao tặng cho phụ nữ Việt Nam 8 chữ vàng là “anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”. Về Phật Giáo: Xuất thân của Người ở miền Trung, sống trong một quốc gia có nhiều loại hình tôn giáo, tín ngưỡng đan xen, hòa quyện với nhau, nhưng vai trò Phật giáo dường như đứng ở vị trí nối kết dung thông, khoan hòa, khoan dung trong đời sống tâm linh. Điều này đã ảnh hưởng ít nhiều đến tư tưởng về giá trị của Phật giáo ở Bác. Hồ Chí Minh sớm nhận thấy giá trị Phật giáo là một bộ phận cấu thành của văn hóa và là di sản của văn hóa của con người Việt Nam. Người lý giải rằng: “Vì lẽ sinh tồn cũng như vì mục đích của cuộc sống loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ phục vụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa”. Qua lăng kính về giáo lý của Phật giáo, cho chúng ta thấy, những ảnh hưởng của giáo lý nhà Phật đã ảnh hưởng đến Bác rất rõ nét. Người đã gạn lọc, kế thừa, cách mạng hóa những hạt nhân hợp lý trong triết lý đạo Phật, nhất là triết lý đề cao nếp sống đạo đức trong sáng, chủ trương bình đẳng, yêu thương đồng loại, chống điều ác. Người đã nâng nó lên thành ngọn lửa hun đúc cho truyền thống yêu nước, nhân ái của dân tộc, động viên khích lệ đồng bào theo đạo Phật đồng lòng xây dựng đất nước. Đó là lòng yêu thương con người, quên mình vì mọi người, mình vì người khác… Trong giáo lý nhà Phật, “từ bi” là ước vọng mãnh liệt để giải thoát con người thoát khỏi đau khổ. “Bác ái” là lòng thương yêu của mọi người. “Vị tha”, sống vì người khác”, “kết tinh bằng từ bi, trí tuệ, dũng mãnh, hướng dẫn chúng sinh đạt tới mục đích giác ngộ và giải thoát, chuyển cõi sa bà này thành cõi Tịnh độ và cuộc đời cơ cực này thành nếp sống cực lạc”. Từ triết lý, giáo lý của nhà Phật, Hồ Chí Minh đã tích lũy và hình thành cho mình tư tưởng mang giá trị triết lý nhân văn sâu sắc và chính Người luôn luôn hướng đến Phật pháp. 13 Downloaded by Quang Quang ([email protected]) lOMoARcPSD|15978022 Với Lão Giáo: Lão giáo vốn gần gũi với tín ngưỡng cổ truyền nên khi vào Việt Nam, nó lại bị hoà lẫn đến mức nhiều khi không nhận ra sự tồn tại của nó. Truyền thống hoà hợp với tự nhiên, thờ các vị thần tự nhiên, yếu tố nữ được coi trọng… được phản ánh qua các tôn giáo rất rõ. Ngoài ra, còn có thể tìm thấy nhiều trích dẫn khác nữa về các nhà tư tưởng phương Đông như Lão Tử, Mặc Tử, Quản Tử…trong các bài nói, bài viết của Hồ Chí Minh. Cũng như sau này, khi đã trở thành người mác-xít. Đối với Lão giáo (hoặc Đạo giáo), Hồ Chí Minh chú ý kế thừa, phát triển tư tưởng của Lão Tử, khuyên con người nên sống gắn bó với thiên nhiên, hoà đồng với thiên nhiên, hơn nữa phải biết bảo vệ môi trường sống. Hồ Chí Minh kêu gọi nhân dân ta trồng cây, tổ chức "Tết trồng cây" để bảo vệ môi trường sinh thái cho chính cuộc sống của con người. Hồ Chí Minh chú ý kế thừa phát triển tư tưởng thoát mọi ràng buộc của vòng danh lợi trong Lão giáo. Người khuyên cán bộ, đảng viên ít lòng tham muốn về vật chất; thực hiện cần kiệm liêm chính, chí công vô tư; hành động theo đạo lý với ý nghĩa là hành động đúng với quy luật tự nhiên, xã hội. Hồ Chí Minh còn chú ý kế thừa, phát triển nhiều ý tưởng của các trường phái khác nhau trong các nhà tư tưởng phương Đông cổ đại khác như Mặc Tử, Hàn Phi Tử, Quản Tử, v,v...Và, Hồ Chí Minh cũng chú ý tìm hiểu những trào lưu tư tưởng tiến bộ thời cận hiện đại ở Ấn Độ, Trung Quốc như chủ nghĩa Găngđi, chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn. Hồ Chí Minh đã phát triển sáng tạo các quan điểm về dân tộc, dân quyền, dân sinh của Tôn Trung Sơn trong cách mạng dân chủ tư sản thành tư tưởng đấu tranh cho Độc lập - Tự do - Hạnh phúc của con người và dân tộc Việt Nam theo con đường cách mạng vô sản. Là nhà mácxít sáng tạo, Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát triển những tinh hoa trong tư tưởng, văn hóa phương Đông để giải quyết những vấn đề thực tiễn của cách mạng Việt Nam thời hiện đại.  Tinh hoa văn hóa Phương Tây: (Trong hành trình cứu nước của mình) Sống ở giữa nơi hợp lưu của các dòng văn hóa thế giới, Nguyễn Ái Quốc có điều kiện thuận lợi để nhanh chóng chiếm lĩnh vốn tri thức của thời đại, đặc biệt là truyền thống văn hóa dân chủ và tiến bộ của nước Pháp. Nguyễn Ái Quốc còn thường xuyên tham gia các buổi sinh hoạt ở Câu lạc bộ Faubourg (Câu lạc bộ ngoại ô). Ở đây có một không khí thân mật và dân chủ, giống như ở các câu lạc bộ Jacobin thời Đại cách mạng Pháp. Người ta thảo luận về mọi vấn đề, từ thiên văn, địa lý, chính trị, văn học cho đến cách trồng cải xoong và nuôi ốc sên, cả những vấn đề thôi miên, bản năng, siêu hình, phụ đồng, mộng mị, về sự chết, thuyết luân hồi... Hầu hết trong những buổi mít tinh này, Nguyễn Ái Quốc đều phát biểu ý kiến và khi phát biểu Người thường khéo lái những vấn đề đang thảo luận sang vấn đề thuộc địa, đặc biệt là vấn đề Việt Nam. Nhận xét về những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc trong Câu lạc bộ, ông Léo Poldes - Chủ nhiệm Câu lạc bộ, đã viết: "Chỉ là người thợ ảnh giản dị ở ngõ hẻm Côngpoanh, ông đã từng tham dự với chúng tôi trong những cuộc thảo luận 14 Downloaded by Quang Quang ([email protected]) lOMoARcPSD|15978022 náo nhiệt. Ngày những người cừu địch với ông không ai không thán phục trí thông minh, tài năng và lòng thành thực của ông" Nguyễn Ái Quốc tiếp xúc với nền văn hóa phương Tây và tiếp thu tinh hoa văn hóa của nó. Đặc biệt, Người đánh giá cao những thành tựu to lớn mà cách mạng tư sản đem lại cho nhân loại trên con đường của tự do dân chủ và văn hóa. Người quan tâm tìm hiểu những khẩu hiệu nổi tiếng đó trong các cuộc cách mạng tư sản ở Anh, Pháp, Mỹ. Người đã có dịp tìm hiểu cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân dân Mỹ với bản Tuyên ngôn độc lập nổi tiếng năm 1776. Người đánh giá đây là cuộc cách mạng không triệt để và khẳng định không đi theo hình mẫu của cách mạng đó. Nghiên cứu cách mạng tư sản Pháp năm 1789, Người rút ra 5 bài học mà cách mạng Pháp dạy cho chúng ta: Dân chúng công nông là gốc cách mệnh; Cách mệnh thì phải có tổ chức rất vững bền mới thành công; Đàn bà trẻ con cũng giúp làm việc cách mệnh được nhiều; Dân khí mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng không chống lại; Cách mệnh Pháp hy sinh rất nhiều người mà không sợ; ta muốn làm cách mệnh thì cũng không nên sợ phải hy sinh. Người đã kế thừa, phát triển những quan điểm nhân quyền, dân quyền trong Bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của Mỹ, Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền năm 1791 của Pháp và đề xuất quan điểm về quyền mưu cầu độc lập, tự do, hạnh phúc của các dân tộc trong thời đại ngày nay. Trên hành trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã tiếp thu các tinh hoa văn hóa nhân loại một cách có chọn lọc rồi vận dụng tinh hoa đó một cách sát hợp vào những điều kiện cụ thể của đất nước, của dân tộc vì mục đích không chỉ cho sự nghiệp giải phóng dân tộc mình mà còn góp phần tích cực nhất vào sự nghiệp của các dân tộc khác trên thế giới. Nhờ cách tiếp thu sáng tạo những di sản này để mưu cầu hạnh phúc cho dân tộc và loài người và với nhiều cống hiến khác trong giáo dục nghệ thuật, giao lưu quốc tế và giữ gìn bản sắc dân tộc. 3. Chủ nghĩa Mác - Lênin  Chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận trong nhận thức và hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh. Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và thời đại mới cũng như chủ nghĩa Mác Lênin là cơ sở lý luận quyết định bước phát triển mới về chất trong tư tưởng Hồ Chí Minh, khiến Người vượt hẳn lên phía trước so với những người yêu nước cùng thời. 15 Downloaded by Quang Quang ([email protected]) lOMoARcPSD|15978022 Ngay từ cuối những năm 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh khẳng định rằng: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lênin”. Đối với Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác - Lênin là thế giới quan, phương pháp luận trong nhận thức và hoạt động cách mạng. Trên cơ sở lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã triệt để kế thừa, đổi mới, phát triển những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, tinh hoa văn hóa nhân loại kết hợp với thực tiễn cách mạng trong nước và thế giới hình thành lên một hệ thống các quan điểm cơ bản, toàn diện về cách mạng Việt Nam. Chủ nghĩa Mác - Lênin là nguồn gốc lý luận chủ yếu quyết định sự hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh. Trước hết, chủ nghĩa Mác - Lênin đã cung cấp cho Chủ tịch Hồ Chí Minh thế giới quan, phương pháp luận khoa học, những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; đồng thời, đặt “hòn đá tảng” những vấn đề có tính nguyên tắc về lập trường quan điểm, về tinh thần xử lý mọi việc. Những phạm trù cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh cũng nằm trong những phạm trù cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Những cống hiến đó có được trước hết do Người đã nắm được bản chất cốt lõi, “linh hồn sống” trong tư tưởng của các nhà kinh điển Mác - Lênin là phép biện chứng duy vật. Người đã vâ ̣n dụng thế giới quan duy vâ ̣t và phương pháp luâ ̣n biện chứng trong viê ̣c tiếp thu, kế thừa tinh hoa văn hóa nhân loại và chuyển hóa được những điều hiểu biết quý báu đó để xây dựng được hệ tư tưởng riêng của mình. Hồ Chí Minh đã không râ ̣p khuôn những tư tưởng cũ bởi chúng có chứa đựng những yếu tố duy tâm, lạc hâ ̣u nhưng Người cũng không “phủ định sạch trơn” vì những tư tưởng ấy còn có cả những yếu tố duy vâ ̣t, tích cực, như vâ ̣y Hồ Chí Minh đã tiếp thu mô ̣t cách có kế thừa và phát triển, theo đúng tinh thần của chủ nghĩa duy vâ ̣t biê ̣n chứng. Chủ nghĩa Mác-Lênin đã tạo ra bước chuyển trong nhận thức của Hồ Chí Minh, từ đó Người tìm ra con đường giải phóng dân tộc, giải quyết đúng đắn các vấn đề thực tiễn đặt ra của cách mạng Việt Nam. Đối với Người, đến với chủ nghĩa Mác - Lênin cũng có nghĩa là đến với con đường cách mạng vô sản. Từ đây, Người thực sự tìm thấy con đường cứu nước chân chính, triệt để: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản" và "chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì 16 Downloaded by Quang Quang ([email protected]) lOMoARcPSD|15978022 mới giải phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới". Sơ thảo lần thứ nhất những luâ ̣n cương về vấn đề dân tô ̣c và thuô ̣c địa của V.I.Lênin đã diễn đạt mô ̣t cách đầy đủ và sâu sắc những điều mà Hồ Chí Minh lúc bấy giờ đang nung nấu, đã giúp Người tìm ra con đường chân chính cho sự nghiê ̣p cứu nước, giải phóng dân tô ̣c. Đó là bước chuyển lịch sử trong cuô ̣c đời hoạt đô ̣ng cách mạng của Nguyễn Ái Quốc: từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, tìm thấy con đường giải phóng dân tô ̣c mình trong sự nghiê ̣p giải phóng tất cả các dân tô ̣c, đồng thời cũng đánh dấu bước ngoă ̣t mới của cách mạng nước ta, mở ra bước chuyển biến cho bao thế hê ̣ người Viê ̣t Nam: từ người yêu nước thành người cô ̣ng sản.  Tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh trở thành người cộng sản với tầm vóc trí tuệ lớn. Bắt gặp và tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã trở thành người cộng sản với tầm vóc trí tuệ lớn. Thế giới quan và phương pháp luận Mác – Lênin đã giúp Hồ Chí Minh nhìn nhận, đánh giá phân tích tổng kết các học thuyết, tư tưởng, đường lối các cuộc cách mạng một cách khoa học; cùng với kinh nghiệm hoạt động thực tiễn của mình để đề ra con đường cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn. Hồ Chí Minh trở thành người cộng sản trên cơ sở hiểu biết sâu sắc kho tàng tri thức của nhân loại từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây. Về việc đó, Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo Giêxu có ưu điểm là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó phù hợp với điều kiện nước ta. Khổng Tử, Giêxu, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng phải đã có những ưu điểm chung đó sao? Họ đều muốn "mưu hạnh phúc cho loài người, mưu phúc lợi cho xã hội". Nếu hôm nay họ còn sống trên đời này, nếu họ hợp lại một chỗ, tôi tin rằng họ nhất định chung sống với nhau rất hoàn mỹ như những người bạn thân thiết. Tôi cố gắng làm học trò nhỏ của các vị ấy". Hồ Chí Minh đã phê phán, gạt bỏ tư tưởng đẳng cấp, khinh lao đô ̣ng chân tay, khinh phụ nữ,…của Nho giáo nhưng Người cũng đã tiếp thu triết lý hành đô ̣ng, tư tưởng nhâ ̣p thế, hành đạo, giúp đời,… Trong nô ̣i dung xây dựng nền đạo đức mới, Hồ Chí Minh đã sử dụng nhiều khái niê ̣m, phạm trù của các tư tưởng đạo đức đã có từ trước, nhất là đạo đức Nho giáo như: trung, hiếu, nhân, nghĩa, cần, kiê ̣m, liêm, chính,… và đạo đức phương Tây từ thời cổ đại Hy 17 Downloaded by Quang Quang ([email protected]) lOMoARcPSD|15978022 Lạp – La Mã, như: dân chủ, tự do, công bằng, bác ái,…, nhưng đã đưa vào đó những nô ̣i dung mới, cùng là “Trung”, “Hiếu” nhưng nếu trong tư tưởng đạo đức truyền thống Viê ̣t Nam và phương Đông, trung là trung với vua, hiếu là hiếu với cha, mẹ thì với Hồ Chí Minh, trung là trung với nước – trung thành với sự nghiê ̣p giữ nước và dựng nước của dân tô ̣c, hiếu là hiếu với dân – gắn bó với dân, kính trọng dân, giúp đỡ dân, phục vụ và hướng dẫn nhân dân. Người dẫn lời của Lênin: “Chỉ có những người cách mạng chân chính mới thu hái được những điều hiểu biết quý báu của các đời trước để lại.” Trong bóng tối dày đặc của chủ nghĩa thực dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gặp được ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Tháng 7 nǎm 1920 qua báo Nhân đạo (L'Humanité) Pháp, Người được đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của V.I. Lênin. Bản Luận cương của V.I. Lênin như luồng ánh sáng mặt trời chiếu rọi vào trí tuệ và tâm hồn của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, đem đến cho Người một nhãn quan chính trị mới. Nguyên Cố Tổng bí thư Trường Chinh đã khẳng định: “Luận cương về những vấn đề dân tộc và thuộc địa đến với Người như một ánh sáng kỳ diệu nâng cao về chất tất cả những hiểu biết và tình cảm cách mạng mà Người hằng nung nấu”. Sự kiện được đọc bản Luận cương của V.I. Lênin, cùng với những hoạt động sát cánh với các tầng lớp công nhân, trí thức Pháp và các đại biểu thuộc địa, cùng đồng bào mình trên đất Pháp trước đó, là tiền đề có tính quyết định việc Người bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) và thành lập Đảng Cộng sản Pháp, tại Đại hội của Đảng Xã hội Pháp lần thứ XVIII tổ chức ở thành phố Tua (Tours), tháng 12/1920. Người đã trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và cũng trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên. Đó là một sự kiện chính trị vô cùng quan trọng trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Tổng kết kinh nghiệm thắng lợi của cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định: “Chúng tôi giành được thắng lợi đó là do nhiều nhân tố, nhưng cần phải nhấn mạnh rằng - mà không phải chỉ nhân dịp kỷ niệm lần thứ 100 ngày sinh Lênin - chúng tôi giành được những thắng lợi đó trước hết là nhờ cái vũ khí không gì thay thế được là chủ nghĩa Mác – Lênin.  Hồ Chí Minh không những đã vận dụng sáng tạo mà còn bổ sung, phát triển và làm phong phú chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại mới. 18 Downloaded by Quang Quang ([email protected]) lOMoARcPSD|15978022 Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh không những đã vận dụng sáng tạo, mà còn bổ sung, phát triển và làm phong phú chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại mới. Trong các vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc; chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; các vấn đề xây dựng Đảng, Nhà nước, văn hóa, con người, đạo đức, v.v. Hồ Chí Minh đều có những luận điểm bổ sung, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin. Tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập tự do” là điểm xuất phát của Tư tưởng Hồ Chí Minh. Dưới ánh sáng Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin và tấm gương cách mạng Tháng Mười Nga, Người đã khẳng định: Chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa Cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và giai cấp công nhân toàn thế giới. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải thực hiện được sự liên minh chiến đấu giữa vô sản ở thuộc địa với vô sản ở chính quốc nhịp nhàng như hai cánh của một con chim. Cách mạng ở thuộc địa không chỉ trông chờ vào kết quả của cách mạng vô sản ở chính quốc mà phải tiến hành song song với cách mạng ở chính quốc, hơn nữa nó cần phải chủ động và có thể giành thắng lợi trước, và bằng thắng lợi của mình nó có thể đóng góp vào sự nghiệp giải phóng anh em vô sản ở phương Tây. Đó là một luận điểm sáng tạo mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cống hiến vào sự phát triển lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin về cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa. Trong khi giải quyết những vấn đề của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin trên nhiều vấn đề quan trọng, đặc biệt là lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội ở các nước thuộc địa và phụ thuộc. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần IX (2001), lần thứ XI đều viết: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta.”. Hồ Chí Minh đã tiếp nhận những bài học sâu sắc từ Lênin và Cách mạng Tháng Mười Nga nhưng Người không rập khuôn, sao chép theo nền tảng đó mà tiếp thu cái tinh thần của Chủ nghĩa Mác – Lênin. Qua luận cương của Lênin, Hồ Chí Minh đã thấy được cái cần thiết cho dân tộc Việt Nam – con đường giải phóng dân tộc. Từ nhu cầu thực tiễn của cách mạng Việt Nam, từ những hiểu biết sâu sắc văn hóa phương Đông, văn hóa Pháp, Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển Chủ nghĩa Mác – Lênin, Người cho rằng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở các thuộc địa không hoàn toàn phụ thuộc vào cách 19 Downloaded by Quang Quang ([email protected])
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan